Thứ Ba, 6 tháng 11, 2012

Trò chuyện với Lê Mạnh Hà

Sân gôn phóng tay, công viên phần mềm lại... tiếc
"Người ta có thể dành hàng chục ngàn héc ta để xây dựng các sân gôn, hay các khu đô thị mới, nhưng lại tiếc khi chỉ có 40 héc ta thôi để làm một công viên phần mềm"

LTSTuanvietnam xin tiếp tục chủ  đề về phát triển của thành phố HCM, thông qua cuộc trao đổi với ông Lê Mạnh Hà, người nhậm chức phó chủ tịch thành phố từ tháng 8/2011.
Nếu như ông Trần Du Lịch đã phần nào giúp  độc giả nhìn lại thành phố HCM sau 20 năm vừa qua, với những thành công và tồn tại, thì ông Lê Mạnh Hà, qua phần trả lời của mình hy vọng sẽ giúp độc giả hiểu thêm về những thách thức mà trung tâm kinh tế hàng đầu của Việt Nam này đang phải đối mặt.
Có điều, bên cạnh những nhận định riêng của mình, ông Lê Mạnh Hà lại gián tiếp nêu những thách thức đó thông qua những gì mà ông và các cộng sự đang tập trung nỗ lực vượt qua.
 Ông  đánh giá thế nào về sự phát triển của công nghiệp thành phố trong thời gian vừa qua?
Thành phố HCM vẫn dẫn đầu cả nước về phát triển công nghiệp. Nhưng tôi vẫn phải thừa nhận rằng sản xuất công nghiệp của thành phố nói riêng, và cả nước nói chung, có hàm lượng chất xám và giá trị gia tăng còn thấp.
Theo tôi, cái "không cao" đó có nguyên nhân chính là trình độ khoa học - công nghệ thấp, khiến nền công nghiệp của chúng ta vẫn ở mức độ gia công là chủ yếu.
Theo ông, cần có những giải pháp cụ thể gì để khắc phục tình trạng này?
Phải tập trung phát triển những ngành có hàm lượng chất xám cao và là lợi thế của người Việt. Có lẽ ai cũng nói thế cả và chúng ta cũng đã đưa ra nhiều ngành và cảm giác như chưa có lựa chọn nào mang tính đột phá.
Vậy phải là ngành nào?
Theo tôi, phải là công nghệ thông tin (CNTT). CNTT có hàm lượng khoa học rất cao, và quan trọng hơn, đây là ngành mà từ khoa học đến ứng dụng rất ngắn, tính khả thi cao.
Khác với nhiều ngành mang tính truyền thống và phải dựa trên nền tảng cơ sở vật chất mạnh cũng như khoa học phát triển cao, CNTT  dựa chủ yếu vào bộ não, là khai thác tài nguyên vô tận, đó là chất xám. Việt Nam có dân số đông, tỷ lệ lao động trẻ rất cao và đặc biệt rất thông minh, giỏi tính toán.
Chúng ta phải tập trung toàn lực cho phát triển ngành này, Việt Nam nói riêng và thành phố Hồ Chí Minh nói riêng.
Xin hỏi ông, riêng thành phố HCM đã làm những gì để phát triển  ngành này?
Thành phố đã làm nhiều việc, nhưng tôi muốn nói đến Công viên phần mềm Quang Trung. Cách đây hơn 10 năm lãnh đạo thành phố HCM đã quyết tâm làm CNTT, và đã quyết định đầu tư một công viên phần mềm.
Đó công việc mạo hiểm, tư nhân chắc chắn không thể làm. Lúc đó có thể nói là khó khăn chồng chất, gánh nặng đè lên vai các đồng chí lãnh đạo, lên vai những người trực tiếp làm công viên phần mềm. Tất cả mọi thứ đều quá mới đối với chúng ta, với thành phố nói riêng và với Việt Nam nói chung.
Thế nhưng, đến hôm nay đây, sau hơn 10 năm từ ngày đó chúng ta có thể khẳng định Dự án trọng điểm xây dựng công viên phần mềm Quang Trung đã thành công.
Chợ Bến Thành, TP Hồ Chí Minh
Thế nhưng, theo báo chí đưa tin, trong kỳ họp Hội đồng Nhân dân thành phố, có những đại biểu cũng chất vấn lãnh đạo về tính hiệu quả của dự án này. Ông nghĩ sao?
Tôi cũng lấy làm lạ là người ta có thể dành hàng chục ngàn héc ta để xây dựng các sân gôn, hay các khu đô thị mới, nhưng lại tiếc khi chỉ có 40 héc ta thôi để làm một công viên phần mềm. Nhà nước đầu tư vào đây cũng chỉ bằng số lẻ của chi phí bù lỗ cho xe buýt một năm, thế mà có người vẫn cho rằng không hiệu quả.
Như tôi đã từng trả lời tại phiên họp HĐND, nếu 40 héc ta này chúng ta kinh doanh địa ốc, xây một khu đô thị nho nhỏ thì có lẽ chỉ vài ngàn, hay cùng lắm là vài chục ngàn người, ở trong nước biết đến. Nhưng khi chúng ta làm phần mềm thì miếng đất này có thương hiệu quốc tế, và mọi người biết Việt Nam có công nghiệp phần mềm.
Nhiều người biết thành phố Hồ Chí Minh có công nghiệp phần mềm, bởi vì họ biết có công viên phần mềm Quang Trung. Cũng như vậy, nhiều người biết Việt Nam làm công nghệ thông tin, và họ biết đến thương hiệu công viên phần mềm Quang Trung.
Tức là lợi ích của khu phần mềm Quang Trung, còn là sự quảng bá cho bên ngoài là người Việt Nam hoàn toàn có thể tham gia vào những ngành sáng tạo, chứ không chỉ cung cúc làm gia công?
Đúng vậy.
Kế hoạch của thành phố sắp tới sẽ là gì?
Từ thành công của Công viên phần mềm Quang Trung, thành phố HCM sẽ xây dựng Công viên phần mềm Quang trung 2 và phát triển thành chuỗi "Công viên Phần mềm Quang trung" ở các tỉnh thành khác.
Tại sao có chuỗi siêu thị Coopmart, có chuỗi phở 24, mà lại không có chuỗi Công viên phần mềm Quang Trung? Các tỉnh như Nam Định, Lâm Đồng và một số tỉnh khác rất hoan nghênh, và sẵn sàng cùng thành phố xây dựng chuỗi. Lãnh đạo Chính phủ, Bộ Thông tin và Truyền thông cũng ủng hộ ý tưởng này.
Thế nhưng hiện nay chủ yếu chúng ta vẫn là gia công phần mềm?
Lúc đầu luôn là như vậy, ngay cả với ngành  đơn giản hơn như may mặc. Trước đây Việt Nam chỉ yếu gia công quần áo xuất khẩu. Hiện nay, chúng ta đã tự thiết kế và may quần áo phục vụ nhu cầu trong nước, cũng như xuất khẩu. Phần mềm cũng như vậy, phải tiến từng bước thôi.
Có một điều mừng là, thực tế hiện nay chỉ có các phần mềm do các công ty nhà nước mới đáp ứng được yêu cầu ứng dụng công nghệ thông tin của các cơ quan nhà nước.
Sắp tới thành phố sẽ đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong các doanh nghiệp và đưa vào nội  tái cơ cấu khu vực doanh nghiệp, bao gồm cả doanh nghiệp quốc doanh và ngoài  quốc doanh. Đây là thị trường rất lớn cho phát triển phần mềm. Tất nhiên, trước mắt là tập trung nhiều hơn vào khu vực doanh nghiệp quốc doanh.
Không có sự phân biệt đối xử ở đây chứ?
(Cười) Không dám đâu.
Thứ nhất, khu vực này thực sự cần phải quan tâm hơn, bởi nó kém năng động và kém hiệu quả hơn.
Thứ hai, cũng dễ làm hơn bởi nó nằm trong tầm tác động trực tiếp của thành phố.  Ủy ban nhân dân thành phố  là chủ sở hữu mà. Thành phố sẽ bắt buộc các doanh nghiệp nhà nước phải đẩy mạnh ứng dụng khoa học, công nghê và công nghệ thông tin.
Ông Lê Mạnh Hà - phó Chủ tịch Tp. Hồ Chí Minh. Ảnh: Huỳnh Phan
Tách riêng câu chuyện phần mềm ra, tôi muốn hỏi ông là thành phố làm thế nào để nâng hàm lượng chất xám, hay hàm lượng giá trị gia tăng, đối với các doanh nghiệp thuộc các lĩnh vực còn lại?
Theo luật, các doanh nghiệp được trích 10% doanh thu trước thuế để lập Quỹ Khoa học và Công nghệ. Chúng tôi yêu cầu các doanh nghiệp nhà nước phải lập quỹ này. Nếu vận hành tốt quỹ này, việc nghiên cứu & phát triển sẽ giúp đẩy mạnh nghiên cứu, khuyến khích sáng tạo và đưa những công nghệ mới vào.
Hơn nữa, cái quỹ này cũng tạo điều kiện tăng sự kết nối giữa giới khoa học ở các viện và các trường với doanh nghiệp. Từ trước đến nay, nếu bên Sở Khoa học & Công nghệ đặt hàng nhà khoa học các viện, các trường nghiên cứu một đề tài khoa học - công nghệ nào đó, thường nó ít gắn với hoạt động sản xuất - kinh doanh của doanh nghiệp.
Tức là chi tiền ra đặt hàng, nghiệm thu, rồi cất ngăn kéo?
Cũng gần như vậy. Lãng phí tiền nhà nước, cũng như thời gian, công sức của giới nghiên cứu.
Tôi cho rằng với doanh nghiệp thì khác hẳn, một khi có lợi họ mới chịu móc hầu bao.
Cho tới nay đã có bao nhiêu phần trăm doanh nghiệp đã lập quỹ khoa học - công nghệ?
Ít lắm, chỉ hai-ba chục doanh nghiệp thôi, cả quốc doanh lẫn ngoài quốc doanh.
Tôi tính rằng nếu nhiều doanh nghiệp tham gia, tổng quỹ khoa học công nghệ có thể lên tới vài ngàn tỷ. Ví dụ, chỉ riêng Quỹ của Tổng Công ty Công nghiệp đã lên tới 100 tỷ đồng. Thế là cả trăm lần so với vài chục tỷ mà nhà nước hàng năm vẫn bỏ ra cho công tác nghiên cứu của cái thành phố 10 triệu dân này.
Tuy nhiên, bên tài chính vẫn quy định về những khoản được chi còn rất hẹp. Tiền của doanh nghiệp mà can thiệp quá sâu như thế là rào cản.
Họ sợ doanh nghiệp trốn thuế?
Chắc là thế. Nhưng tại sao mình cứ phải sợ? Chúng ta vẫn cứ mắc cái bệnh là thiếu lòng tin vào con người, vào doanh nghiệp.  Không thể chỉ vì một tỷ lệ nhỏ doanh nghiệp vi phạm mà không tin tất cả doanh nghiệp rồi cấm đoán tất cả. Một xã hội không thể phát triển nếu thiếu lòng tin.
Một trong những lý do mà doanh nghiệp chưa hào hứng lập quỹ khoa học - công nghệ có phải là do khó khăn về vốn của họ không? Với nhiều doanh nghiệp tồn tại được đã là may rồi, làm sao nghĩ được đến phát triển?
Khó khăn chính là do họ chưa tin các nhà khoa học có thể giúp gì cho họ. Thứ hai là ông tài chính chưa tin họ, bắt họ chỉ được chi theo ý chủ quan của các vị này.
Ngành tài chính kiểm soát từng khoản chi của nghiên cứu khoa học và buộc các nhà khoa học phải nói dối là cái bệnh ai cũng biết từ lâu nay nhưng chưa chữa được. Tôi vẫn nói, quyền lực về tài chính của bộ trưởng Khoa học Công nghệ còn nhỏ hơn một chuyên viên cụ thể của Bộ Tài chính.
Thành phố đã làm gì để khắc phục tình trạng này?
Tôi đã chỉ đạo Sở KHCN thí điểm việc mua sản phẩm khoa học. Nghĩa là với một đề tài nghiên cứu, thành phố mua sản phẩm cuối cùng, giống như một hình thức khoán.
Tức là các nhà khoa học sẽ không phải nộp chứng từ về từng cuộc hội thảo, về từng chi phí nhỏ tí tẹo của từng đề tài. Giống như mua một chiếc ô tô thì chỉ cần hóa đơn của chiếu ô tô, không phải nộp chứng từ mua lốp ở đâu, mua động cơ của ai, mua kính chiếu hậu ở đâu và bao nhiêu tiền.
Hài hước là ở chỗ hiện nay các nhà khoa học phải nộp chứng từ cho từng món như vậy đấy. Họ lo nói dối thì còn đầu óc nào cho sáng tạo nữa.
Nói một cách nôm na, tôi mua sản phẩm khoa học như mua một cái ô tô, một cái máy tính.  Nghe nói Luật KHCN mới cũng đi theo hướng này.
Lòng tin quan trọng lắm. Khoán 10 là tin nông dân và chúng ta xuất khẩu gạo thuộc loại hàng đầu thế giới. Nếu tin nhà khoa học thì chúng ta chắc sẽ có xuất khẩu chất xám cũng phải tầm cỡ thế giới.

