Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

PNHĐ4: "Nhầm vai", "lỡ miệng" và bức Công văn bí ẩn

"Nhầm vai", "lỡ miệng" và bức công văn bí ẩn
Lại thêm một đại biểu doanh nhân ngồi nhầm vai, những lình xình mới trong chuyện xét duyệt giải thưởng và sự lỡ miệng của một quan chức khi phát ngôn về vấn đề lao động Trung Quốc là những lát cắt tuần này.
Dân biểu  - doanh nhân và sự  "nhầm vai" khó tránh
Phát biểu kết thúc Kỳ họp thứ nhất Quốc hội khoá XIII, Tân Chủ tịch Nguyễn Sinh Hùng nói với báo chí rằng ông sẽ không ngồi nhầm vai. 
"Trước đây, tôi làm bộ trưởng là thủ trưởng, sang làm phó thủ tướng là giúp việc, tôi vẫn làm đúng vai. Bây giờ... sang làm chế độ hội nghị - nghị trường là dân chủ, là quyết định tập thể thì khác, tôi sẽ tập dần, và tập qua 14 ngày cũng thấy được rồi."
Nhưng không như ông chỉ  trong 2 tuần vào vai mới đã thấy "được rồi", một đồng nghiệp của ông là đại biểu Quốc hội Đỗ Thị Thu Hằng, sau tới 3 tuần, mà  vẫn nhầm vai. 
Chả là vào sáng 15-8, khi tiếp xúc cử tri tại xã Bàu Hàm 2, huyện Thống Nhất, tỉnh Đồng Nai, vị nữ đại biểu QH này lại vào nhầm vai "doanh nhân".
Khi nhiều cử tri đề nghị  Nhà nước xem xét, xử lý những sai phạm tại Công ty CP Sonadezi Long Thành (công ty con của TCT Sonadezi mà bà Thu Hằng làm Chủ tịch kiêm TGĐ), như đã từng xử lý đối với Công ty Vedan, bà Thu Hằng đã thay mặt tổ đại biểu QH tiếp thu ý kiến của cử tri và hứa: "Khi có kết luận của các cơ quan chức năng, với vai trò là cơ quan chủ quản, nếu phát hiện có sai phạm, tôi sẽ cùng với các cơ quan chức năng xử lý theo quy định".
Ô hay, cử tri yêu cầu bà, với tư cách đại biểu QH và trong quyền hạn hiến định của mình, mà thúc đẩy các cơ quan chức năng xử lý nhanh những sai phạm, mà bà lại trả lời với vai trò cơ quan chủ quản, chờ đợi kết luận của các cơ quan chức năng!
Theo nhà báo Nguyên Lê, báo Sài Gòn Tiếp Thị, khi còn là ứng cử viên đại biểu QH, trả lời câu hỏi của báo chí rằng nếu được bầu "đôi vai - ba gánh" (việc Quốc hội, việc doanh nghiệp, việc nhà) có khiến bà gặp nhiều khó khăn không, bà Đỗ Thị Thu Hằng đã dõng dạc nói: "Tôi đã sẵn sàng để gánh cả ba vai."
Có sự "lộn vai"  này, theo thiển nghĩ của người viết, bà Thu Hằng đã không lường trước được việc đóng cùng một lúc "ba vai" nó phức tạp thế nào. Nghệ sĩ kịch nói Đức Khuê của Nhà hát Tuổi Trẻ (mà người viết đã quen trong chuyến  đi Cam Ranh vừa rồi) cũng tâm sự rằng khi được phân  đóng ba vai trong ba vở diễn khác nhau trong một chuyến lưu diễn, việc hoá thân trọn vẹn vào từng nhân vật quả là khó khăn. 
(Có lẽ, ông Nguyễn Sinh Hùng "nhập vai mới" tốt hơn, bởi ông đóng ba vai vào ba giai đoạn khác nhau.)

TS Nguyễn Ngọc Điện, cũng trên SGTT, lại lý giải theo cách khác.
"Chuyện con người ta bị giằng xé giữa các lợi ích trái ngược không hiếm. Vấn đề là trong trường hợp đặc thù này, xung đột diễn ra giữa một bên là lợi ích riêng mà nhân vật chính mong muốn bảo vệ với tư cách chủ doanh nghiệp, với bên kia là lợi ích của cộng đồng mà cũng chính người này cam kết bảo vệ dưới danh nghĩa đại biểu dân cử."
Theo TS Nguyễn Ngọc Điện, không ai cấm, và cũng không thể cấm doanh nhân, bảo vệ các lợi ích thiết thân của riêng mình trong khuôn khổ luật chơi chung.
"Bởi vậy, trong điều kiện doanh nhân đồng thời là dân biểu, phải làm thế nào để người này nhận thấy rằng lợi ích hợp pháp của các cử tri do mình đại diện bao trùm lên tất cả các lợi ích khác, kể cả lợi ích riêng tư", ông nhận định.
Nói gì thì nói, 3 tuần quả là thời gian quá ít ỏi để tân  đại biểu QH Thu Hằng "nhập vai". Hy vọng, những phân tích của truyền thông sẽ giúp bà "nhập tâm", và từ đó "nhập vai" tốt hơn.
Bà Đỗ Thị Thu Hằng, TGĐ SONADEZI
Và bà hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm từ những đồng nghiệp mới tại sân khấu “Quốc Hội”. Như doanh nhân Đặng Thành Tâm, hay bà chị ruột của ông là doanh nhân Đặng Thị Hoàng Yến, chẳng hạn. 

Ông Thành Tâm, hồi còn làm đại biểu HĐND của thành phố HCM, cũng đã từng được các đồng nghiệp, và cả báo giới, “nhắc vở”, khi lỡ “lộn vai”. Chả là trong một kỳ họp HĐND, ông đã lên tiếng khuyên các đại biểu khác đừng “làm khó” lãnh đạo uỷ ban. 

