Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn ASEAN. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

Myanmar - một con đường với ba góc quan sát


Myanmar - một con đường với ba góc quan sát

"Qua những phát ngôn và hành động của mình, cả ông Thein Sein lẫn bà San Suu Kyi, theo tôi hiểu, đều nhận thức rằng đã đến lúc mọi nguồn lực của đất nước, sau hàng thập kỷ chia rẽ và đối đầu, phải được qui tụ lại để tạo sức bật cho phát triển, chứ không phải để sử dụng trong cuộc đấu tranh nội bộ"

Trong mấy ngày vừa rồi, kết quả sơ bộ về cuộc bầu cử bổ sung ở Myanmar với thắng lợi gần như tuyệt đối của Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ của bà San Suu Kyi, cũng như cá nhân bà, đã tạo một cảm hứng lớn và kỳ vọng mới cho công luận và dư luận quốc tế đối với Myanmar và cả cái khu vực đang tiến tới một cộng đồng vào năm 2015. Nhưng bên cạnh đó, chắc hẳn vẫn có những mối lo ngại, bởi những nguyên do khác nhau.
Tuanvietnam xin được giới thiệu một trong những nỗi lo đó, bên cạnh hai cách nhìn lạc quan về những đổi thay nhanh chóng trong thời gian gần đây ở cái quốc gia đã sống gần nửa thế kỷ dưới chế độ độc tài quân sự.
Ký giả Chongkittavorn và câu chuyện trước hai cuộc bầu cử
Trong số những bài phân tích về thành công ASEAN 2010 tại Hà Nội, có lẽ bài "Vai trò lãnh đạo ASEAN của Việt Nam là bài học cho tất cả" của ký giả Kavi Chongkittavorn, đăng trên The Nation số ra ngày 1.1.2010, được coi là có góc nhìn sâu sắc, toàn diện và khách quan nhất.
Tuy nhiên, người viết vẫn cảm thấy đánh giá của ký giả kỳ cựu này, phần liên quan đến bầu cử ở Myanmar, vẫn chưa thật thuyết phục, khi ông viết rằng "các nước thành viên đều phải  thừa nhận nước chủ nhà Việt Nam đã khéo léo giúp hạ thấp các cuộc thảo luận về khủng hoảng chính trị ở Myanmar bằng cách dấy lên mối lo ngại về Biển Đông".
Nói như vậy, vô hình trung, ký giả Chongkittavorn đã "hạ thấp" mối lo ngại, không chỉ của Việt Nam, về nguy cơ bất ổn ở Biển Đông. Hơn nữa, thật không công bằng đối với lãnh đạo Việt Nam, khi cho rằng việc họ thách thức một nước lớn trong khu vực, với những hệ luỵ khôn lường của nó,  lại không xuất phát từ chủ quyền và lợi ích quốc gia, mà dường như từ lợi ích của một thành viên khác.
Nhưng Chongkittavorn đã có lý khi cho rằng "các nhà lãnh đạo ASEAN có thể đã tạo ra được một áp lực lớn hơn đòi đưa các nhà quan sát bầu cử tới Myanmar, nếu như nước chủ nhà giữ vai trò dẫn dắt với một lập trường mạnh mẽ hơn".
Không chỉ có vậy. Cuộc bầu cử quốc hội Myanmar đã diễn ra chỉ một tuần sau lễ bế mạc Cấp cao ASEAN 17, trong bối cảnh còn tới hơn hai nghìn tù nhân chính trị vẫn bị giam giữ, nhiều đảng phái và cá nhân không được quyền tham gia (trong đó bà San Suu Kyi), cũng như có tới 25% số ghế được dành sẵn đại diện quân đội.
Thế nhưng, chỉ chưa đầy một năm rưỡi sau đó, Myanmar dưới sự điều hành của một chính phủ dân sự đầu tiên sau khoảng nửa thế kỷ, vốn là kết quả của cuộc bầu cử mà nhiều người như Chongkittavorn còn tìm thấy nhiều điểm để phê phán, đã tiến hành những thay đổi đáng ngạc nhiên.