Phú Mỹ Hưng chỉ "thiếu" mỗi tấm bảng "khu phố văn hóa"

"Ngành mới thì ai cũng sẽ gặp khó cả. Nói vui chứ nếu doanh nghiệp chúng ta sang Mỹ tuyển nhân lực gói bánh chưng thì cũng gặp khó khăn tương tự, có khi còn khó hơn". - ông Lê Mạnh Hà, phó chủ tịch Tp. HCM.

LTS: Tuanvietnam xin trân trọng giới thiệu phần tiếp theo của cuộc trò chuyện với ông Lê Mạnh Hà, phó chủ tịch thành phố HCM.
Nói đến khu công nghệ cao của thành phố là người ta nghĩ ngay đến Intel. Nhưng dường như Intel cũng không triển khai được dự án đúng như mong muốn của họ, và kỳ vọng của thành phố?
Tôi không nghĩ như vậy. Họ đã xuất được sản phẩm thứ 100 triệu. Tốc độ xuất xưởng lớn nhất trong số tất cả các cơ sở sản xuất của họ. Đến nay Intel đã xuất khẩu 1,9 tỷ USD, riêng 8 tháng năm 2012 là 1,4 tỷ USD.
Vấn đề nằm ở chỗ phần làm tại Việt Nam của Intel giá trị gia tăng chưa cao. Nói một cách dễ hình dung là xuất khẩu 1,4  tỷ USD thì phần nhập vào đã đến 1,2 tỷ USD rồi. Đơn giản bởi vì Intel Việt Nam chỉ thực hiện khâu cuối cùng là kiểm thử và đóng gói. Những khâu thiết kế, hoặc những khâu đòi hỏi hàm lượng chất xám cao hơn, thì chưa vào Việt Nam.
Tôi tin rằng, những công việc có hàm lượng chất xám cao, giá trị gia tăng lớn sẽ tăng dần lên theo thời gian. Tất nhiên là phải với nỗ lực của cả hai bên.
Một trong những vấn đề Intel kêu ca trước đây là họ chỉ tuyển được một phần rất nhỏ so với yêu cầu. Liệu thành phố có ý thức rõ điều này, và có biện pháp nào để cải thiện tình hình cung ứng nguồn nhân lực chất lượng cao cho họ?
Họ nói đúng vì đây là ngành rất mới, Việt Nam đã làm bao giờ đâu mà có nhân lực phù hợp ngay với vị trí mà Intel cần. Ngành mới thì ai cũng sẽ gặp khó cả.  Nói vui chứ nếu doanh nghiệp chúng ta sang Mỹ tuyển nhân lực gói bánh chưng thì cũng gặp khó khăn tương tự, có khi còn khó hơn.
Nhưng Intel đã bước đầu giải quyết vấn đề này bằng cách tuyển những em có kiến thức nền tốt, sau đó cho sang Mỹ đào tạo thêm. Đã có hai khoá tốt nghiệp, mỗi khoá trên hai mươi em, với điểm trung bình cao nhất trường nơi họ học. Intel rất hãnh diện về điều này.
Nhưng họ còn tự hào hơn, khi một nhóm sinh viên Việt Nam đã tham dự giải Cornell và giành giải nhất,  vượt qua cả các nhóm sinh viên Mỹ ở đại học MIT và Stanford - những nơi mạnh nhất Mỹ về đào tạo công nghệ thông tin.
Hiện giờ ngành này mới quá, nên tuyển rồi đào tạo thêm là tất yếu. Còn sau này, khi ngành công nghệ thông tin phát triển mạnh, và ổn định, thì chắc chắn thị trường đào tạo của thành phố sẽ đáp ứng được yêu cầu.
Ông Lê Mạnh Hà, phó chủ tịch Tp.HCM
Công viên phần mềm Quang Trung được đánh giá là thành công. Khu Công nghệ cao thì còn không ít khó khăn. Theo ông cái khác biệt lớn nhất giữa Công viên Phần mềm Quang trung và Khu Công nghệ cao là gì?
Khu Công nghệ cao có diện tích lớn gấp hơn 20 lần Công viên phần mềm Quang Trung. Khái niệm về phần mềm là rất rõ, nhưng công nghệ thế nào là cao thì vẫn còn...cãi nhau. Hơn nữa, công nghệ biến đổi liên tục, hôm nay cao ngày mai đã là thấp. Đó là những điểm khác biệt lớn.
Nhưng khác biệt rõ nhất nằm ở mô hình quản lý. Khác với khu công viên phần mềm Quang Trung do một doanh nghiệp nhà nước đầu tư và quản lý, khu công nghệ cao được đầu tư và quản lý thông qua một ban quản lý.
Tôi vẫn chưa có đầy đủ cơ sở để đánh giá mô hình nào là phù hợp nhất. Tuy nhiên, ai cũng phải công nhận một thực tế là doanh nghiệp thì năng động hơn và phải dốc toàn lực ra phục vụ khách hàng. Bởi, nếu không làm như vậy thì doanh nghiệp sẽ lỗ, và thậm chí phá sản. Còn ban quản lý, dù có tràn đầy nhiệt huyết đến mấy thì cũng khó mà hiệu quả được, vì lương của họ chắc chắn không giảm đi đồng nào dù có mất khách hàng, thậm chí mất nhiều khách hàng.
Dù sao, thành phố cũng có quyền tự hào là Khu Công nghệ cao TPHCM đã có được kết quả tốt nhất trong tất cả các khu công nghệ cao trên toàn quốc.
Nhân chuyện Khu Công viên Phần mềm Quang Trung và Khu Công nghệ cao TP HCM, ông có liên tưởng gì đến Phú Mỹ Hưng và Khu đô thị mới Thủ Thiêm?
Khu đô thị mới Phú Mỹ Hưng do công ty liên doanh với nước ngoài đầu tư, mô hình công ty đầu tư và quản lý tương tự như Công viên phần mềm Quang Trung. Hiện nay, Phú Mỹ Hưng là một khu đô thị tương đối hoàn chỉnh, được đánh giá là kiểu mẫu và rất văn mình. Có lẽ, nhược điểm của Phú Mỹ Hưng là còn "thiếu" những bảng "khu phố văn hóa". (Cười)
Ông "hóm" quá đấy. Thế còn Thủ Thiêm?
Chúng tôi có Ban quản lý khu đô thị mới Thủ Thiêm. Đất thì giải tỏa cũng gần xong. Hạ tầng còn thiếu, và đang tích cực mời gọi đầu tư. Thủ Thiêm được đầu tư sau Phú Mỹ Hưng khoảng 10 năm.
Công nghiệp - thương mại thì đã có Sở Công Thương nắm. Thế còn đối với công nghệ cao, dường như chỉ ở cấp ban quản lý?
Sở Khoa học và Công nghệ tham mưu giúp Ủy ban về công nghệ cao. Tuy nhiên, tôi mong muốn có hẳn sở công nghệ cao, nâng cấp từ Ban quản lý khu công nghệ cao hiện nay, để tham mưu giúp thành phố phát triển lĩnh vực này. Một thành phố như thành phố Hồ Chí Minh không thể không có công nghệ cao vào loại mạnh của khu vực.
Muốn như vậy thì phải tập trung đầu tư cho công nghệ cao, về nhân lực, tài lực, và đặc biệt phải có cơ quan tham mưu mạnh là sở công nghệ cao. Còn Công ty Phát triển Khu Công nghệ cao hiện nay sẽ trực tiếp đầu tư và quản lý khu công nghệ cao, tương tự như Công ty Phát triển Công viên Phần mềm Quang Trung.
Làm như vậy, thành phố sẽ vừa có cơ quan tham mưu tốt, vừa có doanh nghiệp phục vụ hết mình cho các nhà đầu tư.
Khu đô thị Phú Mỹ Hưng, TP Hồ Chí Minh
Có nhận xét là Khu Công nghệ cao hiện nay vẫn giống như một khu công nghiệp về hình thức, và phần nào về nội dungTức là vẫn có những dự án nặng về thâm dụng lao động, chứ chưa hẳn có công nghệ cao. Ông có đồng ý không?
Trong giai đoạn đầu, Khu Công nghệ cao buộc phải lựa chọn những nhà đầu tư có công nghệ chưa hẳn là cao và sử dụng nhiều lao động giản đơn để có được những cú hích đầu tiên. Giai đoạn sau này sẽ chọn lựa với yêu cầu cao hơn và tập trung cho nghiên cứu và phát triển (R&D). Đây chính là điểm khác biệt của khu công nghệ cao so với các khu công nghiệp khác.
Tôi thực sự muốn đổi tên khu này thành Công viên Công nghệ cao. Khi đã là công viên thì phải có nhiều cây xanh, có cảnh quan đẹp, không phải chỉ có nhà xưởng san sát như khu công nghiệp. Môi trường cho sáng tạo phải gần gũi với thiên nhiên, và thậm chí phải rất... nên thơ.
Kỳ họp vừa rồi của Hội đồng nhân dân thành phố, ông bị chất vấn về phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ. Báo chí cũng có đưa tin, nhưng tôi muốn ông khẳng định lại quan điểm của mình.
Đúng. Và những điều tôi đã trả lời là quan điểm của tôi, xin phép được nhắc lại.
Về công nghiệp hỗ trợ, cả nước lúng túng, và thành phố Hồ Chí Minh cũng không phải là ngoại lệ. Nhưng, theo tôi, không nên quá tập trung phát triển công nghiệp hỗ trợ. Công nghiệp hỗ trợ chỉ để phục vụ người khác mà thôi, khó có thể phát triển mạnh được. Hơn nữa, sản xuất một loại phụ tùng rồi không biết bán cho ai thì chỉ có phá sản mà thôi.
Cốt yếu là phải sản xuất sản phẩm cuối cùng trên đất Việt Nam. Ví dụ, như ngành ô tô, nếu sản xuất cái gạt nước rồi không biết bán cho ai thì sẽ thất bại. Nhưng nếu xuất xưởng một chiếc ô tô hoàn chỉnh ngay trên đất Việt Nam thì lại khác. Tất nhiên phải là sản xuất xe để xuất khẩu, không chỉ lắp ráp cho thị trường trong nước như lâu nay.
Nếu như số lượng lớn xe được sản xuất trong nước là đủ lớn, sẽ có những nhà cung cấp phụ tùng ở ngay Việt Nam. Lúc đầu, có thể chỉ một số phụ tùng sản xuất được trong nước, nhưng dần dần số mặt hàng sẽ tăng lên, vì làm tại chỗ sẽ rẻ hơn do giảm chi phí vận chuyển, không có thuế nhập khẩu...
Tôi đoán chắc nếu Toyota xuất từ Việt Nam 1 triệu xe/năm đi châu Á thì chắc chắn công nghiệp hỗ trợ sẽ phát triển. Còn chỉ phục vụ cho mấy ngàn xe/năm như bây giờ, không ai dại gì sản xuất phụ tùng với số lượng ít ỏi cho anh cả.
Như vậy, thay vì phát triển công nghiệp hỗ trợ để cung cấp cho không-ai-cả, hãy thu hút những tập đoàn hàng đầu sản xuất sản phẩm cuối cùng tại Việt Nam.

63 tỉnh thành, đâu cũng phát triển theo... mốt

"Tôi có cảm giác, 63 tỉnh thành phát triển kinh tế một cách độc lập, theo ý của mình, và thiếu liên kết giữa các địa phương. Ai cũng muốn phát triển công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, và có hệ thống sân bay, cảng biển... Đầy đủ cứ y như một quốc gia ấy".

