Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011

Chuyện về “ông chủ” công ty Anh-Chị-Em


Thứ ba, 19 Tháng bảy 2005, 14:20 GMT+7
  • Cỡ chữ

Chuyện về “ông chủ” công ty Anh-Chị-Em

- Viết xong ngày tháng khi điền tờ khai hải quan, Lâm Hải Tuấn mới chợt giật mình: “Ồ, hôm nay là ngày sinh nhật của mình!”
Cảm xúc thật bất chợt đó diễn ra tại Sân bay Osaka của Nhật vào trưa ngày Chủ nhật 26/6/2005 khi Lâm Hải Tuấn chuẩn bị lên chiếc Boeing 777 của Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam bay về Thành phố Hồ Chí Minh. “Đây chính là món quà sinh nhật dành cho mình”, anh mỉm cười tự nhủ, khi đã yên vị trên máy bay và giở tờ giấy phép thành lập công ty ACE INA Vietnam được tự tay Bộ trưởng Nguyễn Sinh Hùng trao cho Chủ tịch ACE Life International Jacobson mấy hôm trước ở Washington D.C. ra ngắm nghía.
Chuyen ve ong chu cong ty Anh Chi Em
Ông chủ của công ty Anh-Chị-Em Lâm Hải Tuấn.
Lễ sinh nhật đầu tiên ở tuổi 43
Vừa bước ra khỏi phòng đợi, Tuấn nhìn thấy cả 10 người trong ban quản lý ACE Vietnam tươi cười chờ đón anh với bó hoa lan Thái đủ màu sắc. Tuấn càng ngạc nhiên hơn khi về tới văn phòng công ty tại Toà nhà Sun Wah, một chiếc bánh ga tô thật lớn với dòng chữ "Chúc mừng sinh nhật" đang đợi anh. Ông Giám đốc 43 tuổi này đã rưng rưng nước mắt nói: "Trong đời tôi cho đến ngày hôm nay chưa có ai tổ chức sinh nhật cho cả"!
Tuổi thơ của cậu bé Lâm Hải Tuấn gắn liền với thời kỳ khó khăn của Việt Nam, và sau này là những năm tháng ở Mỹ vừa đi học vừa đi quét bụi cho thư viện, hay làm gia sư để tự lo tiền học và giúp đỡ cha mẹ nuôi ba đứa em nhỏ. Sau này, đến khi đi làm, hay lập gia đình, thì công việc nay đây mai đó, chả bao giờ anh có mặt ở nhà vào ngày sinh nhật cả. “Tôi còn quên sinh nhật của mình, huống hồ là người khác”, Lâm Hải Tuấn kể lại.
Suốt 2 tiếng rưỡi đồng hồ, họ ngồi bên nhau như những người thân, nói hết chuyện nọ đến chuyện kia, từ chuyện nhận giấy phép bên Mỹ thế nào đến lễ treo biển của công ty ở đây ra sao, nhưng nhiều nhất vẫn là kế hoạch triển khai giấy phép để có thể đưa công ty chính thức vào hoạt động trong quý 4 này.
“Tôi cứ tưởng tấm giấy phép là món quà có ý nghĩa nhất, nhưng sự quan tâm của anh chị em trong công ty đối với tôi còn quý hơn nhiều”, Lâm Hải Tuấn tâm sự.
Công ty Anh-Chị-Em
Đặng Giao Thùy Uyên, người được Giám đốc Lâm Hải Tuấn mời về từ Ngân hàng Hồng Công & Thượng Hải cách đây 2 tháng để phụ trách mảng đối ngoại, đã nói: “Từ khi về đây, chúng em không còn cái cảm giác đi làm thuê nữa, mà đang làm cho chính gia đình mình. Nhiều hôm chúng em làm việc tới sáng luôn mà chẳng ai tính toán thiệt hơn gì cả”.
Công việc có liên quan đến cộng đồng người Việt ở California, khi anh làm trưởng chi nhánh của Tập đoàn Bảo hiểm Nhân thọ Metlife ở đó, và thời gian hai năm ở Việt Nam chuẩn bị cho công ty nhận giấy phép và đào tạo nhân lực đã giúp Lâm Hải Tuấn nhận ra rằng dân tộc Việt Nam tạo ra “rất nhiều viên kim cương”, nhưng là những viên kim cương đơn lẻ.
“Tôi muốn khi nắm lại một vốc kim cương, thả tay ra phải được một khối kim cương. Và chất kết dính đó chính là văn hoá teamwork”, Lâm Hải Tuấn nói.