Còn bà Hoàng Yến, ngược lại, đã đạt được được độ “chuyên nghiệp” cao, khi không “nhầm vai” mà tự lên tiếng biện hộ cho mình trong vụ xì căng đan truyền thông liên quan tới ông chồng cũ của bà là một Việt Kiều có tên là Jimmy Trần. Bà đã giao phó toàn bộ công việc “bảo vệ sự trong sáng của một doanh nhân” cho văn phòng luật sư “Vì Dân” (và đại biểu của dân).

Tuy nhiên, về mặt dài hạn, Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng, người đã  "hoá thân" nhanh hơn nhiều so với đồng nghiệp Đỗ Thị Thu Hằng, vẫn cần phải thúc đẩy việc chuyên môn hoá sân chơi này. Tức là  phải xúc tiến việc tạo ra hành lang pháp lý cần thiết  để tăng số đại biểu chuyên trách, tức là mỗi người chỉ phải đóng một vai.
Chứ không thì, những dân biểu - doanh nhân như Thu Hằng và một số người khác, nói theo lời của TS Nguyễn Ngọc  Điện, "vẫn phải đương đầu với định kiến xã hội, đặc biệt là với nỗi nghi ngại về việc dựa vào mãnh lực đồng tiền để thao túng nghị trường, về việc dùng quyền lực nghị viện để phục vụ lợi ích riêng tư".
Giải thưởng Hồ  Chí Minh và bức công văn bí ẩn
Ngày 2.9 năm nay không chỉ là ngày Quốc khánh và là ngày mất của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại, mà đối với một số người, nhất là những ứng cử viên cho giải thưởng Hồ Chí Minh và Giải thưởng Nhà nước, có một ý nghĩa khác thường.
Tuy nhiên, đến giờ phút này, chưa ai trong số những người đó có thể chắc chắn mình có tên trong danh sách trao giải, được công bố vào khoảng 2 tuần tới.
Điều duy nhất người ta có thể biết chắc là nhạc sĩ Phạm Tuyên, tác giả của bài hát "Như có Bác Hồ trong ngày vui đại thắng", không nằm trong danh sách này. Mặc dù, từ cách đây nửa năm, Hội Âm nhạc Hà Nội đã có công văn gửi Bộ Văn hoá - Thể thao - Du lịch và Hội Nhạc sĩ Việt Nam đề nghị xét tặng giải thưởng Hồ Chí Minh cho nhạc sĩ lão thành Phạm Tuyên, người trong sự nghiệp âm nhạc của mình của mình đã sáng tác hàng trăm ca khúc để đời cho thiếu nhi.
Điều này đã được Vụ trưởng Thi đua - Khen thưởng Nguyễn Hải Anh khẳng định trong cuộc họp báo, diễn ra vào ngày 11.8 tại Hà Nội: "Bộ đã có công văn trả lời Hội Âm nhạc Hà Nội thông báo cho NS Phạm Tuyên biết quy trình thủ tục và đề nghị nhạc sĩ làm đúng, nhưng Hội Âm nhạc Hà Nội lại nghĩ có thể làm công văn đưa trực tiếp lên Hội đồng cấp Nhà nước mà không qua cấp cơ sở và cấp bộ. Đó là điều không thể xảy ra được."
Cho dù có  thấy tiếc nuối cho công lao đóng góp của nhạc sĩ  lão thành ở tuổi rất "gần đất xa trời"  này (năm nay nhạc sĩ Phạm Tuyên đã 83 tuổi), nhiều  đồng nghiệp, cũng như người viết, vẫn buộc phải chấp nhận một thực tế "thủ tục là thủ tục". Lời giải thích của vị đại diện của bộ phụ trách văn hoá này là hoàn toàn chấp nhận được về lý.
Tuy nhiên, người viết vẫn thấy "lăn tăn" ở hai điểm.
Thứ nhất, tại sao Hội Nhạc sĩ Việt Nam, nơi được coi là nơi quán xuyến về mặt nghề nghiệp cho các nhạc sĩ trên toàn quốc và cũng là nơi tổ chức hội đồng xét duyệt cấp cơ sở, cho đến giờ vẫn im lặng? Cả việc trả lời công văn của một hội thành viên, lẫn lên tiếng trên truyền thông để giải thích cho rõ ràng.
Trong khi đó, cũng trong cuộc họp báo ngày 11.8, đại diện của Hội Nhạc sĩ Việt Nam lại lên tiếng giải thích về trường hợp xét đợt 2 đối với 2 nhạc sĩ khác là  Đinh Quang Hợp và Ngọc Khuê - hai trong số  5 nhạc sĩ gửi đơn kiện vì bị Hội  đồng Cơ sở loại ra khỏi danh sách xét giải thưởng Nhà nước.
Theo ông Phạm Ngọc Khôi, Bộ VH-TT-DL đã chỉ đạo Hội Nhạc sĩ  Việt Nam "dỡ" cụm tác phẩm ra để xét theo từng tác phẩm, dẫn đến kết quả, chỉ hai nhạc sĩ  Đinh Quang Hợp và Ngọc Khuê đủ tiêu chuẩn và  có tên bổ sung trong danh sách xét giải. Còn  ông Hải Anh đã khẳng định điều này.
Phải chăng, để có thể được đưa vào danh sách xét giải, có lẽ Hội Âm nhạc Hà Nội phải làm  đơn kiện, thay vì lịch sự gửi công văn? Nhưng điều này quả là quá khó, nếu không nói là  không thể, đối với NS Phạm Tuyên. Ông cho biết: "Nếu cần bổ sung tư liệu cần thiết thì tôi sẵn sàng làm, chứ để mà cầu xin, hoặc làm đơn xin thì tôi không làm chuyện đấy đâu."
Thứ hai, một tiết lộ mới từ Hội Nhạc sĩ Hà Nội, cách đây 3 ngày, dường như đã khiến cho phát ngôn của ông Hải Anh càng trở nên kém thuyết phục, nếu không nói là mở ra những nghi vấn về  qui trình xét trao giải lần này.