Gần một phần ba số tù nhân chính trị đã được thả. Chính quyền Myanmar đã đàm phán và ký kết các thỏa thuận ngừng bắn với nhiều nhóm vũ trang thuộc các sắc tộc thiểu số khác nhau tại Myanmar. Theo giới quan sát, việc giải quyết các cuộc xung đột với các sắc dân thiểu số đóng vai trò quyết định đối với sự ổn định và phát triển của đất nước này trong tương lai.
Và điều được cộng đồng quốc tế chờ đợi nhất là Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD), do bà San Suu Kyi lãnh đạo, đã được phép tham gia cuộc bầu cử bổ sung, cũng như việc giới nhà quan sát quốc tế được mời vào Myanmar để giám sát.
Theo Chongkittavorn trong bài viết trên The Nation ngày 26.3.2012, trong động thái cởi mở này của chính quyền Myanmar có phần đóng góp không nhỏ của Tổng Thư ký ASEAN Surin Pitsuwan, người đã được Thổng thống Thein Sein mời vào thăm nước này trước khi cuộc bầu cử diễn ra khoảng 40 ngày.
Trong cuộc gặp với Tổng thống Thein Sein, ông Pitsuwan đã khuyên Myanmar ít nhất cũng nên mời những quan sát viên và phóng viên trong khu vực vào giám sát cuộc bầu cử.
Những người ủng hộ giơ cao tấm ảnh bà San Suu Kyi khi kết quả bầu cử được công bố. Ảnh: Reuters
"Người dân ASEAN xứng đáng được biết các ông đang tiến hành cải cách như thế nào. Myanmar sẽ là chủ tịch của chúng tôi (2014)", ông Pitsuwan được trích dẫn là đã nói như vậy với người đứng đầu chính quyền Myanmar.
Nhưng chính phủ của ông Thein Sein đã không chọn phương án tối thiểu đó. Họ mời thêm cả quan sát viên từ Mỹ và Liên minh châu Âu. Hẳn ông Thein Sein vẫn còn nhớ vụ các nhà ngoại giao phương Tây đã tẩy chay sự kiện cuối năm 2010, khi chính quyền quân sự tiền nhiệm chỉ mời các nhà ngoại giao nước ngoài và đại diện các tổ chức quốc tế thường trú ở Rangoon tham gia giám sát tại các điểm bỏ phiếu.
Nhưng đối với bản thân Chongkittavorn, với tư cách là một nhà báo và đồng thời là Chủ tịch Liên minh Báo chí Đông Nam Á (SEAPA), có lẽ sự thay đổi lớn nhất là cuộc hội thảo quốc tế về phát triển truyền thông ở Myanmar, do Bộ Thông tin & Văn hoá Myanmar và UNESCO đồng tổ chức vào 19-20.3 vừa rồi, nhằm chuẩn bị cho việc soạn thảo luật báo chí của nước này.
Trong bài tham luận của mình, Chongkittavorn đã xác định Myanmar, trong cái "Disney Land" về thể chế chính trị, là "chủ nghĩa xã hội - dân chủ". Còn về mức độ tiến bộ của tự do báo chí, vị chuyên gia hàng đầu về báo chí ở Đông Nam Á này đã xếp Myanmar ngang hàng với Singapore, Malaysia và Bunei, và thấp hơn Philippines, Indonesia, Thái Lan và Campuchia.
Chỉ sau chưa đầy một năm rưỡi, quan điểm của Kavi Chongkittavorn về Myanmar đã thay đổi một cách đáng ngạc nhiên. Mặc dù, sự ngỡ ngàng của vị ký giả này hoàn toàn có lý.
Thế nhưng, có một người ở cách nơi Chongkittavorn đang sinh sống khoảng 2 giờ bay lại hoàn toàn không ngỡ ngàng về sự thay đổi này. Đó là Tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện phó Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, người vừa mới dự một số sự kiện trong khuôn khổ Cấp cao ASEAN 20 tại Phnom Penh.
TS Thành với câu chuyện chia sẻ kinh nghiệm cải cách
"Thực ra, quá trình mở cửa và cải cách, ở Myanmar đã có sự chuẩn bị từ lâu rồi, ngay trong chính quyền quân sự", TS Thành nói.
Ông kể rằng bên lề APEC 2006, ông đã được mời đến Nhà khách Chính phủ, nói chuyện với một phái đoàn Myanmar, trong đó có một số người mặc quân phục và đeo quân hàm cấp tướng.