Lâm Hải Tuấn tiết lộ “bí quyết” quản lý nhân lực của anh là làm cho đội ngũ quản lý ở đây cảm thấy tự hào vì họ là một phần của công ty, và coi việc góp sức vào sự lớn mạnh của công ty như một sự khẳng định cho thương hiệu cá nhân của mình.
“Một ngày nào đó bất kỳ ai trong đội ngũ quản lý và nhân viên của tôi có thể tự hào khi nghe câu nói :Wow, you are with ACE Vietnam! (Ồ, bạn đang làm cho ACE Vietnam cơ đấy!)”, anh nói, ánh mắt hơi mơ màng.
Theo Lâm Hải Tuấn, những người của Tập đoàn ACE sang đây đều hết sức ngạc nhiên trước sự thông minh và năng động của đội ngũ quản lý người Việt làm ở đây, và chính ông Jacobson khi gặp anh tại Washington D.C., khi nói đến Việt Nam trong một loạt các thị trường nước ngoài đối với tập đoàn, chỉ buông một câu ngắn gọn: “No concerns!” (Không có gì phải lo cả!)
Chuyen ve ong chu cong ty Anh Chi Em
Người Việt phải có vị thế xứng đáng
“Nếu tôi không về đây, ACE sẽ chọn một người Mỹ về đây quản lý, và người Việt Nam mình vẫn cứ là con trâu trong khi họ là người cầm cày”, Lâm Hải Tuấn nói. Anh đã kiên quyết yêu cầu Tập đoàn bên Mỹ chỉ cử chuyên gia sang đào tạo đội ngũ quản lý người Việt rồi để họ tự điều hành công ty.
Trong thời gian gần 20 năm làm việc cho Metlife ở Mỹ, Lâm Hải Tuấn đã chứng kiến nhiều người Mỹ gốc Việt, và gốc Á nói chung, rất có khả năng nhưng không có cơ hội thăng tiến như những người Mỹ bởi sự phân biệt đối xử trong cái văn hoá “glass ceiling” (trần vô hình) của Mỹ. “Nếu họ muốn được công ty để ý, hay công nhận, họ phải nỗ lực gấp 5, 10 lần so với người Mỹ gốc Âu”, Lâm Hải Tuấn bức xúc.
Bản thân anh cũng phải hy sinh hết cả tuổi trẻ để nỗ lực học tập lấy đủ bằng nọ chứng chỉ kia, từ kỹ sư điện, quản lý ngân hàng, kiểm toán đến chứng khoán..., và sau đó phấn đấu cật lực trong công việc mới được sự thừa nhận của Metlife trước đây, và ACE hiện nay.
“Cả hạnh phúc riêng tư của tôi cũng bị ảnh hưởng”, Lâm Hải Tuấn nói, giọng trầm xuống. (Anh đã ly dị được 5 năm năm, và nhìn vẻ mặt buồn lặng của anh khi nhớ lại chuyện đó tôi không dám hỏi thêm câu gì).
“Vậy thì ngay tại đây, chứ không phải tại mảnh đất sống nhờ, tại sao mình lại không tạo cơ hội cho anh chị em mình có cơ hội để nhanh chóng tiến xa cơ chứ?”, Lâm Hải Tuấn vừa nhìn vào khoảng không vừa nói, như với chính mình.
Ngay cả chiến lược kinh doanh và kế hoạch triển khai cụ thể cũng được chính anh với đội ngũ quản lý người Việt ở đây soạn thảo dựa trên những nghiên cứu, phân tích thị trường và đặc điểm văn hoá của người Việt Nam chứ không copy từ tập đoàn, theo như thông lệ.
“Tôi muốn ACE Vietnam trở thành công ty tiên phong trong việc kết hợp sức mạnh và uy tín của một tập đoàn đa quốc gia bên ngoài với một logo riêng của người Việt ở đây”, Lâm Hải Tuấn bộc lộ tham vọng của mình.
Anh đang ấp ủ dự định xây dựng ACE Vietnam trở thành một hình mẫu trong Tập đoàn về tính chuyên nghiệp cao của đội ngũ quản lý, để khi ACE International muốn thành lập một công ty mới ở bất cứ nước nào khác, họ có thể cử người ở đây đi, như họ đã từng cử anh sang Việt Nam cách đây 2 năm.
“Nếu ACE Vietnam thành công, các công ty đa quốc gia khác cũng noi theo gương này mà trọng dụng đội ngũ quản lý người Việt”, Lâm Hải Tuấn nói, giọng đầy lạc quan.