Trao đổi với báo Hà Nội Mới, vào ngày 16.8, Nhạc sĩ Hồ Quang Bình, Chủ tịch Hội Âm nhạc Hà Nội, cho biết  công văn trả lời duy nhất của Vụ Thi đua - Khen thưởng gửi Hội Âm nhạc Hà Nội đề ngày 11.8.2011.
Nhạc sĩ Phạm Tuyên
"Nếu có  tinh thần trách nhiệm, có  sự trân trọng đối với cống hiến lớn lao của nhạc sĩ Phạm Tuyên thì Vụ  Thi đua - Khen thưởng (Bộ  VH-TT-DL) phải có trả  lời sớm hơn, để nhạc sĩ  Phạm Tuyên có thể kịp thời gửi hồ  sơ theo đúng thủ tục. Đằng này, công văn trả  lời lại đến sau khi đã có  danh sách của Hội đồng cấp Bộ  trình Hội đồng cấp Nhà  nước", Nhạc sĩ Hồ Quang Bình bày tỏ nỗi bức xúc.
Hơn nữa, có  một điều thú vị (mà ít người để  ý và NS Hồ Quang Bình cũng quên nhấn mạnh) là công văn của Vụ Thi đua - Khen thưởng của Bộ VH-TT-DL được gửi đi đúng vào ngày mà bộ này cùng với Hội Nhạc sĩ Việt Nam tổ chức họp báo giải đáp các thắc mắc liên quan đến việc xét giải, trong đó có trường hợp của NS Phạm Tuyên.
Người viết quả  thực không dám nghĩ là họ làm thế với mục đích "giễu cợt" vị nhạc sĩ  lão thành ở cái tuổi 83 này, hay chí ít là  Hội Âm nhạc Hà Nội vì "tội" đã dám "phạm thượng" gửi công văn lên cấp bộ. Một bộ phụ trách về văn hoá ai lại hành động như vậy?!
Nhưng giải thích theo cách khác, thì người viết, với sở học của mình, hoàn toàn bó tay. Hay họ định dành một bất ngờ nào đó cho NS Phạm Tuyên- người đã có  những bài hát rất hay về Đảng, về Bác, và  về thiếu nhi - như họ đã từng làm cách đây 10 năm khi trao cho ông Giải thưởng Nhà nước.
"Trước khi trao giải thưởng, tôi không nhận  được thông báo nào và  cũng không nhận được yêu cầu làm hồ  sơ tham dự", NS Phạm Tuyên kể lại.
Thôi đành "wait and see"! Và trong khi chờ đợi, người viết muốn chia sẻ với độc giả câu nói của nhà  văn Nguyên Ngọc, người cũng có trong danh sách xét trao giải thưởng Hồ Chí Minh lần này, tại lễ  trao giải thưởng của Quỹ Văn hoá Phan Chu Trinh, cách đây 2 năm rưỡi.
"Việc chọn được những người đủ uy tín để trao giải đã nâng cao uy tín của giải", nhà văn Nguyên Ngọc, đại diện ban tổ chức của quỹ này, khẳng định.
Quan chức  "lỡ miệng" và  góc nhìn về lao động Trung Quốc
Dấu ấn cuối cùng của nguyên Bộ trưởng LĐ-TB-XH Nguyễn Thị Kim Ngân liên quan tới lao động xuất khẩu, khi bà cùng với các  đồng nghiệp ở Bộ Ngoại giao đã thành công trong việc thiết lập cầu hàng không đưa hàng ngàn lao động từ Libia về nước, sau bất ổn lớn  ở quốc gia Bắc Phi này. Trong khi đó, sự ra mắt của người kế nhiệm của bà dường như lại gắn với sứ mệnh hồi hương những lao động nhập khẩu "chui" từ quốc gia láng giềng phía Bắc.
Trả lời báo Tuổi Trẻ, Bộ  trưởng Phạm Thị Hải Chuyền thừa nhận trách nhiệm của ngành lao động, bao gồm trách nhiệm thanh tra, giám sát, quản lý lao động, khi một doanh nghiệp như  khí - điện - đạm Cà Mau, chỉ với mảng "đạm"  mà để hơn 600 lao động nước ngoài làm việc không có giấy phép, và chỉ đến khi qua nhiều kênh thông tin mới nắm được.
"Tôi đề nghị  lãnh đạo các sở giúp lãnh đạo địa phương, đồng thời báo cáo kịp thời cho lãnh đạo bộ về diễn biến, nguyên nhân và giải pháp xử lý đúng pháp luật đối với lao động nước ngoài ở  Việt Nam", bà kêu gọi.
Trong khi đó, tại hội nghị  giao ban sáu tháng đầu năm với Sở LĐ-TB&XH các tỉnh, thành phía Nam, do Bộ LĐ-TB&XH tổ chức ngày 15-8, Thứ trưởng Nguyễn Thanh Hòa buông lửng một câu: "Tôi băn khoăn không hiểu vì sao lao động người Trung Quốc lại có mặt ở các công trình trọng điểm quốc gia..."
Nhưng sau đó, khi trả lời phỏng vấn báo Tuổi Trẻ, ông Thanh Hòa lại giải thích rất rõ ràng rằng hiện tượng nhà thầu Trung Quốc trúng thầu các công trình lớn và mang theo lao động của họ vào Việt Nam làm việc đã xuất hiện vài năm nay. Ông Thanh Hoà cũng thừa nhận trách nhiệm quản lý chưa chặt chẽ của nhiều bộ, ngành, trong đó có bộ của ông. Đó là nhận xét hoàn toàn không mới mẻ gì, và cũng dễ  được chấp nhận.
Tuy nhiên, hai lý do mà  ông thứ trưởng phụ trách mảng lao động này  đưa ra liên quan đến lao động Việt Nam dường như lại rất khó chấp nhận.
Thứ nhất, theo ông Thanh Hoà, nhiều địa phương chưa đáp ứng được về  nguồn lực, khi nhà thầu Trung Quốc đặt vấn  đề tuyển dụng tại chỗ, và vì vậy họ  phải đưa lao động của họ vào làm việc, vì  họ còn trách nhiệm với tiến độ công trình.