"Tôi chủ yếu chia sẻ với họ kinh nghiệm cải cách kinh tế của Việt Nam. Những kinh nghiệm cải cách thuộc những lĩnh vực khác do các chuyên gia khác của Việt Nam trình bày", TS Thành nói.
Có lẽ, sự quan tâm ngày càng tăng của chính quyền quân sự Myanmar đến kinh nghiệm cải cách - mở cửa của Việt Nam bắt đầu từ sau chuyến đi của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, với tư cách Đặc phái viên của Thủ tướng Phan Văn Khải. Nhiệm vụ của vị thuyết khách này là thuyết phục Myanmar chỉ tham gia ASEM 5 ở cấp bộ trưởng, thay vì cấp nguyên thủ - một sự thỏa hiệp nhằm đảm bảo cho ASEM 5 thành công.
Hồi đó, một số quốc gia thuộc EU lúc đó đã chỉ trích rất mạnh mẽ Myanmar về sự vi phạm nhân quyền và dân chủ, khi năm 2003 chính quyền quân sự đã bỏ tù hàng ngàn nhà đấu tranh dân chủ và thực hiện tái quản thúc đối với bà San Suu Kyi.
Những gì mà ông Võ Văn Kiệt nói với Thống tướng Than Swe và các lãnh đạo quân sự Myanmar vẫn chưa được công bố. Thế nhưng, có một điều rất đáng lưu ý là trong những năm đó ông Võ Văn Kiệt suy nghĩ rất nhiều về câu chuyện hoà giải dân tộc ở Việt Nam, và cũng là vấn đề mấu chốt trong giải quyết bất ổn ở Myanmar.
Khoảng nửa năm sau chuyến đi đó, và đúng một tháng trước ngày kỷ niệm 30 năm Ngày Đất nước Thống nhất, Tuần báo Quốc tế đã cho đăng tải bài phỏng vấn ông về chủ đề này.
Ngược hẳn với các tướng lĩnh chỉ ngồi nghe và ghi chép, giới chuyên gia dân sự của nước này mà TS Thành gặp ở nhiều sự kiện khác nhau, trong khoảng thời gian từ đầu năm 2006 đến cuối năm 2011, ở cả Hà Nội và Rangoon, đã hỏi ông đủ mọi thứ.
"Nhưng họ quan tâm nhiều nhất đến giai đoạn cuối '80 - đầu '90 của Việt Nam (khoảng thời gian Việt Nam vẫn bị phương Tây, đứng đầu là Mỹ, phong toả về kinh tế - NV)", TS Thành nói.
TS Thành cho biết thêm rằng trong chuyến đi Phnom Penh vừa rồi, ông được biết thêm rằng kiến trúc sư của cuộc cải cách tỷ giá gây tiếng vang vừa rồi ở Myanmar đã từng qua Việt Nam "ăn sương, nằm gió" mấy năm liền để học tập kinh nghiệm.
"Thực ra, nói như báo chí rằng họ thả nổi tỷ giá là không hoàn toàn đúng. Họ chỉ thống nhất giữa giá chính thức và giá chợ đen, như Việt Nam đã từng làm năm 1989, nhưng với sự linh hoạt hơn", TS Thành nhận xét.
Nhưng về chính trị, theo TS Thành, Myanmar có đặc thù riêng của mình, và rất khác với Việt Nam. Một trong những nét đặc thù đó là phong trào dân chủ đã bắt rễ vào xã hội Myanmar từ lâu rồi.
"Một thuận lợi cho quá trình này là đa số dân Myanmar theo đạo Phật. Tôi cho đấy là ưu thế theo cách của châu Á, nhất là những dân tộc đậm chất Phật Giáo, với đặc điểm là duy tình, cân bằng, tránh những xung đột lớn" TS Thành nói.
Sự lựa chọn đấu tranh bất bạo động, theo kiểu Gandhi ở Ấn Độ, của bà San Suu Kyi, hoặc việc bà gần đây phản đối khả năng cựu chính quyền quân sự ra tòa có thể là một những ví dụ thuyết phục cho tinh thần của Nhà Phật. Còn việc tại sao chính quyền quân sự Myanmar, khác với những chính thể độc tài khác, lại không thủ tiêu bà San Suu Kyi, cũng như 'Kế hoạch tiến tới nền dân chủ trong kỷ cương' được họ đưa ra trong năm 2003, lại là những vấn đề rất cần tìm hiểu.