LTS: Tuần Việt Nam trân trọng giới thiệu cùng độc giả phần cuối cùng trong cuộc trò chuyện với ông Lê Mạnh Hà, Phó Chủ tịch TP. HCM.
Người ta nhận xét thế này, trong những năm '90 thành phố là cái đầu tầu chạy băng băng về phía trước, và kéo các toa sau là các tỉnh thành theo. Từ đầu những năm 2000 trở lại đây, cái đầu tầu thành phố HCM đi chậm lại, và, vô hình trung, cũng khiến các tỉnh thành khác đi chậm theo. Ông nghĩ sao?
Tôi không nghĩ rằng chúng ta phát triển theo mô hình đầu tàu, nghĩa là chỉ có đầu tàu làm việc, các toa tàu là thụ động và bị kéo đi. Mô hình tốt là hợp lực, không phụ thuộc, nhưng có liên kết. Sự phát triển của thành phố HCM có tác động định hướng, vì kinh tế thành phố chiếm tỷ trọng rất cao và rất năng động.
Theo tôi, thành phố không đi chậm lại, mà nhiều địa phương khác đi nhanh hơn.
Như vậy, sau hơn 10 năm khoảng cách đã bị thu hẹp nhiều. Ông có nghĩ rằng đã đến lúc thành phố cần phải tăng tốc?
Không! Đã đến lúc thành phố phải tập trung hơn cho phát triển bền vững, chứ không tăng tốc độ bằng mọi giá. Người dân thành phố cần chất lượng cuộc sống cao hơn, sống trong môi trường trong sạch, và văn minh. Cả nước cũng đang đi theo hướng này, nhưng thành phố phải đi đầu, và đi đúng hướng. Đó cũng là cách thành phố thể hiện vai trò định hướng của mình.
Trong quá khứ, thành phố chính là nơi xuất phát của những chủ trương lớn làm thay đổi cục diện. Nhiều ý kiến cho rằng gần đây sức sáng tạo của thành phố đã suy giảm. Ý kiến của ông như thế nào?
Trước đây, những điểm nghẽn của phát triển thể hiện rất rõ. Dòng chảy của cuộc sống rất mạnh đã có tác động làm lung lay cái chốt chặn. Trong khi đó, sự nhạy bén, mạnh dạn và kiên quyết của lãnh đạo đã làm bật tung chốt, và khơi thông dòng chảy.
Ông Lê Mạnh Hà - phó chủ tịch Tp HCM
Thế còn bây giờ, lãnh đạo thành phố đã phát hiện điểm nghẽn hiện tại chưa, thưa ông?
Chính phủ đã khẳng định rằng chúng ta đang phải giải quyết 3 điểm nghẽn chung là hạ tầng, thể chế và nguồn nhân lực. Đó cũng là nhận xét chung của giới đầu tư - kinh doanh trong ngoài nước. Vì vậy, thành phố cũng đang tập trung xử lý các điểm nghẽn này.
Nhưng, theo ý kiến của riêng tôi, điểm nghẽn lớn nhất hiện nay lại là đất đai, là chính sách đất đai. Tôi đã phát biểu điều này tại cuộc họp trực tuyến của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về đề án tái cơ cấu nền kinh tế của Chính phủ, và cuộc họp HĐND thành phố vừa qua.
Đất đai chính là nguyên nhân của các điểm nghẽn trên. 70% khiếu kiện là về đất đai, gây bất ổn xã hội, suy giảm lòng tin. Nguồn lực tập trung chủ yếu đền bù đất đai. Tỷ trọng rất lớn trong chi phí đầu tư cũng là chi cho đất đai. Ví dụ, xây một con đường, chi phí cho bồi thường lấy đất là lớn nhất, chứ không phải chi phí xây dựng, như thông lệ quốc tế.
Với giá đất hiện nay, chúng ta không thể xây dựng đường, cầu, trường học, bệnh viện, hay các cơ sở sản xuất, với giá thấp được. Thậm chí, còn không có đất để đầu tư. Nền kinh tế vì thế bị tắc nghẽn.
Ông có nói rằng, một trong những mảng ông phụ trách là chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố. Vậy, theo ông, đất đai có làm nghẽn quá trình này không?
Chắc chắn là tác động mạnh. Tôi lấy một ví dụ. Có nhiều nguyên nhân khiến việc xây dựng khu đô thị mới Thủ Thiêm gặp khó khăn, nhưng giá đất quá cao là nguyên nhân rất quan trọng. Giá cao như thế thì rất khó thu hút nhà đầu tư. Công viên Phần mềm Thủ Thiêm và Công viên Trí thức Việt - Nhật tại khu vực này đã thất bại cũng có lý do từ giá đất.
Thành phố đang tìm địa điểm để xây dựng công viên phần mềm Quang Trung 2. Khó nhất vẫn là giá đất. Nếu không có chính sách mới về giá đất thì khả năng thành công là rất thấp. Và như vậy giảm tính khả thi của chuyển dịch kinh tế theo hướng phát triển công nghệ cao, giàu hàm lượng chất xám.
Xin được hỏi tiếp. Quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế thành phố sẽ diễn ra theo hướng nào?
Chuyển dịch cơ cấu là chuyển dịch tự nhiên của nền kinh tế. Vì vậy, tôi muốn khẳng định là chương trình của thành phố chỉ đóng vai trò hỗ trợ để quá trình tự nhiên đó diễn ra nhanh, và suôn sẻ hơn thôi. Thành phố đang làm rất nhiều việc để hỗ trợ phát triển 9 nhóm ngành dịch vụ, và 4 ngành công nghiệp.
Nhưng, theo tôi, để chuyển dịch nhanh hơn nhất thiết phải làm hai việc. Tôi xin lấy mô hình giao thông cho dễ hình dung: gỡ rào cản để xe chạy tốc độ bình thường, và làm đường cao tốc để xe chạy tốc độ nhanh.
Rào cản lớn nhất là đất đai. Thủ tục hành chính rắc rối nhất, khó hiểu nhất chính là thủ tục về nhà đất. Đây cũng là mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng.
Để có "đường cao tốc" phải có chính sách đột phá cho phát triển công nghệ cao, công nghệ thông tin. Chúng tôi đang rất  nỗ lực làm việc này.
Các chính sách về đất đai, về phát triển ngành thuộc thẩm quyền của trung ương. Nhưng, về phần mình, thành phố phải chủ động phát hiện, và chủ động đề xuất, không thể ngồi chờ.
Trường Trung học Phổ thông Nguyễn Thị Minh Khai (còn được gọi là trường nữ Gia Long, trường nữ sinh Áo Tím) được thành lập từ năm 1915, cho đến nay trường Nguyễn Thị Minh Khai là một trong những trường phổ thông lâu đời nhất của nền giáo dục Việt Nam.
Chuyển dịch cơ cấu hình như đang là cái mốt, các tỉnh nông nghiệp thì ít lo phát triển nông nghiệp mà rất hăng hái phát triển công nghiệp, mặc dù tiềm năng không có. Cả nước có vô số khu công nghiệp bỏ trống, cảng biển treo. Ông nghĩ thế nào về vấn đề này?
Đúng là tình trạng đó. Tôi có cảm giác, 63 tỉnh thành phát triển kinh tế một cách độc lập, theo ý của mình, và thiếu liên kết giữa các địa phương. Ai cũng muốn phát triển công nghiệp, thương mại, nông nghiệp, và có hệ thống sân bay, cảng biển... Đầy đủ cứ y như một quốc gia ấy. Làm như vậy không phát huy được thế mạnh riêng có của mình, và lãng phí nguồn lực.
Phải công nhận rằng chúng ta hay chạy theo mốt. Có một cái mốt nữa là di dời bệnh viện, trường đại học ra khỏi trung tâm.
Theo tôi, đô thị phải là chỉnh thể. Nội thành mà không có bệnh viện, trường học thì người ta chữa bệnh rồi đi học ở đâu? Người trong nội thành phải cấp cứu thì chở ra ngoại thành chữa à? Vừa khó cho y tế, giáo dục, vừa khó cho giao thông vì gây ra tình trạng kẹt xe gấp đôi. Người sống ngoại thành thì chạy vào trung tâm để mua sắm, làm việc. Người sống trong nội thành thì chạy ra xa để chữa bệnh, đi học.
Hơn nữa, việc di dời trường học sẽ xóa những ngôi trường tồn tại hàng trăm năm, chí ít cũng là nhiều chục năm, những công trình đã để lại dấu ấn lịch sử. Rất nhiều thành phố trên thế giới giữ lại trong trung tâm những trường đại học cổ kính, những nhà ga cũ kỹ, những bến cảng lâu đời.
Người mình còn có cái mốt là muốn xóa cũ, xây mới. Không nên xuất hiện những thành phố, những ngôi làng không có quá khứ. Tôi rất tiếc những đường tàu điện xưa ở Hà Nội. Giá mà...
Giá mà không phải "giá mà"... Ông đang cố gắng bác bỏ cái xu hướng phát triển nhanh bằng mọi giá xưa nay?
Đúng vậy. Và thành phố Hồ Chí Minh phải đi đầu, phải dẫn hướng, trong xu thế phát triển mới - phát triển bền vững . Chúng ta luôn nói là phát triển kinh tế-xã hội, và điều đó có nghĩa là không chỉ phát triển kinh tế. Cần phải chuyển dịch cả cơ cấu xã hội nữa, theo hướng văn minh, và bảo tồn giá trị dân tộc.
Xin cám ơn ông.

Trò chuyện với người "xúi thành phố bán đường"

Trò chuyện với người "xúi thành phố bán đường"

Tuần Việt Nam lật lại những câu chuyện, tìm lại những con người TP.HCM với những trăn trở, những quyết định và hành động đã tạo nên diện mạo TP.HCM hôm nay.