Phó Giám đốc Sở  LĐ-TB-XH Cà Mau, nơi nhà thầu Trung Quốc đang thi công nhà máy khí - điện - đạm và đang sử dụng hơn 1000 lao động không phép trên tổng số 1700 lao động người Trung Quốc, lại dẫn chứng ngược lại, khi cho biết rằng nhà thầu chưa có bất cứ văn bản nào gửi cơ quan quản lý địa phương về nhu cầu lao động tại công trường để bên ông cung cấp lao động người Việt Nam
"Vừa rồi chúng tôi vào làm việc, mấy ảnh (nhà thầu) thừa nhận vấn đề này", ông Lê Thanh Tòng nói.
Thứ hai, ông Thanh Hoà  giải thích rằng trong một số nhóm công việc, lao động của Việt Nam không đáp ứng được các kỹ năng mà  nhà thầu đòi hỏi, cũng như ý thức kỷ  luật và năng suất làm việc của lao động Việt Nam kém.
Nhiều độc giả báo Tuổi Trẻ đã lập luận rằng vậy tại sao các nhà thầu có trình độ cao hơn hẳn các nhà thầu Trung Quốc như Nhật Bản, hay Hàn Quốc lại vẫn yên tâm sử  dụng lao động Việt Nam. Hơn nữa, nếu nói lao động Việt Nam kỹ năng kém thì xưa nay các công trình lớn và đòi hỏi kỹ thuật cao hơn nhiều, như  liên doanh tìm kiếm dầu khí, xây dựng nhà máy lọc dầu, thủy điện Hòa Bình, Trị An, xây cầu Mỹ Thuận, cầu Cần Thơ... thì nhà  thầu nước ngoài có sử dụng lao động ở  đâu?
Mặc dù vậy, cũng có một độc giả tên Nguyễn Văn Hà, người tự  nhận là đã làm việc với những nhà thầu Trung Quốc này, chia sẻ nhận xét này của ông Thanh Hoà, nhưng đưa ra cách lý giải dễ chấp nhận hơn.
"Họ chấp nhận tốn chi phí hơn để đưa công nhân phổ thông của họ sang, họ được lợi gì? Ngôn ngữ chung, họ dễ bảo nhau, năng suất làm việc cao hơn. Là một ông chủ, ai cũng biết nên chọn bên nào có lợi nhất", vị độc giả này lập luận. 
Độc giả Văn Hà cho rằng, bên cạnh việc đưa ra hành lang pháp lý buộc họ phải sử dụng lao động của Việt Nam, thì cũng phải có biện pháp để họ an tâm sử dụng lao động đó. "Dạy nghề, dạy kỹ năng cho lao động của mình là việc làm bắt buộc", độc giả Văn Hà gợi ý. 
Người lao động Trung Quốc tại Việt Nam
Nói Bộ LĐ-TB-XH không có  những dự án dạy nghề, dạy kỹ năng cho lao động Việt Nam quả là oan cho họ. Bởi nếu không thì sự hiện diện của họ nào có ý nghĩa gì.
Tuy nhiên, theo Thứ trưởng Thanh Hoà, các dự án của bộ này chủ yếu  ở "tầm vĩ mô" (hơi khó hiểu, phải không quý độc giả?), đào tạo ngắn hạn.
"Trong khi dự báo thị trường của chúng ta không có dự báo cụ thể từng ngành mà dự báo chung ở tầm vĩ mô. Đây chính là hạn chế mà chúng ta phải chấp nhận cho lao động nước ngoài vào làm các nhóm công việc chúng ta không đáp ứng được", ông Thanh Hoà nói.
Kể cũng đáng lo khi trình độ của lao động phổ thông Trung Quốc chỉ có vậy (vốn không tìm được việc làm bên quê nhà, đã và đang tìm cách qua Việt Nam thông qua con đường du lịch), mà lao động Việt Nam cũng không đáp ứng được, theo nhận định của ông thứ trưởng, thì làm sao chúng ta có thể đưa lao động ra nước ngoài làm việc, theo chủ trương lớn của Nhà nước từ trước đến nay?
Ông Thứ trưởng nói như vậy không sợ những thị trường nhập khẩu lao động sẽ nghi ngờ trình độ nguồn nhân lực của chúng ta, và quyết định thay bằng những lao động phổ thông người Trung Quốc, theo nhận xét của ông "vừa có kỷ luật, vừa có năng suất cao với cùng mức lương", hay sao? Đặc biệt là người Trung Quốc rất giỏi trong việc lợi dụng những phát biểu "hớ" của chúng ta để mưu lợi cho họ.
Ở cương vị mới ở cơ quan lập pháp và giám sát hoạt động của ngành hành pháp, bà Nguyễn Thị Kim Ngân chắc chắn sẽ có nhiều việc phải làm trong vấn đề lao động, để giúp cho người kế nhiệm của mình giải quyết vấn đề phát sinh từ nhiệm kỳ bộ trưởng của bà. Và cũng để gỡ thế bí cho "người giúp việc" cũ.
Theo thiển nghĩ của người viết, ý kiến của TS Phạm Bích San, Phó TTK Liên hiệp các Hội Khoa học Kỹ thuật Việt Nam, người đã từng khảo sát các công trường khai thác Bô xít  ở Tây Nguyên, là rất đáng tham khảo. TS Phạm Bích San đặc biệt nhấn mạnh tới yếu tố "lợi  ích nhóm", khi số lượng các công trình Trung Quốc trúng thầu quá lớn và việc cho họ trúng thầu chính là nguyên nhân gốc rễ của câu chuyện lao động Trung Quốc.
Các cụ ta bảo: "Tiền nào của nấy!" Ngoài khía cạnh liên quan đến chất lượng máy móc thiết bị, phần tiền của chủ đầu tư, xét cho cùng là tiền nhà nước và cũng là tiền đóng thuế của dân, lẽ ra dùng để tạo việc làm cho lao động Việt Nam lại dùng để tạo việc làm cho lao động Trung Quốc.
Tưởng rẻ hoá  đắt!