Chuyen ve ong chu cong ty Anh Chi Em
Trả nghĩa người cha
“Khi tôi rời Metlife để về Việt Nam, đồng nghiệp, bạn bè và người thân đều bảo tôi điên, từ bỏ cả một sự nghiệp đầy hứa hẹn để tìm đến một mảnh đất đầy rủi ro bất trắc như Việt Nam”, Lâm Hải Tuấn nhớ lại.
Lúc đó, anh đang phụ trách mảng thị trường Á Châu và Việt Nam của công ty này, sau ba năm liền từ 1994 đến 1996 được bầu làm “The Man of The Year” (Nhân vật trong năm) của Metlife do thành tích xuất sắc trong việc điều hành Chi nhánh California.
“Tôi nghĩ mỗi người đều có một cái gì đó thiêng liêng, hay như người ta thường gọi là hoài bão, để vươn tới, và đối với tôi hoài bão đó là thực hiện ước nguyện của cha tôi”, Lâm Hải Tuấn lý giải. Cha anh, trước khi nhắm mắt vào năm 1989, đã trăn trối lại với các con: “Hãy đừng quên Việt Nam, hãy làm điều gì đó cho Việt Nam, mảnh đất đã sinh ra ba và cả gia đình ta”.
Năm 1977, gia đình Lâm Hải Tuấn được chính quyền cho phép sang Mỹ vì cha anh là người gốc Hoa. Ông giáo sư văn chương và Pháp văn, vốn chỉ gắn bó với sách vở và học trò, không hề muốn tận dụng cơ hội này. Nhưng vì chiều ý bà vợ muốn tạo cơ hội học hành cho 5 đứa con, ông đành gác bút nghiên, chấp nhận phụ giúp bán hàng cho bà trong một cửa tiệm nhỏ của gia đình để nuôi các con ăn học khi gia đình họ sang Mỹ.
“Trong suốt 12 năm cuối đời, ông luôn day dứt với nỗi nhớ quê hương, và có lẽ ông mất sớm vì lý do đó”, Lâm Hải Tuấn bồi hồi nhớ lại. Anh cho biết mỗi khi gia đình đoàn tụ là cha anh lại gợi chuyện về Việt Nam để nói với các con. Gia đình Lâm Hải Tuấn cũng có hai điều luật bất di bất dịch: Không ai trong số 5 anh chị em nhà anh được đổi sang tên Mỹ, và khi nói chuyện với nhau họ không được dùng tiếng Anh.
“Tôi được học hành, thành đạt như ngày hôm nay, là hoàn toàn nhờ vào sự hy sinh của cha tôi ngày ấy, thì việc trở lại Việt Nam để đóng góp một cái gì đó, như ước nguyện của ông, thực ra cũng đâu to tát gì”, Lâm Hải Tuấn nhìn nhận.
Hai năm sau, Lâm Hải Tuấn thu xếp công việc để về Việt Nam lần đầu tiên, và khi trở lại Mỹ, anh đã có một đề nghị táo bạo với Metlife là đầu tư vào thị trường Việt Nam. Từ đó trở đi anh liên tục có dịp về Việt Nam nghiên cứu thị trường, và củng cố thêm niềm tin của mình vào tương lai của thị trường này. Rất tiếc là sau đó Metlife đã thay đổi chiến lược để đầu tư vào Trung Quốc.
“Tôi rất tâm huyết với những cơ hội đầu tư ở Việt Nam, và việc họ thay đổi chiến lược khiến tôi hoàn toàn thất vọng”, Lâm Hải Tuấn lắc đầu, và cho biết thêm đó chính là lý do về mặt nghề nghiệp khiến anh không gia hạn hợp đồng với Metlife, khi nó kết thúc vào tháng 10 năm 2002.
Tự bỏ tiền túi trở lại Việt Nam nghiên cứu những thay đổi của thị trường, sau mấy tháng, Lâm Hải Tuấn đã có trong tay một bản phân tích thị trường cụ thể và một kế hoạch hành động chi tiết.
Cùng lúc đó, anh nhận được một cú phone của ACE, và sau khi nghe anh trình bày, Chủ tịch của Tập đoàn ACE Greenberg đã mời anh về làm với cương vị Phó Chủ tịch của ACE Life International. Ít lâu sau anh được cử sang Việt Nam.
“Đúng là ý tưởng của họ đã gặp ý nguyện của tôi”, Lâm Hải Tuấn mỉm cười kết luận.
  • Hoàng Ngọc