LTS: Mới đây, Bộ Chính trị vừa có một nghị quyết về phát triển thành phố HCM đến năm 2020, theo đó, Thành phố được trao cơ chế đặc thù để phát triển với những quyền tự chủ, có tính độc lập tương đối.
Nhân dịp này, nhóm phóng viên Tuần Việt Nam - VietNamNet lật lại những câu chuyện, tìm lại những con người TP.HCM với những trăn trở, những quyết định và hành động đã tạo nên diện mạo TP.HCM hôm nay.
Từng giữ cương vị là Viện trưởng Kinh tế Tp.HCM, và nay là Phó đoàn ĐBQH Thành phố, TS Trần Du Lịch chia sẻ góc nhìn riêng xung quanh chuyện phát triển của thành phố.
Trước khi nói về những hướng phát triển sắp tới của thành phố, ông đánh giá thế nào về sự phát triển của thành phố sau hai thập kỷ vừa qua?
Ông Trần Du Lịch: Thành phố Hồ Chí Minh hiện nay bao gồm cả tỉnh Gia Định cũ, thậm chí một phần thuộc tỉnh khác như Cần Giờ, Củ Chi. Thành ra, TP HCM có quy mô diện tích như một tỉnh trung bình của nước ta. Vì vậy, nếu đem so sánh với với những thành phố có sự phát triển vượt bậc trong khu vực, như Kuala Lumpur, Bangkok, Singapore, Thượng Hải, hay Thẩm Quyến, thì sự phát triển chung của TP. HCM chưa bằng.
Thế nhưng, nếu nhìn trong bối cảnh của Việt Nam, tôi cho rằng thành phố HCM có sự phát triển nổi bật, và đang theo hướng hiện đại.
Thế nào là "nổi bật" và "theo hướng hiện đại", xin ông cho biết rõ hơn?
Tôi muốn nhấn mạnh đến sự phát triển hạ tầng mọi mặt của thành phố.
Về hạ tầng kỹ thuật, ấn tượng thứ nhất, chưa nói đến phát triển không gian đô thị bên ngoài, riêng mảng chỉnh trang của thời kỳ cũ, đã có khối lượng rất lớn, thậm chí làm ngạc nhiên những tổ chức quốc tế như Ngân hàng Thế giới (WB). Ví dụ, việc giải tỏa toàn bộ lưu vực kênh Nhiêu Lộc - Thị Nghè để làm đường Hoàng Sa và Trường Sa, là một sự lột xác hoàn toàn, nếu các anh nhìn lại phim quay cảnh trước khi thực hiện công trình này, nhất là hình ảnh của tất cả những nhà lụp xụp trên kênh rạch tồn tại thập kỷ qua.
Một chuyên gia của Ngân hàng Thế giới gặp tôi năm 2000 nói rằng, theo kinh nghiệm của ông, nhiều nước không làm được bởi vì đụng đến tầng lớp đáy của xã hội. Nhưng TP. HCM đã có sự đột phá về quyết tâm, bởi chỉnh trang Nhiêu Lộc - Thị Nghè chính là để thay đổi cái nhìn về thành phố này.
Ấn tượng thứ hai liên quan đến chỉnh trang đô thị là Đại lộ Đông Tây. Tôi nhớ đã từng dự phiên họp của thường vụ thành uỷ, với yêu cầu phải giải tỏa năm nghìn căn dọc theo phía bên bờ Bắc, tức là phía bên bến Chương Dương. Lúc bấy giờ, chú Sáu Dân (cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt) đã dự cuộc họp về vấn đề này.
Chú Sáu  đã nói rằng không thể làm một bên bờ. Bởi ông ấy hình dung rằng khi làm xong, bên này đã khang trang, còn lại bên kia toàn nhà lụp xụp trên kênh rạch thì không thể nào ra đô thị được.
Còn về khu dân cư, thì ấn tượng nhất vẫn là sự chỉnh trang quận 4. Tôi nhớ năm 1992, nói về quận 4 ai cũng nói ở đấy tập trung những nhà lụp xụp, toàn dân dao búa (nơi lập nghiệp của Bố già Năm Cam - PV), nên không dám đụng tới. Nếu anh đến nơi này hồi năm 1992, thì nếu có cháy nhà, xe cứu hỏa cũng chịu không vào được. Nhưng sự nỗ lực của quận 4 đã làm thay đổi diện mạo của nó, và bây giờ nó gần như quận Nhất.
Ấn tượng tiếp theo là việc phát triển những khu đô thị mới. Công trình ấn tượng nhất, sự thể hiện rõ ràng nhất cho mô hình "đổi đất lấy hạ tầng" là đại lộ Nguyễn Văn Linh và khu đô thị Phú Mỹ Hưng.
Toàn bộ vùng đất đó trước đây là sình lầy, thậm chí có nhiều người cho rằng không nên phát triển vùng đầm lầy, phí tổn xây dựng cao. Thế nhưng, thành phố đã thành công trong việc hoàn thành công trình chỉnh trang đô thị như vậy.
Về hạ tầng kinh tế, ở thành phố HCM đã hình thành 14 khu công nghiệp và khu chế xuất, trong đó ấn tượng là khu Chế xuất Tân Thuận. Khu chế xuất này là sự nối tiếp cái nền móng có sẵn từ thời chế độ Sài Gòn vào đầu những năm '70. Dự án, do chiến tranh, chỉ mới bắt đầu, và sau đó suốt 10 năm sau giải phóng thì bị bỏ hoang. Chỉ vào cuối những năm '80 - đầu '90, mới bắt đầu tiến hành đền bù giải tỏa với quy mô 300 ha.
Năm 1992, tôi đi ứng cử ở đó, trình độ văn hóa dân cư ở đấy đến lớp 5 còn hiếm. Cách Sài Gòn (quận Nhất) có 4-5 cây số thôi, nhưng lạc hậu không thể tưởng tượng được. Sự hình thành khu chế xuất này là một dấu ấn lớn về sự khởi đầu phát triển của công nghiệp thành phố.
Còn 13 khu công nghiệp của thành phố được xây dựng trên những vùng đất địa hình không thể làm nông nghiệp được. Người ta hay nói thành phố HCM có một diện tích đất nông nghiệp bằng tỉnh Thái Bình, nhưng họ quên một điều là tỉnh Thái Bình thời Nguyễn Công Trứ là đất thuộc, còn đất của Gia Định cho tới thời giải phóng năm '75 vẫn là vùng bưng biền, không có tiềm năng về nông nghiệp. Như quận Thủ Đức, quận 2, bấy giờ gọi là quận bưng, tức là vùng bưng sáu xã.
TS Trần Du Lịch
Xin phép được ngắt lời ông. Thế dân cư ở đó sống bằng nghề gì, thưa ông?
Nơi đó rất thưa thớt dân cư. Người ta sống theo kiểu làm mướn một vụ, rồi mò cua bắt ốc.
Hay ở Bình Chánh, một phần Bình Chánh được dùng để phát triển khu công nghiệp Tân Tạo, Vĩnh Hội, khu đó toàn bộ là đất phèn. Sau ngày giải phóng, thanh niên xung phong lập nông trường trồng bạch đàn, trồng mía, dứa.