PNHĐ3: Tổng Bí thư "yêu Kiều" và sự sòng phẳng với lịch sử

Phát ngôn&Hành động: Tổng Bí Thư "Yêu Kiều" và sự sòng phẳng với lịch sử

Mục Phát ngôn & Hành động tuần này xin được xin lỗi các độc giả quan tâm đến văn hoá, bởi phải dành đất cho các sự kiện chính trị - xã hội - ngoại giao quá nổi bật. Mặc dù, khái niệm văn hoá, dưới nhiều khía cạnh khác nhau, vẫn xen lẫn vào những sự kiện đó.

Vị Tổng Bí Thư "Yêu Kiều" và lời hứa của các lãnh đạo chủ chốt

Tuần qua, sự kiện quan trọng số một trong đời sống chính trị Việt Nam, không còn bàn cãi gì nữa, là kỳ họp Quốc hội lần thứ nhất của khoá 13, với việc bầu các chức danh chủ chốt điều hành đất nước trong 5 năm tới.

Người được bầu đầu tiên là ông Nguyễn Sinh Hùng, với chức danh Chủ tịch Quốc hội.  Sau khi nhận bó hoa từ tay Tân Chủ tịch Quốc hội, ông Nguyễn Phú Trọng đã nán lại trên diễn đàn ít phút để chia sẻ cảm giác của mình 4 năm về trước, vào một hoàn cảnh tương tự. Ông nhắc lại chuyện ông đã lẩy hai câu Kiều lúc đó: "Nghĩ mình phận mỏng cánh chuồn / Khuôn xanh biết có vuông tròn mà hay".