Tuy nhiên, TS Thành cho rằng, về lâu dài, cách tư duy này lại là một thách thức lớn cho quá trình xây dựng một xã hội pháp quyền chặt chẽ - điều mà quá trình dân chủ hoá hướng tới. "Tôi nghĩ một nền giáo dục kiểu Anh được phục hồi và phát triển sẽ bù đắp cho cái khiếm khuyết này", TS Thành gợi ý.
Những ưu thế của một nền giáo dục kiểu Anh, theo TS Thành, là ở tính thực tiễn cao và tầm nhìn rộng. "Tất nhiên, cái dễ nhận thấy nhất là về mặt ngôn ngữ. Các thành viên Phòng Thương mại của họ mà tôi gặp trong các diễn đàn doanh nghiệp đều có thể trao đổi thoải mái bằng tiếng Anh", TS Thành nhận xét.
Ba lợi thế khác của Myanmar để có thể tiến hành cải cách thành công là dồi dào tài nguyên (khoáng sản, đất đai), tính tôn trọng pháp luật và lợi thế nước đi sau.
"Đang chậm phát triển mà nay lại mở tung cải cách, nên có sức bật lớn và khả năng thu hút sự chú ý của bên ngoài cũng lớn. Đó là chưa nói tới khả năng học những bài học cả thành công lẫn thất bại của những nước đi trước, như Việt Nam", TS Thành nói.
Theo giới quan sát quốc tế, việc quyết định đình chỉ dự án xây dựng đập Myitsone do phía Trung quốc tiến hành của chính quyền dân sự Myanmar cho thấy Myanmar đã cố gắng thoát khỏi Trung quốc sau hơn 20 năm chịu sự kiềm chế của nước láng giềng khổng lồ hơn một tỷ dân với quá nhiều tham vọng ở đất nước này.
"Gặp gỡ các đồng nghiệp Myanmar, họ luôn nói là họ còn khó khăn lắm, phải cố gắng nhiều, học hỏi nhiều. Tôi nói đùa rằng biết đâu 5 năm nữa Myanmar lại trở thành đối thủ cạnh tranh của Việt Nam", TS Thành kể.
Cũng có một người đã nói với người viết hệt như TS Võ Trí Thành nói với các đồng nghiệp Myanmar. Đó là doanh nhân Phạm Quang Vinh, Giám đốc Công ty Tư vấn Phạm & Cộng sự.
Có điều, ông Vinh không nói đùa, mà với một nỗi lo thật sự nghiêm túc.
Doanh nhân Vinh và mối lo về kẻ thách thức
"Tôi đi nhiều nơi, và trong thời gian gần đây chỉ nghe thế giới họ nói về Indonesia và Myanmar trong khu vực này", ông Vinh, người cung cấp dịch vụ tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, than thở.
Theo ông Vinh, Việt Nam hiện đang đứng trước cái nguy cơ mà Thái Lan đã gặp phải cách đây một thập kỷ rưỡi, khi khủng hoảng tài chính châu Á xảy ra. Lúc đó, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài làm ăn ở Thái Lan đã hướng hết cặp mắt sang Việt Nam.
"Trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam đi lên được là nhờ luồng tiền chạy từ ngoài vào. Còn trong vài năm vừa rồi luồng tiền lại chảy từ trong ra, nên muốn kinh tế phục hồi lại, việc thu hút lại nguồn tiền đổ vào là cực kỳ quan trọng" ông Vinh giải thích.
Người dân Myanmar đi bầu cử
"Tôi e rằng Myanmar sẽ không bỏ lỡ cơ hội, như Việt Nam đã từng bỏ lỡ hồi đó đâu. Họ sẽ là "The next Tiger" thực sự như ký giả tờ Diplomat vừa phân tích, điều mà giới đầu tư nước ngoài tưng kỳ vọng ở Việt Nam hồi 2007", ông Vinh khẳng định.
Và để chứng minh, ông Vinh đã đưa ra hai lập luận.
Thứ nhất, Myanmar có một nền tảng giáo dục rất tốt theo kiểu Anh, để xây dựng nguồn nhân lực cho phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Những khách hàng người Malaysia kể với ông Vinh rằng trong giai đoạn 50-70 của thế kỷ trước nhiều bác sĩ, kỹ sư của Myanmar đã từng sang giúp Malaysia.