Trước năm '75, chính quyền Sài Gòn, vùng đất xung quanh và sát Sài Gòn này không phát triển công nghiệp. Khu công nghiệp đầu tiên của miền Nam Việt Nam xây dựng là khu của Sodanezi bây giờ, một vùng đất cao ráo, đẹp đẽ, ở ngã ba đi Vũng Tàu.
Nói tiếp về câu chuyện hạ tầng, về hạ tầng dịch vụ, anh thấy với vốn đầu tư nước ngoài phát triển hệ thống trung tâm thương mại, các văn phòng, khách sạn 5 sao thì có thể nói phát triển tương đối. Chính nhờ như vậy, thành phố HCM đã thành hậu cần cho các tỉnh lân cận đặc biệt Bình Dương, Đồng Nai, Vũng Tàu.
Anh nhớ là tất cả những công ty nước ngoài vào đầu tư, dồn tiền vào Bình Dương, Đồng Nai, hay Vũng Tàu là sống nhờ Sài Gòn. Con cái họ học hành ở Sài Gòn, đi chữa bệnh ở bệnh viện Sài Gòn, rồi giải trí cũng ở Sài Gòn. Giống như ở ngoài bắc, Vĩnh Phúc, hay Bắc Ninh, lên được là nhờ Hà Nội làm hậu cần. Điều đó tạo nên sự lan tỏa.
Để phát triển như vậy, thành phố đã dựa vào những nguồn lực nào?
Thành phố HCM đi đầu trong vấn đề thu hút khu vực kinh tế tư nhân và đầu tư nước ngoài. Nhờ đó, thành phố thu hút được một nguồn vốn rất lớn. Đầu thập niên 90, trong lúc chưa xây dựng nổi kịp một khách sạn 5 sao, nước ngoài họ kéo một khách sạn 5 sao từ Úc về làm khách sạn nổi, phục vụ cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn ở đây.
Tuy nhiên, nguồn vốn đó chỉ tập trung vào công nghiệp, hay thương mại - dịch vụ, chứ hạ tầng giao thông, giáo dục, hay y tế thì mình phải tự lo chứ. Chính vì vậy, bên cạnh việc thí điểm những mô hình đổi đất lấy hạ tầng, thành phố đã rất mạnh dạn trong vấn đề xã hội hóa đầu tư trong ba lĩnh vực nói trên.
Ví dụ như việc phát hành trái phiếu đô thị mở rộng đường Nguyễn Tất Thành, quận 4, hay đường Trường Sơn, tức là đường nối vô sân bay Tân Sơn Nhất, và sau này đấu giá đường để khai thác như đường Điện Biên Phủ ...
Thành phố còn cho lập các công ty cổ phần xây dựng hạ tầng mang tính công chúng, rồi xã hội hóa, để đầu tư vào y tế, giáo dục.
Xu hướng này diễn ra rất mạnh. Ví dụ như chính sách thành phố bỏ ngân sách để bù lãi suất cho các bệnh viện, trường học để vay tiền ngân hàng để họ mạnh dạn nâng cấp chúng lên.
Xin ông giải thích cụ thể hơn.
Thay vì một năm anh bỏ 1500 tỷ đồng để đầu tư vào các bệnh viện, các trường học, bây giờ anh chỉ bỏ 50 tỷ thôi để bù lãi suất. Các bệnh viện, trường học sẽ chủ động vay vốn ngân hàng, lãi suất thành phố trả, còn anh chỉ cần thu hồi giá vốn thôi.
Việc xã hội hoá đầu tư công ở thành phố bắt đầu từ khi nào?
Từ năm 1999, và tôi là người trực tiếp tham gia. Nói cho vui thôi là năm 2002, tôi đã được nhận bằng khen là một nhà khoa học có đóng góp vào vấn đề xã hội hóa ở thành phố.
Vì đâu mà ông có ý tưởng đó?
Rất đơn giản thôi. Tôi tính toán với tư cách người theo dõi thành phố về nguồn thu ngân sách, thì với yêu cầu đầu tư như vậy, nhà nước không thể làm được. Tôi đặt ra câu hỏi: Nhưng tại sao nhà nước phải làm tất cả, trong khi mà xã hội ít nhất có thể làm tốt?
Một là, nếu anh có chất lượng tốt cho các bệnh viện, trường học, người dân sẵn sàng trả tiền nhiều hơn cho anh. Vậy tại sao anh không tăng chất lượng lên? Nhu cầu có, và tiếp tục tăng lên cùng với đà đi lên của nền kinh tế.
Hai là tại sao những cái mà tư nhân có thể tham gia thì nhà nước lại vẫn phải làm? Nhà nước chỉ nên dùng tiền ngân sách để làm những việc tư nhân không chịu làm thôi.
Nhưng chắc chắn ý tưởng đó cũng phải manh nha từ một gợi ý nào đó chứ? Từ một chuyến tham quan nước ngoài, chẳng hạn.
Đúng là nhiều cái tôi có học tập từ Trung Quốc. Ví dụ như năm '95 tôi sang Trung Quốc tham quan, thì thấy bên họ đã xuất hiện khái niệm "bỏ tiền một, thu lại ba" - tức là bỏ tiền ra làm một con đường, sau ba năm tự nhiên có ba con đường.
Hay vậy. Ông giải thích rõ đi.
Họ làm một con đường, và trong vòng 12 tháng bán ngay quyền khai thác cho tư nhân để lấy tiền làm tiếp con đường thứ hai, và cứ tiếp tục như vậy.
Tôi lấy ví dụ như đường Điện Biên Phủ, đường Hùng Vương lúc đó tính kinh phí là 700 tỷ ngân sách, bán quyền khai thác cho công ty hạ tầng thành phố lấy một nghìn tỷ liền, và lấy tiền đó làm đường Nam Kỳ Khởi Nghĩa.
Khi đưa ra ý tưởng đó, ông có gặp khó khăn gì không?
Khi đề xuất, tôi cũng gặp nhiều ý kiến phản đối. Tôi nhớ có người lên án tôi là xúi thành phố bán đường. Bởi khi ấy những con đường đó có lực lượng đang thu phí, và họ luôn muốn giữ quyền lợi của mình.
Tôi bảo tôi có bán đường đâu, tôi nhượng quyền khai thác 10 năm mà. Mức phí do thành phố quy định cho những phương án của họ, hoàn vốn trong thời gian bao lâu, hết thời hạn đó thì hoàn trả cho nhà nước.
May mà các lãnh đạo thành phố như ông Trương Tấn Sang, ông Nguyễn Minh Triết, hay ông Lê Thanh Hải ủng hộ rất mạnh, nên đề xuất đó mới được chấp thuận. Sau đó vài năm, Trung ương chuyển thành quy định chung của cả nước.
Sau đó trên cách ấy thì cuối cùng ở thành phố HCM kể từ khi làm dự án đường Điện Biên Phủ-Hùng Vương thì có bao nhiêu con đường được làm, hoặc nâng cấp, theo hình thức như vậy?
Bây giờ làm hầu hết rồi.