Không hẳn là khiêm tốn, ông Trọng hiểu cái trách nhiệm lớn lao, trước đất nước, dân tộc mà ông phải đón nhận khi được bầu. Và ông đã cùng các cộng sự ở quốc hội nỗ lực ở mức cao nhất có thể được.
Tuy không phải trách nhiệm nào quốc hội cũng hoàn thành tốt, như mong đợi của cử tri, nhưng, công bằng mà nói, quốc hội khoá 12, dưới sự lãnh đạo của ông, đã làm được một số việc quan trọng. Có thể đơn cử ra hai ví dụ tiêu biểu.
Đó là việc không thông qua đề án đường sắt cao tốc, hao tiền tốn của mà ít hiệu quả.
Đó là việc trong kỳ họp cuối cùng quốc hội đã kiên quyết chất vấn các thành viên chính phủ liên quan về vụ Vinashin, để từ đó chính phủ có những biện pháp quyết liệt để xử lý vụ này, trước khi đã quá muộn.
Chính vì vậy, không phải vô cớ mà Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc đã thốt lên rằng "quốc hội rất thương chính phủ".
Tân Chủ tịch nước, Chủ tịch quốc hội, Thủ tướng và Tổng bí thư ra mắ
Kết thúc dòng tâm sự, ông Trọng, người đang đảm đương vị trí tổng bí thư, lại mượn Kiều để giao "trọng trách" cho người kế nhiệm: "Chén vui nhớ bữa hôm nay/ Chén mừng xin đợi ngày này.. năm năm sau".
Hoàn toàn không phải "phận mỏng cánh chuồn" theo nghĩa kinh nghiệm điều hành, vị Tân Chủ tịch Quốc hội đã có quá nhiều kinh nghiệm với chính phủ, từ vị trí bộ trưởng tài chính đến phó thủ tướng thường trực. Có thể nói, ông thuộc mọi "ngóc ngách" trong việc điều hành kinh tế - tài chính của chính phủ.
Chắc chắn, đó là lợi thế để ông và các đồng sự "thừa kế thành quả và kinh nghiệm các khoá trước, nhất là khoá 12, tiếp tục đổi mới, nâng cao trách nhiệm trước nhân dân, để thực hiện quyền hạn và trách nhiệm mà Hiến pháp qui định, xứng đáng là cơ quan quyền lực cao nhất", như ông đã hứa khi nhậm chức.
Hơn nữa, vị tân chủ tịch quốc hội này, theo lời ông Trọng, lại có may mắn hơn người tiền nhiệm của mình, là có trong tay "một đội hình đẹp". Ông Trọng hình dung rằng sắp tới chủ tịch điều hành ngồi giữa, hai bên có hai phó chủ tịch nữ, một miền Bắc bề thế, một miền Nam xinh đẹp, và hai phó chủ tịch bên ngoài là một người phụ trách về luật pháp và một phụ trách an ninh quốc phòng.
Không hẹn mà gặp! Những hình dung của vị Tổng Bí thư "Yêu Kiều" lại dường như trùng với những cam kết "có gang có thép" của Tân Chủ tịch nước Trương Tấn Sang. Trong bài phát biểu nhậm chức của mình, ông Sang đã nhấn mạnh tới những mục tiêu quan trọng được ưu tiên trong nhiệm kỳ chủ tịch nước của ông là củng cố an ninh quốc phòng để bảo vệ chủ quyền quốc gia, chống tham nhũng và đoàn kết dân tộc.
Về vấn đề chủ quyền biển đảo, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người mà khi ở vị trí Thường trực Ban Bí thư vẫn chưa lên tiếng liên quan đến Biển Đông, đã khẳng định rằng ông sẽ có trao đổi về vấn đề này và thể hiện thái độ của mình. Ông còn hé lộ quyết tâm thúc đẩy quốc hội nhanh chóng hoàn chỉnh và thông qua luật biển, một đề án theo PGS-TS Nguyễn Chu Hồi vẫn ở trạng thái “nhùng nhằng” nhiều năm qua.
"Đương nhiên, trên cơ sở Công ước (của LHQ về Luật Biển), chúng ta phải luật hóa bằng luật quốc nội, để xác lập quyền chiếm hữu biển đảo về mặt pháp lý cũng như về thực địa", ông Sang nói.
Về quyết tâm chống tham nhũng, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang, người đồng thời cũng phụ trách mảng tư pháp, kêu gọi các đại biểu quốc hội (trong đó có cả các thành viên chính phủ) không chủ quan trước lời hứa chống tham nhũng, lãng phí của mình,và kêu gọi nhân dân tích cực kiểm tra, giám sát, kể cả cá nhân ông, để góp phần thúc đẩy việc phòng chống tham nhũng của khóa này có kết quả.
"Ít ra là tốt hơn khóa vừa rồi", ông nói.
Vị Tân Chủ tịch nước cũng kêu gọi xoá bỏ mặc cảm, định kiến về quá khứ, thành phần giai cấp, chấp nhận những quan điểm khác nhau không trái với lợi ích dân tộc. Điểm tương đồng về lợi ích, theo Chủ tịch nước, là mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ, dân giàu, nước mạnh, dân chủ và công bằng.
"Đề cao tinh thần dân tộc, yêu nước, nhân nghĩa khoan dung, để tập hợp, đoàn kết các giai cấp, tầng lớp xã hội, đồng bào các dân tộc, tôn giáo, người Việt Nam định cư ở nước ngoài", ông nhấn mạnh.
Trong khi Tân Chủ tịch Quốc hội và Tân Chủ tịch nước lên tiếng cám ơn những kinh nghiệm quí báu họ thừa hưởng từ những người tiền nhiệm, Tân Thủ tướng của nhiệm kỳ mới đã không cần phải làm vậy. Ông tiếp tục nhiệm kỳ thứ hai của mình mà.
Mặc dù vậy, không thể nói những kinh nghiệm điều hành ở nhiệm kỳ đầu không phải là những bài học quí giá đối với vị lãnh đạo được coi là "quyết liệt" này. Nhất là việc ông phải chèo lái một nền kinh tế trong bối cảnh bất lợi hơn nhiều, so với 5 năm trước
Kinh tế vĩ mô đang cực kỳ bất ổn với những thách thức lớn như lạm phát và chi tiêu công ở mức độ rất cao, hiệu suất đầu tư của toàn nền kinh tế thấp, cũng như việc giải quyết những vấn đề cơ cấu và lợi ích nhóm trong quan hệ công bằng xã hội.
Tuy nhiên, không phải nhiệm kỳ mới của ông không hé ra những thuận lợi, chí ít là khi nguy cơ và cơ hội  trở nên rõ ràng hơn. Quan trọng hơn, ông nhìn nhận rõ hơn những gì là "kỳ vọng ảo".
Và, quan trọng nhất, ông bắt đầu nhiệm kỳ này trùng với những bước đi đầu tiên của một chiến lược 10 năm mới, với một tư duy tăng trưởng mới là "bền vững", dựa vào giá trị gia tăng cao và nguồn nhân lực được đào tạo. Chứ không phải đi nốt chặng cuối cùng của một chặng đường 20 năm dựa trên sự tận khai tài nguyên và nguồn nhân công giá rẻ, như trong nhiệm kỳ trước.
Tuy nhiên, người ta vẫn phải chờ đợi để nghe những định hướng điều hành nền kinh tế trong 5 năm tới của ông. Bởi, như ông giải thích, ông muốn dành cơ hội phát biểu nhân việc tái đắc cử vào tuần sau, khi quốc hội đã phê chuẩn danh sách các thành viên chính phủ cho ông đề cử. 
"Trả lại tên cho anh"
Ngày kỷ niệm thương binh liệt sĩ (27.7) năm nay, có hai sự kiện đặc biệt, nhưng vô tình có liên quan đến nhau.
Thứ nhất, tại Hà Nội đã diễn ra Hội nghị các Tư lệnh Hải quân ASEAN lần thứ 5. Nhiều ý tưởng, sáng kiến đã được đưa ra, để thúc đẩy hợp tác thực chất giữa hải quân ASEAN, như mở rộng hợp tác với các nước ngoài khu vực, phối hợp triển khai chung, tuần tra chung, chia sẻ thông tin, kể cả thông tin tình báo, thiết lập đường dây nóng...
Thứ hai, sau 23 năm, kể  từ trận hải chiến đẫm máu giữa hải quân Việt Nam và Trung Quốc, khi hải quân Trung Quốc đánh chiếm một số điểm thuộc quần đảo Trường Sa của Việt Nam, những người tham gia, đặc biệt là các liệt sĩ và thương binh, đã chính thức được vinh danh trên truyền thông đại chúng của Việt Nam
Các bài báo, hay loạt bài báo, đã kể lại những câu chuyện cụ thể về việc họ đã chiến đấu kiên cường, đã anh dũng ngã xuống như thế nào, hay gan dạ chịu đựng cảnh tù đày thế nào. Người viết thiết nghĩ không cần phải nhắc lại.
9 chiến sĩ khi được Trung Quốc trao trả hàng trên: Lê Văn Đông, Nguyễn Văn Thống, Trần Thiện Phụng, Phạm Văn Nhân, Nguyễn Tiến Hùng; hàng dưới: Trương Văn Hiền, Lê Minh Thoa, Mai Văn Hải, Dương Văn Dũng cùng vợ anh Trần Thiện Phụng và cán bộ dân phòng.
Điều người viết muốn nhấn mạnh ở đây là sự xuất hiện đúng lúc của những bài báo này. Không chỉ thuần tuý là sự vinh danh cần thiết, tuy khá muộn màng, cho những người con đã không tiếc sinh mạng mình, quyết bảo vệ chủ quyền Tổ Quốc. Tấm gương của họ, hơn nữa, đã gợi lại truyền thống anh dũng của những người Việt Nam vốn yêu chuộng hoà bình, nhưng dứt khoát không chịu khuất phục những kẻ có dã tâm cướp đất, cướp nước của họ.