"Bản thân tôi có một số cuộc tiếp xúc với giới doanh nhân Myanmar, và có dịp nghe một số bộ trưởng của họ nói chuyện. Ngoài trình độ tiếng Anh lưu loát, tư duy của họ rất rõ ràng, theo kiểu phương Tây", ông Vinh nói.
Thứ hai, cách ứng xử của chính quyền quân sự trước đây của Myanmar, khi quản thúc bà suốt 15 năm, nhưng không giết, cũng như việc bà không đồng tình với cái kiểu "công lý trả thù" đối với họ, cũng được ông Vinh nhìn nhận dưới góc độ của văn minh ứng xử.
Quan trọng hơn nữa, theo ông Vinh, trong quá trình dân chủ hóa và hòa giải ở Myanmar hiện có một cái gì đó tương tự như cặp Nelson Mandela - Frederik Willem de Klerk trong quá trình xóa bỏ chế độ Apartie và hòa giải dân tộc vào cuối những năm '90 của thế kỷ trước ở Nam Phi.
"Qua những phát ngôn và hành động của mình, cả ông Thein Sein lẫn bà San Suu Kyi, theo tôi hiểu, đều nhận thức rằng đã đến lúc mọi nguồn lực của đất nước, sau hàng thập kỷ chia rẽ và đối đầu, phải được qui tụ lại để tạo sức bật cho phát triển, chứ không phải để sử dụng trong cuộc đấu tranh nội bộ", ông Vinh kết luận.
Nhà báo Lê Thọ Bình có kể lại rằng, (cố) Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai, khi được hỏi về những nhà lãnh đạo quốc tế mà ông có dịp tiếp xúc, đã nói rằng ông kính nể nhất cựu Tổng thống Nam Phi Frederic Willem de Klerk.
"Giữ được quyền lực đã là người rất giỏi rồi. Nhưng dám từ bỏ quyền lực, vì một lợi ích lớn hơn của toàn xã hội, thì phải xếp vào hàng vĩ nhân", ông Lê Mai nói.
Theo đánh giá của giới phân tích quốc tế, trong cuộc tổng tuyển cử 5 năm tới Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ bà San Suu Kyi sẽ thách thức quyền lực của Đảng Đoàn kết Phát triển Liên bang của Tổng thống Thein Sein, hiện chiếm đa số ghế trong Quốc hội.

Thứ Sáu, 30 tháng 12, 2011

Quan hệ Việt - Trung 2011 qua góc nhìn ông Vũ Khoan


Quan hệ Việt - Trung 2011 qua góc nhìn ông Vũ Khoan

Có người không hiểu cho cái đó (giữ cầu đối thoại), có người trái tim nóng nhưng đầu không lạnh, thậm chí một số ít người lợi dụng để kích động, vì những tính toán riêng..., còn công tác tuyên truyền lại không kịp thời. Nên nhìn sự việc một cách thấu đáo, toàn diện chứ cứ trách cứ nhau. Điều đó chỉ có lợi cho những người muốn "tọa sơn quan hổ đấu", đứng xem chúng ta tranh luận, oán trách nhau. - nguyên Phó Thủ tướng Vũ Khoan
LTS: Nhân kết thúc một năm với những sự kiện đối ngoại đáng chú ý, mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin được giới thiệu cuộc trao đổi của phóng viên Tuần Việt Nam với Cựu Phó Thủ tướng Vũ Khoan xung quanh Năm Đối ngoại 2011.
Ông Vũ Khoan là nhà ngoại giao hiếm hoi tham gia quá trình bình thường hoá và phát triển quan hệ của Việt Nam với cả Trung Quốc, Mỹ và ASEAN - ba nội dung chính của cuộc trao đổi này.
Quan trọng hơn, ông là một trong số không nhiều những vị lãnh đạo đã nghỉ hưu mà vẫn dõi theo những tiến triển của thời cuộc, và đưa ra cho những người kế nhiệm, nhất là trong lĩnh vực đối ngoại, những gợi mở quan trọng cho công tác hoạch định chính sách. Hay như nhận xét của một quan chức ngoại giao đã tham dự Hội nghị Ngoại giao vừa rồi tại Hà Nội, ông là một "forward thinker".