Thủ Thiêm, Phú Mỹ Hưng và tầm nhìn quy hoạch thành phố

Khu Nhà thờ Đức Bà không phải ví dụ điển hình về phá vỡ cảnh quan kiến trúc. Phá nhiều nhất và phá đầu tiên là khách sạn Caravelle. Việc cho phép đẩy cao tòa nhà Caravelle lên đã nuốt luôn toàn bộ Nhà hát Thành phố.

LTS: Mới đây, Bộ Chính trị vừa có một nghị quyết về phát triển thành phố HCM đến năm 2020, theo đó, Thành phố được trao cơ chế đặc thù để phát triển với những quyền tự chủ, có tính độc lập tương đối, có tính tự chủ và tự chịu trách nhiệm. Nhân dịp này, Tuần Việt Nam lật lại những câu chuyện, tìm lại những con người TP.HCM với những trăn trở, những quyết định và hành động đã tạo nên diện mạo TP.HCM hôm nay.
Dưới đây là phần nối tiếp của cuộc trò chuyện với TS. Trần Du Lịch, người từng giữ cương vị Viện trưởng Kinh tế Tp.HCM, và nay là Phó trưởng đoàn ĐBQH Thành phố.

Ông có thể cho biết có những điều gì mà thành phố lẽ ra có thể làm được mà chưa làm được?
TS Trần  Du Lịch: Thành tích thì nhiều, mà tồn tại cũng không ít. Ví dụ, như công tác quy hoạch, chủ yếu là tầm nhìn và không gian đô thị, là một vấn đề lớn của thành phố.
Chẳng hạn, có một số khu mới, như Bầu Cát, hay Bình Thạnh, được làm với tầm nhìn thiển cận, từ hạ tầng giao thông đến hạ tầng xã hội không đồng bộ, mang lại một hình ảnh tệ hại về không gian sống. Lý do chính là thiếu kiểm soát xây dựng, dẫn đến vi phạm quy hoạch.
Hay trong quá trình phát triển kinh tế thành phố, những công trình thương mại - dịch vụ lại tập trung ở những nơi dễ gây ùn tắc giao thông. Chống ùn tắc giao thông bằng cái tầm nhìn quy hoạch kiểu như vậy thì cũng giống như anh chữa cháy mà bơm thêm dầu vào lửa. Nhu cầu của thị trường hoàn toàn để mặc thị trường điều tiết tự phát mà thiếu vai trò kiểm soát cần thiết của nhà nước.
Hoặc ví dụ như thành phố giải tỏa dọc bờ sông, nhưng một số khu đất mới, như khu vực Thảo Điền của quận 2, lại quy hoạch sát bờ sông, biến bờ sông thành của riêng.
TS. Trần Du Lịch
Vậy ông đánh giá thế nào về thái độ của thành phố đối với những di sản về qui hoạch và kiến trúc của chế độ cũ, hay xa hơn là thời Pháp thuộc. Chẳng hạn, ở khu vực Nhà thờ Đức Bà, một quần thể khá đẹp về mặt kiến trúc, lại nổi lên toà nhà Diamond, nhìn từ quán cà phê Bean, trông rất lạc điệu, cả về hình khối lẫn màu sắc. Có người còn nói nó làm liên tưởng tới toà nhà Hàm Cá mập ở khu vực Hồ Gươm, Hà Nội.
Thực sự khu đó không phải ví dụ điển hình về phá vỡ cảnh quan kiến trúc. Phá nhiều nhất và phá đầu tiên là khách sạn Caravelle. Việc cho phép đẩy cao toà nhà Caravelle lên đã nuốt luôn toàn bộ Nhà hát Thành phố.
Có phải chính nhu cầu xây dựng rất lớn và trong thời gian rất ngắn của thành phố, với tư cách là khu vực hậu cần cho các tỉnh xung quanh phát triển, đã khiến thành phố HCM phải hứng chịu hậu quả đó không? Tức là công tác qui hoạch không theo kịp nhu cầu phát triển?
Nói vậy cũng hơi quá. Vẫn có quy hoạch, nhưng kém về việc tuân thủ theo quy hoạch. Một điểm nữa do khách quan, áp lực nhập cư quá lớn. Thời tôi còn làm Viện trưởng Viện Kinh tế, thành phố cứ mỗi năm tăng thêm 200 nghìn dân.
Thế chúng ta phải quay lại câu chuyện lúc đầu. Ban nãy ông nói thành công ở thành phố là làm được mười mấy khu công nghiệp, nhưng lại kéo theo nhân công từ các chỗ khác về, đúng không?
Không, tôi chỉ nói liên quan đến chỗ đó, bên cạnh sự thành công của các khu công nghiệp, tư duy quy hoạch đã bị thiếu tầm nhìn. Phát triển khu công nghiệp như một ốc đảo mà không quy hoạch khu dân cư bên cạnh cho người lao động khu công nghiệp ở, đồng thời không gắn sự phát triển các loại hình dịch vụ đi theo. Từ chỗ đó, trong nhiều năm liền cứ cạnh khu công nghiệp hình thành các nhà trọ tự phát, nhếch nhác khủng khiếp, dẫn đến những áp lực về môi trường, và, nói chung, tất cả mọi thứ.
Đến lúc nào thì lãnh đạo thành phố nhận ra sự bất cập đó?
Thực sự, thành phố nhận ra từ lâu, cụ thể Đại hội 7 của thành phố, cuối năm 2000, đặt ra vấn đề tuân thủ quy hoạch và phát triển theo hướng đa trung tâm và tạo sự đồng bộ. Chẳng hạn, đề án xây dựng khu đô thị Thủ Thiêm, khu đô thị cảng Hiệp Phước, khu đô thị Tây Bắc...
Tuy nhiên, trong 10 năm vừa qua, do nhiều yếu tố khách quan, những công trình như vậy chưa mang lại kết quả rõ ràng.
Những yếu tố khách quan là gì vậy?
Ví dụ, làm khu Thủ Thiêm lại vướng công tác đền bù giải tỏa quá chậm, lúc nhà đầu tư muốn vào thì không có đất sạch. Khi bắt đầu có đất, bắt đầu xây lại hạ tầng, thì lại nổ ra khủng hoảng.
Hay khi xây dựng khu đô thị cảng Hiệp Phước, lại gắn liền với việc di dời cảng. Quá trình di dời cảng và xây dựng đô thị cũng chậm, nên chưa hình thành những khu dân cư lớn như vậy.
Chẳng hạn, như nói về khu Thủ Thiêm, dường như có ý kiến quy hoạch lúc đầu đang bị xáo trộn lại?
Không, thực sự việc quy hoạch tổng thể toàn bộ khu này do một công ty tư vấn của Mỹ làm, và khi thực thi không có gì thay đổi cả. Hiện nay, vấn đề là thực hiện chậm thôi, chứ không phải thay đổi qui hoạch.
Khách sạn Caravelle
Vừa rồi, tôi có nói chuyện với nhà khảo cổ học và được nghe thông tin rằng đầu tiên dự kiến cho 20 héc ta đất để làm khu bảo tàng thành phố, sau rút lại còn 10 héc ta, và gần đây rút lại chỉ còn 1,8 héc ta. Người ta cảm giác có những tác động của nhóm lợi ích, chẳng hạn như các nhà kinh doanh bất động sản.