Nhất là trong khi đây đó từ bên ngoài đã xuất hiện những lời đe doạ, dưới hình thức này, hay hình thức khác. Hay, đây đó trong nước có xuất hiện những cảm giác bất an và lo sợ.
Rõ ràng, những người có trách nhiệm trong giới lãnh đạo Việt Nam đã có một quyết định đúng đắn và kịp thời. Mặc dù, người ta hiểu rằng họ vẫn đang phải cân nhắc rất kỹ mọi khía cạnh của vấn đề, trong mối quan hệ giữa một nước nhỏ với một nước lớn, giữa hợp tác và đấu tranh.
 
Tuy nhiên, bên trong sự vinh danh khá ồn ã này, cũng như những hành động đền ơn đáp nghĩa được ca ngợi trên truyền hình, đâu đó dường như vẫn có những tiếng thở dài xen lẫn vào.

Đó là câu hỏi của một người lính hải quân tên Hải ở Quảng Bình, người đã bị thương ở Trường Sa năm 1988, bị bắt và chỉ được trao trả sau khi Trung Quốc và Việt Nam đã bình thường hoá quan hệ, rằng liệu anh và các đồng đội bị thương có được hưởng các chính sách với thương binh, như nhà nước qui định hay không. Việc họ chỉ nhờ phóng viên hỏi hộ, sau hai thập kỷ im lặng, cũng đồng nghĩa với việc cuộc sống của những con người giàu lòng yêu nước và lòng tự trọng này khốn khó đến mức nào.

Đó là câu hỏi của anh hùng chống Mỹ và Khmer Đỏ Phan Văn Xệ, người mà trên cơ thể không có chỗ nào không bị thương, rằng liệu từ giờ đến khi chết mảnh đất mà anh được quân đội cấp có được chính quyền cấp sổ đỏ hay không. Điều đáng buồn hơn là câu hỏi này lại được đặt ra với một đoàn làm phim của Nhật Bản, chứ không phải phóng viên Việt Nam như trường hợp đầu tiên.

Thuyền trưởng Vũ Huy Lễ và tập thể tàu HQ-505


Cũng trong dịp 27.7 năm nay, người viết tình cờ để ý tới một chi tiết. Đó là hình ảnh Trung tướng Trần Đại Quang, hiện là Thứ trưởng Bộ Công An, đến thăm các chiến sĩ công an trong bệnh viện. Họ bị thương trong khi chiến đấu với tội phạm, bảo vệ sự an toàn cho người dân. Có không ít người thậm chí đã hy sinh trong khi làm nhiệm vụ.


Nói chung, tuy cùng là lực lượng vũ trang, nhưng họ chịu thiệt thòi hơn về phương diện hình ảnh trong con mắt người dân, cũng như trong con mắt giới truyền thông, trừ những phương tiện truyền thông của ngành công an. Từ thời chống Pháp, người ta kể rằng các cô dân công tải đạn đã có câu hát: “Trời mưa bong bóng phập phồng/ Ướt công an - công an chịu, ướt vệ quốc đoàn – em thương”.


Một trong những lý do quan trọng là công việc thường ngày của họ là thường phải “cọ xát” với người dân, và họ không nhận được sự thiện cảm cũng là lẽ thường. Hầu như trên toàn thế giới là như vậy, chứ không chỉ ở Việt Nam. Mặc dù, không ít bà mẹ ở Việt Nam thậm chí còn reo rắc mối ác cảm với công an trong đầu đứa trẻ, khi doạ rằng “chú công an sẽ nhốt vào phòng tối, nếu không chịu ăn, hay không chịu ngủ…”


Nhưng, thực sự, cũng có một lý do đáng suy nghĩ. Đó là một số người trong ngành công an trong khi tiếp xúc với dân đã làm ảnh hưởng đến hình ảnh của ngành nói chung. 


Đó là viên sĩ quan đã đạp vào mặt một người biểu tình hôm 17.7, trong khi người này bị các đồng đội của anh ta giữ chặt cả hai chân, hay tay, ở thế nằm ngang lơ lửng trên không. 


Hay đó là câu chuyện viên sĩ quan ở phường Thịnh Liệt đã đánh chết một người, vì tội tháo mũ bảo hiểm ra để nghe điện thoại, khi vẫn ngồi trên xe máy.    


Hay, xa hơn nữa, là viên sĩ quan say rượu đã “nhục mạ” cả Chủ nhiệm Văn phòng Chính phủ Nguyễn Xuân Phúc, khi ông định ngăn cuộc cãi vã do đụng xe. 


Bất luận vì bất cứ lý do gì, họ cũng không xứng đáng với sự cần mẫn, hy sinh âm thầm của những người đồng đội của họ vì sự an lành của người dân. Như những người mà Trung tướng Trần Đại Quang đã đến bệnh viện thăm hôm 26.7 vừa rồi.


Tuy nhiên, người dân cũng nên phân biệt những cá thể đó với lực lượng công an nói chung. Xét cho cùng, trong giới nào mà chả có người tốt, kẻ xấu. 
Hay như lời của nguyên Thường trực Ban Bí thư, nay là Chủ tịch nước, Trương Tấn Sang, đó là những “con sâu làm rầu nồi canh”.
 
"Bản công hàm năm 1958" và sự sòng phẳng với lịch sử

Trong mục "Phát ngôn & Hành động" tuần trước, đồng nghiệp Kỳ Duyên  đã bình luận về bài viết "Công hàm 1958 với chủ quyền Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam", do nhóm đồng nghiệp từ báo Đại Đoàn Kết thực hiện.