Đóa hồng trên đảo Tuần Châu


Thứ năm, 26 Tháng năm 2005, 19:24 GMT+7
  • Cỡ chữ

Đóa hồng trên đảo Tuần Châu

Tuần Châu mấy năm nay trong con mắt của nhiều người giống như một khu biệt thự mà chủ nhân của nó là một người đàn ông cô độc. Sau khi cất xong toà biệt thự ông ta lại ra đi, lâu lâu mới quay về để tổ chức "một bữa tiệc linh đình" thết đãi bạn bè nhân dịp "rửa" cái vườn cảnh, cái ao cá, hay cái sảnh nghe nhạc... Rồi một "bóng hồng" xuất hiện. Vẫn cái vườn, cái ao, cái sảnh... đó, nhưng dường như mọi thứ trở nên "sống động" hơn, có "hồn" hơn bởi có đôi bàn tay người phụ nữ. Khách khứa tự nhiên năng đến hơn, mặc dù ông chủ vẫn cứ "bận công chuyện" vắng nhà.
Doa hong tren dao Tuan Chau
Á hậu Trịnh Chân Trân.
Tuần lễ đầu tiên
Vào hạ tuần tháng Ba, thời điểm bắt đầu mùa du lịch năm nay ở Tuần Châu, cứ từ khoảng 7 giờ sáng, du khách, và cả một số nhân viên trong khu du lịch Tuần Châu của ông "Chúa Đảo" Đào Hồng Tuyển, lại thấy có sự xuất hiện của một người phụ nữ trẻ trung, xinh đẹp. "Cặp chân dài" của cô cứ thoăn thoắt từ chỗ này qua chỗ khác. Khi thì thấy cô ở sảnh khu khách sạn 5 sao, đón chào các đoàn khách du lịch Nhật khi họ chuẩn bị check-in. Loáng một cái lại thấy cô ở khu biểu diễn cá heo, giải thích cho một gia đình người nước ngoài về nội dung chương trình đang diễn ra. Vào bữa trưa và bữa tối, lại thấy cô đi hỏi từng đoàn khách một xem họ ăn có vừa miệng không.
Gặp khách Trung Quốc cô nói tiếng Hoa, gặp khách Nhật thì nói tiếng Nhật, còn gặp khách phương Tây cô lại chuyển sang tiếng Anh. Đa phần du khách cứ nghĩ đây là một cô nhân viên lễ tân, hay cùng lắm là người phụ trách khách hàng của khu du lịch này. Nhưng cũng có một số người hiếu kỳ hỏi cô là ai, và nhận được câu trả lời: "Tôi là Phó Tổng Giám đốc phụ trách kinh doanh". Vừa nhìn tấm danh thiếp cô đưa cho để "xác minh" lại cho chắc, họ vừa thốt lên: "Ồ! Không ngờ bà Phó TGĐ lại đích thân đi làm những việc nhỏ nhặt như thế này!"
Trịnh Chân Trân, cô Á hậu của Cuộc thi Hoa Hậu Việt Nam cách đây hơn nửa năm cũng trên ở hòn đảo này, đã bắt đầu tuần làm việc đầu tiên của mình trên cương vị mới như vậy.
"Đối với công việc kinh doanh điều quan trọng nhất là phải tìm hiểu tâm lý và sắc thái văn hoá khách hàng, xem họ chưa vừa ý cái gì mà điều chỉnh ngay, có như vậy thì lần sau họ mới trở lại", Chân Trân giải thích phương châm kinh doanh của cô.
Thử thách trước mắt
Mặc dù chỉ đoạt danh hiệu Á hậu 1 trong cuộc thi Hoa hậu Việt Nam 2004, nhưng Trịnh Chân Trân có sức thu hút đặc biệt đối với công chúng. Còn nhớ ngay tại cuộc thi nói trên cô cũng đã được công chúng bình chọn là hoa hậu. Giờ thì cô đã là Phó Tổng Giám đốc của một doanh nghiệp lớn. Chúng tôi đã gặp cô trên đảo Tuần Châu...
"Nhiệm vụ chính của tôi bây giờ tăng cường tiếp thị kinh doanh để làm sao tăng lượng khách đến đây, nhất là khách nước ngoài vào mùa hè này", Chân Trân nói. Sau hơn một tuần tìm hiểu, "Bà Phó TGĐ" nhận thấy rằng hoạt động vui chơi giải trí cần phải được đa dạng hoá hơn nữa.
Trong thời gian làm người mẫu ảnh cho một công ty quản lý người mẫu của Nhật, Chân Trân đã được đi rất nhiều khách sạn, khu resort nổi tiếng ở châu Á nên cô biết muốn thu hút nhiều khách nước ngoài tới đây, cuộc sống về đêm rất quan trọng. Chứ không phải như bây giờ, cứ đến 10 giờ tối khi Khu Sân khấu Nhạc nước kết thúc biểu diễn, khu cá heo, sư tử biển hết suất diễn, là Tuần Châu lại chìm vào trong giấc ngủ. Theo kế hoạch của "Bà Phó TGĐ", sắp tới Tuần Châu sẽ khai trương các quán bar, phòng karaoke hiện đại và đặc biệt quán cà phê ngay tại bể bơi ngoài trời, nơi du khách có thể cảm nhận vẻ đẹp về đêm của Tuần Châu bên ly nước hoa quả, ly rượu, trong tiếng dương cầm du dương hay tiếng vĩ cầm da diết. "Những du khách ưa sự sôi nổi, trẻ trung cũng có cơ hội thể hiện mình tại vũ trường đang chuẩn bị khánh thành", Chân Trân hào hứng kể.