Vấn đề ở đây là đừng nhìn Thủ Thiêm chỉ với 600-700 héc ta mà có thể phát triển một khu đô thị cả về khoa học, văn hóa. Nên phát triển các công trình khoa học, văn hoá ở quận 9, gắn liền với khu công nghệ cao và làng văn hóa các dân tộc quốc gia.
Thủ Thiêm, theo tôi, chỉ nên là cái lõi về tài chính - ngân hàng. Thực sự tỷ lệ đất thương mại đó chỉ chiếm 30% thôi, còn công trình công cộng là chính.
Ví dụ, ở đó có một quảng trường với sức chứa cho cả triệu người tham gia mít-tinh. Hay có một cái hồ lớn. Còn phía Nam làm toàn bộ một khu làm bề mặt cho thủy triều lên xuống.
Như vậy, các công trình văn hoá nên xây dựng ở quận 9 và hình thành khu đô thị tri thức ở đây.
Thế tại sao hồi ấy nếu là khu tài chính - ngân hàng chẳng hạn, thì lại có khu phần mềm Nankang của Đài Loan?
Thực sự tài chính - ngân hàng là khu lõi. Trung tâm phần mềm như một tòa nhà, một điểm nhấn về kiến trúc thôi mà. Bởi để làm công nghệ cao không tốn diện tích như khu công nghiệp. Chủ yếu ăn nhau ở ý tưởng thôi.
Nghe nói ý tưởng xây dựng khu đô thị Thủ Thiêm còn có trước cả Phú Mỹ Hưng, mà sao triển khai lại chậm vậy?
Không phải đâu. Thủ Thiêm mãi tới năm 1997 mới đưa ra phác thảo thôi, đến 2002 mới lập phương án đền bù giải tỏa. Nhưng từ đó trở đi, vấn đề giải tỏa mới khiến dự án bị kéo dài ra, mỗi lúc lại thay đổi chính sách, do sự khiếu kiện về đền bù giải toả kéo dài.
Còn Phú Mỹ Hưng làm nhanh hơn, vì tư nhân làm thành ra mọi thủ tục này nọ dễ dàng hơn. Còn Thủ Thiêm là lập một cơ quan quản lý nhà nước để làm nên thủ tục hành chính rất nhiêu khê: thuê tư vấn rồi phải duyệt kinh phí, mọi thứ bị chậm rồi mất cơ hội.
Thế vì sao có một mô hình công ty tư nhân làm tốt như ở Phú Mỹ Hưng thì tại sao Thủ Thiêm không áp dụng?
Không thể làm được vì Thủ Thiêm có chứa đến hàng chục ngàn hộ dân, khác với Phú Mỹ Hưng là đất sình lầy.  Nếu giao cho tư nhân, người dân không bao giờ chấp nhận. Vì vậy, nhà nước phải đứng làm đô thị, đền bù giải tỏa cho đất. Thế mà còn làm không được, tư nhân làm sao nổi.
Thế bây giờ quay lại câu chuyện từ năm 2000, khi nhận thấy áp lực về dân nhập cư lên hạ tầng thành phố rồi, thành phố có tiến hành điều chỉnh lại không? Chẳng hạn, khuyến khích di chuyển các nhà máy thuộc những ngành công nghiệp thâm dụng lao động, chuyển sang thu hút những ngành công nghệ cao.
Bắt đầu tiến hành từ năm 2001, thành phố không nhận dự án FDI sử dụng nhiều lao động như may mặc, da giầy..., để giảm lao động phổ thông nhập cư. Khu vực tư nhân tập trung vào các khu công nghiệp, và thành phố đã di dời hoàn toàn những nhà máy xen lẫn với khu dân cư, chừng khoảng 1200 cơ sở, phải vào khu công nghiệp hết.
Giải quyết vấn đề đó là một vấn đề lớn của thành phố trong nhiều năm. Thành phố đã phải bỏ tiền ra hỗ trợ lãi suất các chủ doanh nghiệp đó di dời để đầu tư mới.
Tôi muốn hỏi thế này: ODA đầu tiên sinh ra từ chỗ các nước phát triển. Vì sợ dòng nhập cư từ các nước chậm phát triển gây ra cấc bất ổn kinh tế - xã hội - môi trường, nên họ có những khoản viện trợ phát triển để tạo công ăn việc làm ngay tại chỗ, và góp phần ngăn chặn dòng di dân.
Nếu ta so sánh TP.HCM và những vùng kém phát triển khác trong nước, liệu thành phố có nên có hình thức hỗ trợ nào đó tương tự như ODA không? Ông vừa nói đến hỗ trợ di dời vào khu công nghiệp, nhưng mình cũng có thể hỗ trợ vốn để họ thành lập nhà máy ngay tại những địa phương khác. Chẳng hạn anh Quảng Nam thì về Quảng Nam lập nhà máy, rồi sử dụng nhân công ngay tại đó, tiện nhiều bề.
Không, TP.HCM chưa thể làm được vai trò đó. Thành phố chỉ làm được thế này: ký hợp tác với hơn ba chục địa phương khác trong vấn đề hỗ trợ doanh nghiệp thành phố đầu tư vào các tỉnh. Thành phố ý thức được vấn đề này, nhưng thực hiện còn hạn chế. Bởi, đơn giản, doanh nghiệp thấy chỗ nào có lợi thì họ làm, chứ mình đâu chọn được chỗ cho họ, mà mảnh đất này vẫn thực sự có một sức sống lớn.
Chẳng hạn, do giá thuê đất ở đây đắt, nên Công ty May Nhà bè mở nhà máy mới ở Bình Định, chứ không mở rộng ở thành phố. Có điều, họ vẫn làm thương mại ở đây. Tương tự như vậy đối với các doanh nghiệp da giầy, đồ gỗ.
Hướng của thành phố là ở đây làm trung tâm thời trang, trung tâm giao dịch mua bán, thương mại, xuất khẩu, còn nhà máy làm nơi khác.
Thế còn chính sách ưu đãi đất đai cho các doanh nghiệp thuộc khu công nghiệp xây nhà ở cho công nhân? Nghe nói doanh nghiệp họ cũng đề xuất nhiều mà chưa được chấp thuận?
Tôi xin quay lại câu chuyện cũ. Khi quy hoạch các khu công nghiệp, không còn những khu như vậy, vì thực ra không còn đất. Muốn lập khu công nghiệp phải giải tỏa các khu dân cư bên cạnh, vấn đề đền bù rất lớn, mà cũng chưa giải quyết được.
Giải pháp có một số nơi đã làm, như khu Vĩnh Hội, Vĩnh Lộc, hay khu Tân Tạo, người ta đã chỉnh lại qui hoạch, xén bớt một phần đất công nghiệp chưa cho thuê được để xây nhà ở cho công nhân.
Còn những khu nơi đã lấp đầy thì chịu. Đó cũng là hệ quả của tầm nhìn quy hoạch.
Về dài hạn, những khu nhà trọ lụp xụp xuất hiện tự phát quanh các khu công nghiệp, như ông đã đề cập, theo ông, thành phố nên xử lý thế nào, dưới góc nhìn quy hoạch?
Chỉnh trang đô thị phải đi từng bước như vậy. Một số khu công nghiệp trong thành phố sẽ trở thành khu dịch vụ thương mại, khi hết vòng đời, theo giấy phép, của chúng. Thâm Quyến cũng làm như vậy.
Khi tôi đến Thâm Quyến đầu thập niên 1990, chỗ đó là khu công nghiệp. Nhưng sau 20 năm, khi tôi trở lại, ở đó khu công nghiệp không còn nữa, mà chuyển làm thứ khác rồi. Khi giá đất lên, thị trường sẽ tự điều chỉnh.