Chắc hẳn không phải là người theo dõi kỹ câu chuyện Biển Đông, nhưng, rõ  ràng, đồng nghiệp Kỳ Duyên đã khá tinh khi phát hiện rằng, khi nào Trung Quốc to mồm nhất, thì đó là lúc họ đuối lý nhất. Nói theo kiểu nhà văn Nguyễn Quang Lập, một người cũng ái mộ nữ ký giả Kỳ Duyên, là "chuẩn không cần chỉnh".

Nhưng đọc đi đọc lại bài viết này, người viết vẫn thấy có hai điểm cần bàn thêm.
Thứ nhất, đọc kỹ những cơ sở lập luận, cả về khía cạnh lịch sử, pháp lý lẫn lý luận, thì dường như có sự đóng góp khá quan trọng về tư liệu từ "kho lưu trữ" của Bộ Ngoại giao, thông qua các nhà nghiên cứu thuộc biên chế bộ này.
Thứ hai, cũng với suy luận  đó, tại sao cho đến thời điểm 20.7.2011, bài báo mới xuất hiện, thay vì sau khi báo chí Trung Quốc đưa tin về việc Thứ trưởng Hồ Xuân Sơn hội đàm tháng trước với người đồng cấp phía Trung Quốc,dường như đã đồng ý với luận điểm của phía Trung Quốc liên quan đến bức công hàm?
Cần phải nói thêm rằng, chính sự mập mờ của phía Trung Quốc và sự im lặng đến khó hiểu của phía Việt Nam đã khiến cho dư luận rất bức xúc. Thậm chí, một nhóm nhân sĩ, trí thức, trong đó có cựu Đại sứ Việt Nam tại Trung Quốc Nguyễn Trọng Vĩnh, cùng hai bậc cao niên khác là GS Hoàng Tuỵ, và GS Phạm Duy Hiển, đã phải kiến nghị được gặp một thứ trưởng ngoại giao để nghe giải thích cho rõ ràng. 
Những người theo dõi kỹ  câu chuyện hội nghị ngoại trưởng ASEAN, và các sự kiện đi cùng như hội nghị với các đối tác và diễn đàn an ninh khu vực, có thể lý giải rằng phía Việt Nam có thể đã cân nhắc đến kịch bản rằng nếu Việt Nam không im lặng, biết đâu Trung Quốc lại không ký vào văn bản hướng dẫn việc triển khai DOC, sau 9 năm trì trệ?
Sự thận trọng có lẽ không thừa. Bởi anh hàng xóm xấu chơi có thể lấy cớ nọ, cớ kia để "thoái thác trách nhiệm".
Tuy nhiên, những người khác có thể đặt vấn đề: Nếu cứ e ngại mãi như  thế, họ sẽ tiếp tục "bắt thóp" mà ép điều nọ điều kia. Để rồi đến lúc những người ủng hộ lý lẽ của mình cũng đâm ra bán tín bán nghi về "lập trường" và "cơ sở pháp lý" của mình. Trong cuộc chiến thông tin để họ "thả gà" ra rồi mình "bắt lại" mệt lắm.
Mà Trung Quốc thì thạo cái nghề này lắm. Câu chuyện "Tăng Sâm giết người" trong Cổ học Tinh hoa là một ví  dụ tiêu biểu. Đến Gơ Ben cũng phải gọi bằng "sư tổ".

Còn nhớ, trong hội nghị tuyên truyền về biển bảo đầu năm 2009, tại Đồ Sơn, nhà báo lão thành Phạm Khắc Lãm đã kể rằng hồi ông còn là sinh viên học ở Trung Quốc vào cuối những năm '50, một người bạn Trung Quốc đã nói với ông: "Điện Biên Phủ là chiến thắng của cố vấn Trung Quốc."
Khi ông Lãm hỏi tại sao lại nói vậy, người bạn này giải thích rằng anh ta được học như vậy ở phổ thông. Lý Thông đến thế là cùng!
Nhà ngoại giao kỳ cựu Dương Danh Dy thì cho biết rằng báo chí Trung Quốc, nhất là các mạng, thường tuyên truyền rằng người Việt Nam "ăn cháo đá bát", rằng "Trung Quốc giúp đỡ như vậy trong cuộc kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ mà vô ơn", và thậm chí còn "xâm chiếm lãnh thổ, lãnh hải của Trung Quốc nữa".
Đúng như đồng nghiệp Kỳ Duyên nhận định tuần trước, đã đến lúc phải nhanh chóng minh bạch lịch sử.
Nhà sử học kiêm đại biểu quốc hội Dương Trung Quốc cách đây 8 năm đã từng nói với một ký giả Nhật Bản: "Lịch sử phải sòng phẳng. Đúng là Trung Quốc đã giúp đỡ Việt Nam rất nhiều, từ vũ khí đến nhu yếu phẩm. Thế nhưng, cũng nhờ có Việt Nam đánh Mỹ mà Mao Trạch Đông bắt tay được với Nixon, từ đó phá được thế bao vây cấm vận, và nhờ đó Trung Quốc mới hùng mạnh như ngày nay."
Hơn nữa, xét cho cùng, DOC cũng chỉ là những nguyên tắc xây dựng lòng tin trong ứng xử của các bên trên Biển Đông thôi, và văn bản hướng dẫn mới chỉ là bước đi đầu tiên. Liệu có nên quá thận trọng mà đánh đổi một lòng tin "trên trời" với một anh hàng xóm "khả nghi" với lòng tin với nhau giữa các thành viên trong gia đình, tức là dân tộc này?
Hoàn toàn không nên, theo thiển nghĩ người viết. Thiếu gì cách "vẹn cả  đôi đường".
Thế mới là "quán triệt  đường lối ngoại giao Hồ Chí Minh" !