"Rõ ràng từ trước đến nay, Khu Tuần Châu chưa có một sự kết hợp khai thác đồng bộ, và đó là thử thách ông Chủ tịch HĐQT đặt ra cho tôi", Chân Trân nói tiếp. Một loạt các sự kiện văn hoá liên tục diễn ra trong mùa hè này, bắt đầu bằng chuyến lưu diễn của đoàn vũ công Flamenco (Tây Ban Nha) đầu tháng Tư vừa rồi. "Các ca sĩ, ban nhạc nổi tiếng nước ngoài sẽ được mời đến biểu diễn tại Sân Khấu Nhạc Nước, để đưa nó lên đúng tầm cỡ một sân khấu hàng đầu Đông Nam Á" - Chân Trân tiết lộ.
Ông Chủ tịch HĐQT, vốn đang "ôm đồm" đủ thứ dự án ở Nha Trang, TP.HCM, Hà Nội..., đã giao phó tất cả, từ "bộ mặt" đến "linh hồn" Tuần Châu cho "đôi chân thoăn thoắt, đôi tay khéo léo, đôi mắt tinh tường và cái đầu nhạy bén" của người cộng sự năng động mà ông nhận thấy từ kỳ thi Hoa hậu năm ngoái nhờ vào "linh cảm đặc biệt" của mình.
"Sau khi trở lại Tuần Châu từ chuyến đi phía Nam để tiếp xúc các đối tác làm ăn, tôi không hở được phút nào từ 6 giờ sáng đến 12 giờ đêm, thậm chí công việc cũng theo luôn vào giấc ngủ", "Bà Phó TGĐ" phân bua với tôi khi từ chối "mail" cho bài viết này một tấm hình chụp "Bà" đang điều hành công việc. Chân Trân tiết lộ thêm là cô đã xây dựng xong một nhóm tiếp thị nhắm tới 3 thị trường trọng điểm là EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ với toàn "dân chuyên nghiệp" do cô mời về, và đang xây dựng một đề án quảng bá rầm rộ qua kênh truyền thông nước ngoài.
Chất chuyên nghiệp
"Gia đình tôi là một gia đình có truyền thống kinh doanh, và ba mẹ tôi đã hướng tôi nối nghiệp họ khi gửi tôi qua Singapore năm 1998 học quản trị kinh doanh tại trường Staffordshire của Anh mở tại đây", cô con gái cả của người cha kinh doanh mỹ phẩm và người mẹ kinh doanh bất động sản thổ lộ. Đỗ cử nhân sau 3 năm đèn sách, cô tiếp tục sang Anh học tiếp một năm thạc sĩ quản trị kinh doanh cũng tại trường đại học này.
Dường như cảm thấy học thế vẫn chưa có đủ kiến thức của một nhà kinh doanh hiện đại, Chân Trân qua Mỹ học tiếp một năm nữa về tâm lý học tại "The City University of New York", nơi cô tốt nghiệp với đề tài "Tâm lý khách hàng". "Chắc anh thắc mắc vì sao tôi chọn cách bắt đầu công việc của mình bằng việc chủ động thăm dò phản ứng của khách hàng? Chính nhu cầu thực sự của họ sẽ quyết định việc điều chỉnh bộ máy hoạt động cho phù hợp", cô đáp lại câu hỏi đọc được trong mắt tôi.
Kể cả việc tình cờ chấp nhận làm người mẫu cho một công ty Nhật cũng được Chân Trân coi là một dịp thử thách khả năng của bản thân. "Kiến thức tôi có được ít nhiều đã giúp ích cho tôi biết cách làm sao thể hiện những khía cạnh tốt đẹp nhất của bản thân mình trước các công ty khách hàng để họ có thể tin tưởng cùng hợp tác với tôi", Chân Trân nhớ lại. Cơ hội do nghề người mẫu ảnh tạo ra cũng giúp cô rất nhiều trong việc kiểm nghiệm kiến thức quản trị kinh doanh cô được học tại trường với thực tế "sở thị" được ở những nơi cô đặt chân tới, những khách hàng mà cô cộng tác.
Khi ông Đào Hồng Tuyển mời Chân Trân vào làm việc, cô đã hỏi luôn: "Anh định trả lương cho em bao nhiêu?" Ông Tuyển, theo lời cô kể lại, có trả lời là "em muốn bao nhiêu thì anh trả bấy nhiêu". Cô đáp lại: "Như vậy là anh chưa hề có hình dung trước về những điều anh cần em làm cho công ty anh, bởi năng lực thế nào thì trả lương thế đó chứ".
Đúng trong thời gian này những công ty thuộc nhiều lĩnh vực khác nhau như hàng không, quảng cáo, du lịch, đầu tư đất đai... cũng đánh tiếng mời cô. Sau hơn một tháng suy nghĩ, cân nhắc, cuối cùng cô đã chọn Âu Lạc vì cảm nhận được thách thức từ tham vọng của ông Tuyển muốn biến Tuần Châu thành một thương hiệu quốc tế bằng "công sức và trí tuệ của người Việt Nam".
"Tiêu chí đầu tiên là công việc đem lại cho mình niềm hứng thú đam mê, mình cứ vượt qua thách thức đã. Thể hiện trước, đòi hỏi sau", cô kết luận.
  • Huỳnh Phan