Quả chuông cổ và hành trình trở về đất mẹ

Quả chuông cổ và hành trình trở về đất mẹ
TTCT - Đã 89 tuổi và ngồi xe lăn, nhưng khi cầm chiếc búa gỗ đánh vào quả chuông cổ, ông Watanabe Takuro - vị luật sư già - đã để lại một hình ảnh vô cùng ấn tượng cho những người khách tới dự lễ cầu nguyện hòa bình tại Bảo tàng Bắc Ninh trung tuần tháng 9 này.
Những hồi chuông thanh bình ấy như một hi vọng thật sự khép lại hành trình gian nan để trở về đất mẹ của một quả chuông cổ sau nhiều thập kỷ lưu lạc...
Luật sư Watanabe (phải) và sư trụ trì chùa Ngũ Hộ chia sẻ nỗi xúc động về số phận quả chuông cổ - Ảnh: H.Ngọc
Vào một ngày cách đây đúng 35 năm (tháng 9-1977), luật sư Watanabe, một người có thú sưu tầm đồ cổ, phát hiện một quả chuông đồng Việt Nam được bày bán tại một cửa hàng đồ cổ ở Ginza, Tokyo (Nhật Bản).
“Đọc xong những dòng chữ Hán trên một mặt của quả chuông, tôi đã có ngay ý nghĩ tìm cách mua lại quả chuông để trả lại cho ngôi chùa và những người dân ở khu vực đó. Cha ông họ đã dồn biết bao tâm huyết để đúc nên quả chuông này, thế mà lại có kẻ cướp đi của họ” - luật sư Watanabe nói với người viết.
Trên bản khắc ở một mặt của quả chuông có ghi bằng chữ Hán, tạm dịch: “Chiếc chuông của chùa Ngũ Hộ, làng Kim Thôi, thuộc Bắc Ninh, trước đây do loạn lạc bị mất. Dân làng đã đúc lại cái mới thay vào. Nhưng tháng 2-1825 chuông lại bị sơn tặc lấy đi mất. Dân làng hằng ngày đã quen với tiếng chuông chùa, giờ mất nó mọi người đều rất buồn và họ bàn cách làm chuông mới... Trải qua ba năm, tiền và đồng quyên góp được đem đúc, phần còn thiếu được mua vào cho đủ”.
Ông chủ tiệm đồ cổ cũng chỉ biết rằng kẻ đã cướp quả chuông đó và mang về bán cho hiệu đồ cổ ở Ginza là một viên sĩ quan Nhật, chỉ huy cái xưởng gỗ ở ngay trong ngôi chùa khoảng đầu những năm 1940.
Thế nhưng cái giá mà ông chủ tiệm phát ra làm luật sư Watanabe cảm thấy nản - những 9 triệu yen. Lượn qua lượn lại tới vài lần nữa, cuối cùng vị luật sư cũng khiến chủ tiệm mềm lòng, chấp nhận bán với giá 5 triệu yen - một số tiền vẫn cực kỳ lớn lúc đó. Ông đành về bàn với người bạn thân là một giáo sư sử học, hai người quyết định chỉ có cách kêu gọi quyên góp tiền mới mong chuộc được chuông.
Họ đã lập ra “Hội hoàn hương chuông cổ” và mời những nhân vật nổi tiếng như sư cụ Oshini Ryokei - trụ trì chùa Kiyomizu, sư thầy Huzi Nitatsu - trụ trì chùa Nihon zan Myohoji và nhà văn nổi tiếng Matsumoto Seicho đứng ra phát động phong trào quyên góp tiền. Về phần mình, luật sư Watanabe đã cùng với ông bạn giáo sư của mình đến ngân hàng rút hết tiền tiết kiệm mang đến đặt cọc cho ông chủ tiệm đồ cổ. Bởi cùng lúc đó, ông tình cờ biết rằng có một nghị sĩ Nhật cũng đang ngó nghiêng quả chuông.
Sau chỉ 2-3 tháng, số tiền quyên góp được đã lên tới 9,6 triệu yen, so với mục tiêu 7 triệu ban đầu - số tiền tối thiểu cần để mua quả chuông và chuyển nó về lại Việt Nam. “Nhưng chúng tôi còn gặp may hơn thế. Ông chủ tiệm cảm động trước tấm lòng của mọi người cũng quyết định tham gia quyên góp bằng cách giảm giá bán xuống còn một nửa” - luật sư Watanabe kể.
Trước khi quả chuông được trao cho phía Việt Nam, trong suốt nửa năm trên đất Nhật đã diễn ra những buổi lễ cầu nguyện cho quả chuông. Bắt đầu từ chùa Zojiji (Tokyo) vào ngày 7-12-1977, rồi chuyển sang Kyoto, Nara, Osaka và Kobe, trước khi kết thúc ở chùa Kaneiji (Tokyo). Tháng 6-1978, quả chuông đã được trao lại cho Việt Nam trong một buổi lễ trang nghiêm và cảm động ở chùa Quán Sứ (Hà Nội).
Quả chuông cổ lưu lạc suốt nhiều thập niên - Ảnh: H.Ngọc
Người giáo viên tiếng Nhật và cuộc truy tìm tung tích quả chuông cổ
Năm 1993, chị Komatsu Miyuki, giáo viên tiếng Nhật ở Hà Nội, một thành viên của “Hội hoàn hương chuông cổ” năm 1977, nhận được bức thư từ luật sư Watanabe. Trong thư, ông viết rằng nguyện ước cuối cùng trong đời ông là biết được số phận hiện thời của quả chuông cổ ra sao. “Tôi đã đến chùa Bút Tháp, nơi sau lễ trao chuông ở chùa Quán Sứ đã tiếp nhận quả chuông này, nhưng không thấy quả chuông đó. Những người ở chùa cũng không biết gì về quả chuông” - chị nói.
Sở dĩ quả chuông được đưa về chùa Bút Tháp vào năm 1978 là do chùa Ngũ Hộ - nơi quả chuông được đúc - đã bị quân Pháp phá hủy vào đầu những năm 1950. Hơn nữa, trong số 300 người quyên góp tiền đồng và vàng để đúc chuông, được ghi danh trên ba mặt còn lại của quả chuông cổ, có cả những người dân khu vực Bút Tháp.
Kể từ đó, cứ có dịp thuận tiện là chị Komatsu lại đi hỏi về tung tích quả chuông. Hỏi từ những hướng dẫn viên du lịch, bạn bè dạy tiếng Nhật ở Việt Nam, tới những người “có dính dáng” đến lễ trao chuông năm 1978. “Hầu như không còn ngôi chùa nào ở quanh khu vực Hà Nội, Bắc Ninh mà tôi không sục vào, ngó nghiêng mọi ngóc ngách. Thậm chí nghe phóng viên Minh Hà của Đài Tiếng nói Việt Nam bảo rằng có nhìn thấy một quả chuông cổ trong một ngôi chùa ở TP.HCM tôi cũng tranh thủ bay vào. Nhưng rồi thất vọng vẫn hoàn thất vọng” - chị Komatsu nhớ lại.
Thế rồi sau chín năm của cuộc truy tìm vô vọng, một người đã mang lại cho chị tia hi vọng mới. Đó không phải là một người Việt mà là phó giáo sư sử học Nishimura, rất giỏi tiếng Việt. Vị học giả này hỏi chị đã lên Bảo tàng Bắc Ninh, nơi ông có một người quen là giám đốc Lê Viết Nga, chưa. “Tại sao tôi lại không nghĩ đến Bảo tàng Bắc Ninh, mà cứ quanh quanh ở mấy cái bảo tàng tại Hà Nội nhỉ?” - Komatsu vừa kể lại vừa đập tay lên trán.
Nỗ lực không mệt mỏi của Komatsu đã được đền đáp. Cuối cùng chị đã tìm thấy quả chuông cổ trong một cái kho lưu trữ cổ vật. Dần dần, qua tìm hiểu những người có liên quan trong ngành bảo tàng ở Bắc Ninh, Komatsu mới dựng lại được quá trình lưu lạc của quả chuông. “Những người nhận chuông, tuy không hẳn không có lý khi đưa chuông về chùa Bút Tháp, nhưng họ đã quên một điều quan trọng rằng ngôi chùa này cũng đã có một quả chuông riêng của mình. Có lẽ vì vậy mà họ ít quan tâm đến một quả chuông của chùa khác (Ngũ Hộ), dù đó là một quả chuông cổ” - Komatsu tự lý giải về việc mấy năm sau quả chuông lại được giao cho Bảo tàng Hà Bắc.
Đến năm 1996, tỉnh Hà Bắc tách ra thành Bắc Ninh và Bắc Giang. Nhân sự chia đôi và đồ vật, cổ vật thuộc tỉnh nào về tỉnh ấy. Bắc Ninh xây bảo tàng mới và mọi cổ vật đều được đưa để nhờ vào một cái kho. “Khi nhìn thấy quả chuông nằm tít trong góc kho, sau một cái tủ, bụi phủ đầy, tôi suýt nữa đã òa khóc nếu không có người thủ kho đứng đó. Tôi sẽ kể thế nào với luật sư Watanabe đây?” - Komatsu kể lại trong trạng thái xúc động. Sự bức xúc của Komatsu dịu đi khi chị biết rằng không ai trong số cán bộ Bảo tàng Bắc Ninh biết chữ Hán.
Có chuông - không chùa, có chùa - không chuông
Trong lá thư gửi cho chị Komatsu năm 1993, cuối thư luật sư Watanabe gửi lời chúc: “Hỡi quả chuông Việt Nam, hãy ngân lên nguyện cầu cho hòa bình!”.
Vị luật sư, người đã tham gia phong trào phản đối cuộc chiến tranh của Mỹ ở Việt Nam từ những ngày đầu và là một thành viên trong phái đoàn Luật sư dân chủ quốc tế đến Hà Nội cuối năm 1972 để điều tra tội ác của đế quốc Mỹ, vẫn còn nhớ chỉ ít lâu sau khi quả chuông, biểu tượng của sự yên bình, được trao lại cho Việt Nam, người dân nước này lại bị xô đẩy vào hai cuộc chiến tranh liên tiếp khác. Và ông cũng hiểu yên bình vẫn chưa trở lại hoàn toàn trên đất nước Việt Nam. Có điều ông đã quá già yếu để có thể làm thêm điều gì đó. Ông chỉ có thể tự tay đánh lên những hồi chuông nguyện cầu hòa bình cho Việt Nam.
Ông Lê Viết Nga - giám đốc Bảo tàng Bắc Ninh - nói rằng khách tham quan bảo tàng, nhất là đi theo đoàn, nếu có yêu cầu, bảo tàng vẫn cho đánh chuông chứ không phải tuân thủ nghiêm ngặt nguyên tắc “cấm sờ vào hiện vật”. Nhưng điều đó vẫn chưa làm luật sư Watanabe thôi day dứt. “Chuông chùa phải được đưa về chùa chứ, để sớm chiều người dân được nghe tiếng chuông ngân. Chính vì nhớ tiếng chuông mà người dân mới quyên góp tiền để đúc chuông tới lần thứ ba, sau hai lần bị mất cắp” - ông giải thích.
Và đó cũng là tâm nguyện của sư thầy Huệ Hồng, người trụ trì chùa Ngũ Hộ từ năm 2008, bảy năm sau khi ngôi chùa mới này được người dân xây lại trên một phần đất của ngôi chùa cũ. Sư thầy kể rằng sư đã cùng người dân và chính quyền thôn ba lần làm đơn xin rước chuông về.
Một thoáng ưu tư của vị luật sư già
Sáng 19-9 vừa rồi, trên đường đi thăm chùa Phật Tích, luật sư Watanabe nhận được một cú điện thoại của sư thầy Huệ Hồng khẩn khoản đề nghị ông hoãn chuyến bay về Nhật đêm hôm đó để ở lại dự lễ đúc quả chuông mới theo mẫu quả chuông cũ. “Quả chuông mới giống đến mấy cũng chỉ giống phần xác thôi, còn phần hồn sao so được. Trong tiếng ngân của nó hàm chứa bao tâm sự, bao trải nghiệm về một thời loạn lạc” - luật sư Watanabe ưu tư. Ông quả quyết rằng theo truyền thuyết, tất cả các quả chuông đều tìm cách trở lại ngôi chùa của nó.
Sư thầy Huệ Hồng mới đây cho biết sư đã suy nghĩ lại, thay vì đúc chuông mới, sư sẽ dùng số tiền đó để xây tháp chuông vì chùa Ngũ Hộ chưa có tháp chuông.
HUỲNH PHAN