Thứ Năm, 17 tháng 11, 2011


History of a moving forward

My first trip to Vietnam was in 1989 and I came with my then boss, Ambassador Sullivan, who had been invited by your Foreign Minister, Mr. Nguyen Co Thach. 
So I came in 1989 when your government was reaching out to the US government to begin the process of normalization. With Ambassador Sullivan, who had been to Vietnam many times, I was learning through his eyes the history of Vietnam and really the optimism that Vietnam had about moving forward with Vietnam.
Virginia Foote, Chairwoman of US-Vietnam Trade Council Photo: Vietnam-USA Magazine
Virginia Foote, Chairwoman of US-Vietnam Trade Council Photo: Vietnam-USA Magazine
When we came here, the US and Vietnam had no relationship and really had had no interactions or very, very little interactions since the end of the war. There was a full embargo in place. The Vietnamese did not have embassies in Washington, we did not have an embassy in here. There was really no contact, and there were many layers of restrictions that were put on contact. So we started the process of looking at those restrictions and building the plan to get them removed.
I’m always delighted to see these photographs of signing ceremony. Some of the key players on both sides are in these pictures. You can start with Senators John Kerry and John McCain. The veterans in the US, at the very early stage, played a very important role in wanting to see a new future between the US and Vietnam. John Kerry and John McCain don’t agree on the war itself, but they did agree on what should happen in the future, and so building on that, they really took a leadership role. And also, they were members of the Vietnamese-American Community who saw that we can’t all agree about the past, but let’s try to build a new future. And then I think the third piece was the business community who felt a great opportunity here. There could be a good bilateral trade and investment climate, and they really worked and pushed to get normalization.
After BTA numbers are dramatic and impressive and continue to grow. Every year is better than the last. Foreign direct investment continues to grow. Now Vietnam is selling more to the US than is buying from the US. I think the flip side is to always be looking at projects that don’t happen or the people who come to Vietnam from the US and don’t stay. And one of the things that we try to do is to look at that and to understand why and to try to help improve the system or improve the process, so that more and more people when they come, they’ll stay. They don’t come and look, but they come and stay. And I think that’s where the growth is for Vietnam; it’s try to figure out how to attract more and more investors, more traders and expand what platform is already there.
In order to go into any market, investors have to do their homework. There are a lot of American, big American companies, who are quite familiar with global trends, global trade and global procedures. But there are many American companies who, maybe they trade with one of our immediate neighbors, so to come to a country like Vietnam is unique and different and something of a challenge. So it’s the question of “Is your business appropriate here?” “Do you have a very good counter-part in Vietnam?” “Do you understand what kind of product you’re trying to sell or what project you’re trying to develop?” I think I order to go into any country, you have to do your homework and be realistic about what your possibilities are.
I work for a company called “Vietnam Partners” now. We are trying to assist Vietnamese companies who are looking for partners or investors, or markets globally. We are also helping foreign companies would like to either expand their businesses here or develop a new market strategy, or expand their access to partners in Vietnam. So it’s really a service to help Vietnamese companies and foreign companies to make a match.
There are still things that need to be worked on as there are for every country. You can never get to a point where you say “We’ve done everything that need to be done and now we’re just implementing them.” I think the WTO and international trade agreements try to get the rules for what comes and goes between borders, but what has to happen within the border is an increased level of transparency. The accounting system in Vietnam is not the international standard, and companies sometimes don’t feel they understand the books, the tax system, the payment system of their counterpart. And that’s something I think Vietnam needs to continue to work on to go the next step in attracting partnerships.
Infrastructure development in Vietnam is a huge growth area and needs to grow quickly. That right now is something of a break on Vietnam’s ability to go forward much faster for domestic companies and foreign companies. So infrastructure is a big growth area. The other area though, I think is what we call “soft infrastructure”: education systems, technology, telecommunications. These are all areas that make a difference for domestic and foreign companies in their ability to grow. And I think the US has a lot to offer in terms of education system. So I think the soft infrastructure is also a very important part of Vietnam’s growth.
I’m delighted that last year, both Vietnam and the US decided to go into the transpacific partnership, which is the first real APEC countries agreement. The US and Vietnam have not been in the regional agreement with each other, so this is a very important next step. And I think the transpacific partnership, or TPP as we call it, will increase the horizontal harmonization, meaning that the way to do business in one country is not too different from the way they do business in another country.
* Chairwoman of U.S-Vietnam Trade Council
Source: Vietnam-USA Magazine’s special edition: Vietnam-US: New Chronicle published in July, 2010

THỨ BA, NGÀY 26 THÁNG BẢY NĂM 2011

Nhớ mãi một Bộ trưởng tài năng

Lang thang rong chơi trên mạng, Thăng Sắc tình cờ tìm được bài viết này của Tiến sĩ Nguyễn Hồng Thạch viết về cố Bộ trưởng NGUYỄN CƠ THẠCH, tuy viết đã lâu nhưng vẫn hay quá, xin phép đăng lại trên Lều Văn để mọi người cùng xem.

Bài học đầu tiên tôi học được của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch lại là cuộc họp báo cuối cùng của Ông. Vào một ngày tháng 7/1991, Tổng biên tập Tạp chí Quan hệ Quốc tế thông báo cho chúng tôi là có buổi họp báo của Bộ trưởng tổ chức tại Bảo tàng Hồ Chí Minh. Những buổi họp báo như thế này, nếu chúng tôi có phải đưa tin thì cũng đã có "công thức", và có bài sẵn cả rồi. Nhưng tò mò, chúng tôi kéo nhau sang Bảo tàng để nghe. Năm tháng trôi qua, nhưng tôi không thể nào quên hình ảnh điềm tĩnh, đầy tự tin và những câu trả lời chắc nịch của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Đặc biệt khi có một phóng viên nước ngoài hỏi Bộ trưởng về tình hình quan hệ Việt-Trung, cả hội trường rộ lên tiếng cười khi Bộ trưởng dùng hình ảnh một đôi tình nhân, "có ai biết là tay chân họ đang quờ quạng làm gì ở dưới bàn đâu”. Lúc đó, tôi cũng chỉ “cười theo” vì Bộ trưởng dùng hình ảnh rất đời thường. Sau này càng đọc, càng nghiên cứu tôi lại càng thấm thía hình ảnh ông dùng. Trong giai đoạn 1990-1991 có biết bao nhiêu hoạt động đã diễn ra trong quan hệ Việt - Trung mà "người ngoài" đâu có biết! 
 Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch và Phu nhân Phan Thị Phúc
  Tháng 3/1993, khi đang làm một đề tài nghiên cứu về an ninh Đông Nam Á hậu chiến tranh lạnh, tôi xin gặp ông để phỏng vấn. Lúc này ông đã nghỉ hưu. Sau khi nghe tôi trình bày quan điểm của mình về an ninh khu vực, về sức mạnh của những người khổng lồ trong tương quan lực lượng ở đây, ông hỏi tôi: “Đồng chí có biết điểm yếu của họ là gì không?" Tôi có cảm giác chới với vì hoàn toàn bất ngờ với câu hỏi của ông. Họ là những người khổng lồ, điểm yếu là gì? Lúc này tôi chẳng khác gì một võ sĩ đã "ra hết đòn", nhưng không trúng đích và chỉ cần một cái gạt nhẹ của đối thủ là chới với, chực ngã. Chắc đọc được sự lúng túng của tôi, ông trả lời thay cho tôi điểm yếu của người khổng lồ là luôn bị những nước nhỏ nghi ngại. Mỗi hành động của họ luôn bị tất cả nhìn vào để đánh giá, chính điều đó hạn chế việc người khổng lồ sử dụng sức mạnh của mình. Đối với tôi, câu trả lời của ông thật thú vị, thật bất ngờ, thật chính xác. Nhưng quan trọng hơn, phong cách tư duy của ông là bài học tôi không thể nào quên. Sau này trong cuộc sống và công tác, tôi gặp nhiều trường hợp đánh giá khá một chiều đối tượng nghiên cứu là mạnh hay yếu. Những lúc như thế tôi lại bỗng nhớ lại câu hỏi làm tôi chới với của Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch.
Ở đây phải nói một chút về việc dùng chức danh của ông trong bài báo này. Dùng chức danh "Bộ trưởng" không phải là quên, và càng không phải muốn "hạ cấp" ông. Nhưng đối với một người trong ngành, dường như chữ Bộ trưởng thân thiết hơn, gần gũi hơn chữ Phó Thủ tướng. Hơn nữa, tất cả những người nước ngoài tôi gặp, khi nói về ông đều nhắc đến ông với chức danh “Foreign Minister” với một niềm kính trọng, một tình cảm yêu quý. Họ cũng không hề có ý định hạ cấp ông. Trong tâm trí của họ, "Bộ trưởng Ngoại giao" và "Nguyễn Cơ Thạch" như hai khái niệm không thể tách rời nhau.
Người nước ngoài đầu tiên nói với tôi ý kiến của mình về cựu Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch là bà Chen Heng Chee, nay là Đại sứ Singapore tại Mỹ. Tôi gặp bà vào đầu năm 1993 ở Singapore. Lúc đó bà mới rời chức vụ Đại sứ của Singapore tại Liên hợp quốc. Bà bảo tôi Singapore luôn đi đầu chống Việt Nam trong vấn đề Campuchia, nhưng bà luôn rất kính nể Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, "Ông Thạch là nhà ngoại giao đầy tài năng".
Đến khi sang Australia, tình cờ có lần tôi nghe ông Carlyle Thayer – một chuyên gia về Việt Nam – với vẻ đầy kính phục nhắc đến biệt hiệu “con cáo bạc” mà báo chí phương Tây dành để chỉ Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Chẳng là Bộ trưởng có mái tóc điểm bạc, và "khôn, nhanh như cáo".
Nhưng phải đến khi đi Mỹ năm ngoái, tôi mới hiểu hết tầm vóc của Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch. Đi tìm hiểu về chính trị nội bộ Mỹ, tôi phải gặp gỡ nhiều người, cả những người ủng hộ lẫn những người phản đối bình thường hoá quan hệ Mỹ-Việt. Tất cả những người tôi gặp đều có chung một đánh giá, một tình cảm đối với ông. Không thể kể hết được tên tuổi và câu chuyện của tất cả họ, tôi chỉ xin kể vài câu chuyện tiêu biểu.
Ông John Terzano, Phó Chủ tịch "Quỹ Cựu binh Việt Nam của Mỹ” (VVAF) “một Đại sứ quán de facto” của Việt Nam tại Washington trong những năm 1980 kể cho tôi câu chuyện ông sang Việt Nam lần đầu và được gặp Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch vào năm 1981. Đến cuối buổi gặp rồi những người bạn Mỹ vẫn không nghe thấy ông Ngoại trưởng Việt Nam chuyển thông điệp gì cho Chính phủ Mỹ. Đoàn lo lắng và xin gặp Ngoại trưởng một lần nữa để bàn về thông điệp của Việt Nam định chuyển cho Chính phủ Mỹ. Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch cười nói “chẳng nhẽ đây không phải là một thông điệp? Chúng tôi đang nói chuyện với các ông”. Tôi có cảm giác ông John Terzano lúc đó cũng chới với như tôi đã từng chới với. Câu trả lời thật đơn giản, nhưng đó là thực tế. Trong khi Việt Nam chưa thể có những tiếp xúc và cũng chưa thể có thông điệp chính thức gì cho Mỹ, một khi Mỹ vẫn ngoan cố trong vấn đề Campuchia, bản thân việc gặp gỡ với VVAF đã là một thông điệp rồi. Việt Nam không "cắt cầu", Việt Nam sẵn sàng đối thoại, nhưng không phải không có nguyên tắc.
Tôi xem chuyện ông John Terzano mến phục Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch như một chuyện tự nhiên vì bản thân ông và Tổ chức VVAF của ông đã có thiện cảm với Việt Nam rồi. Nhưng tôi hoàn toàn bất ngờ khi nghe bà Ann Mills Griffith – Chủ tịch Hội Gia đình cựu binh Mỹ – nhận xét về Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Bà là người phản đối kịch liệt việc bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt. Bà đã từng viết thư trao đổi "nẩy lửa" với Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Bà Ann Mills Griffith, viết một bức thư dài trang rưỡi cho Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch phản đối sáng kiến của Việt Nam cho phép các cá nhân và tổ chức Mỹ muốn tìm kiếm người mất tích được mở văn phòng ở Việt Nam và tiến hành các hoạt động tìm kiếm ở đây là việc làm "nhằm đánh lừa dư luận…". Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch có thư trả lời bà, nói rõ "việc bà phản đối quả là bất ngờ và không thể hiểu nổi".
Đọc đoạn trao đổi này giữa Ann Mills Griffith và Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch tôi nghĩ hai người này khó có thể nhìn mặt nhau được, chứ không nói có thể nghĩ tốt về nhau. Thế nhưng tôi nhầm. Bà Griffith rất hồ hởi kể với tôi chuyện đã gặp và thán phục Bộ trưởng Ngoại giao Việt Nam ra sao. Bà nhận xét Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch là một người biết cách đối thoại, "ông có biệt tài giải quyết các vấn đề phức tạp”. Có lẽ đối với một nhà ngoại giao, không có đánh giá nào cao hơn là đánh giá như vậy của đối phương. Ngoại giao luôn phải giữ lập trường, quan điểm, nhưng cứng nhắc sẽ thất bại. Uyển chuyển để giải quyết được vấn đề, giải quyết được tranh chấp mới là khó. Ann Mills Griffith phản đối đến cùng việc cải thiện quan hệ Mỹ-Việt, nhưng phải nhận xét Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch bằng lời đánh giá cao nhất đó. Bà đề nghị tôi khi về Việt Nam tìm giúp bà một số ảnh bà chụp cùng với Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch để bà giữ lại cho con cháu làm kỷ niệm.
Nếu ai tìm hiểu quan hệ Việt-Mỹ trong những năm đầu thập kỷ 90, đều sẽ bắt gặp cái tên Hội đồng Thương mại Việt – Mỹ (HĐTM). HĐTM đã thay cho VVAF tiếp tục làm một "Đại sứ quán de facto" của Việt Nam ở Washington DC và góp phần không nhỏ cho việc bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ. Nhưng đọc hồ sơ của HĐTM tôi mới biết việc thành lập HĐTM này lại là sáng kiến của chính Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Từ đầu năm 1989 khi Việt Nam chuẩn bị rút hoàn toàn quân tình nguyện ra khỏi Campuchia, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch đã xúc tiến kế hoạch thúc đẩy thành lập một "kênh" phi chính thức ủng hộ bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt. Qua một số bạn bè Bộ Ngoại giao đã mời cựu Đại sứ Sullivan, đối thủ của ông ở Hội nghị Geneva về Lào 1962 và Hội nghị Paris về Việt Nam 1968-1973, khi này đã về hưu sang thăm Việt Nam. Chính trong chuyến thăm này, Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch gợi ý phía Mỹ thành lập một tổ chức thương mại Mỹ - Việt để thúc đẩy bình thường hoá quan hệ giữa hai nước. Tháng 2/1990 HĐTM được thành lập.
Đại sứ Sullivan và HĐTM có tình cảm thật đặc biệt đối với Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Trong thư gửi Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, Đại sứ Sullivan bao giờ cũng bắt đầu bằng một cách xưng hô vừa kính trọng, vừa tình cảm: "Quý Ngài và Người bạn cũ thân mến" (Dear Excellency and Old Friend). Đánh giá về Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch, trong bức điện chia buồn gửi bà quả phụ Phan Thị Phúc khi ông mất, Đại sứ Sullivan khẳng định “tôi luôn nghĩ rằng kỷ nguyên mới trong quan hệ Mỹ-Việt Nam là tượng đài cho những cống hiến của ông Thạch". Còn bà Ginny Foote, Chủ tịch HĐTM Việt - Mỹ viết đơn giản hơn cho anh Phạm Bình Minh, con trai út của cố Bộ trưởng, "tôi rất ngưỡng mộ bố anh. Hôm nay tôi giở lại những bức ảnh chụp với ông. Bill (Sullivan) còn có nhiều ảnh hơn. Tôi rất tự hào là tình bạn giữa họ bất chấp mọi bị kịch đã trở thành chiếc cầu đủ khoẻ để trên đó có thể xây một chương mới cho quan hệ giữa hai nước”.
Bà Ginny Foote, còn tiết lộ với tôi ý định của HĐTM nhân dịp 5 năm ngày mất của Bộ trưởng thành lập "Học bổng Nguyễn Cơ Thạch – Sullivan" để hàng năm gửi 1-2 sinh viên xuất sắc của Việt Nam sang Mỹ học cao học.
Những lúc gặp người nước ngoài đánh giá cao về Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch tôi lại càng thấy tự hào Bộ Ngoại giao Việt Nam đã có một Bộ trưởng tài năng như vậy. Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch ra đi đã được 5 năm, nhưng tầm nhìn và phong cách ngoại giao của ông vẫn là bài học cho các thế hệ cán bộ ngoại giao trẻ Việt Nam. Ông là người thầy cho nhiều cán bộ chúng ta.