Cam kết bằng giấy trắng mực đen
Theo đánh giá của ông, sự kiện đối ngoại nào của Việt Nam được coi là quan trọng?
Năm vừa rồi, mặc dầu ta tổ chức Đại hội Đảng, bầu cử Quốc hội song hoạt động đối ngoại vẫn rất sôi động. Xét về trao đổi cấp cao thì nhiều đoàn đã đến thăm nước ta và cũng không ít đoàn cấp cao của nước ta đi thăm nước ngoài. Mỗi đoàn đều có ý nghĩa riêng.
Song, theo tôi, sự kiện đáng chú ý nhất trong năm là việc Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng đi thăm Trung Quốc.
Tại sao, thưa ông?
Kết quả mấu chốt của chuyến thăm là hai bên đã thỏa thuận và ký bản Thoả thuận 6 điểm về những nguyên tắc chỉ đạo cuộc đàm phán về những vấn đề trên biển.
Nếu ta nhớ lại năm 2010, tình hình trên Biển Đông khá căng thẳng. Với cái thoả thuận này, dù sao đi nữa cuộc tranh chấp cũng đã được đưa vào kênh đàm phán. Mà đàm phán bao giờ cũng tốt hơn là xung đột, nó có lợi cho Việt Nam, có lợi cho Trung Quốc, có lợi cho khu vực.
Trong thời đại ngày nay, bất cứ vấn đề gì cũng nên tìm mọi cách giải quyết thông qua thương lượng.
Một vấn đề phức tạp như tranh chấp trên Biển Đông đã được đưa vào kênh thương lượng là điều đáng ghi nhận.
Tổng bí thư, Chủ tịch nước Hồ Cẩm Đào và Tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng duyệt đội danh dự. Ảnh: Reuters
Tại sao ngay sau khi hai bên thoả thuận, lại đã gây ra một số hiểu lầm trong khu vực. Chẳng hạn, Philippines lên tiếng đòi giải thích. Liệu có phải do cách diễn giải có chủ ý của truyền thông Trung Quốc, chẳng hạn như CCTV4, nói rằng Trung Quốc và Việt Nam thoả thuận giải quyết tranh chấp bằng đàm phán song phương?
Đây là sự xuyên tạc thôi. Trong thoả thuận 6 điểm đã nói rõ cái gì liên quan đến song phương thì giải quyết song phương, còn cái gì liên quan tới nhiều bên thì giải quyết với các bên liên quan.
Đó là vấn đề nguyên tắc và chúng ta luôn kiên trì ngay từ đầu, và cuối cùng đã được đưa vào văn bản, được cam kết bằng giấy trắng mực đen đàng hoàng, chứ không phải nói miệng, và được ký trước sự chứng kiến của lãnh đạo cấp cao nhất của hai nước.
Theo tôi được biết, sau chuyến thăm ta đã thông báo rõ ràng cho các nước hữu quan. Là một nước đã từng bị thiên hạ dàn xếp sau lưng những vấn đề của mình không phải một lần, chúng ta không bao giờ chấp nhận việc bàn thảo sau lưng các nước khác những vấn đề liên quan tới họ.
Trước đây, (tất nhiên gần đây có gián đoạn) cứ năm nay lãnh đạo cao cấp Việt Nam sang thăm, thì sang năm sau lãnh đạo cấp cao Trung Quốc sang thăm lại. Tại sao TBT Nguyễn Phú Trọng vừa thăm Trung Quốc vào tháng 9.2011, thì đến tháng 12.2011, Trung Quốc lại cử ngay ông Tập Cận Bình - người được coi là sẽ kế nhiệm chức vụ đứng đầu Đảng và Nhà nước, sang thăm Việt Nam?
Thường xuyên gặp cấp cao đã trở thành truyền thống, không chỉ giữa hai nước Việt - Trung mà là giữa nhiều nước trên thế giới. Dù sao đi nữa những cuộc gặp như vậy là dịp các nhà lãnh đạo cao nhất trao đổi ý kiến, vạch ra phương hướng và biện pháp lớn phát triển quan hệ, đồng thời trang trải khúc mắc, nếu có.
Các cuộc gập cấp cao giữa ta và Trung Quốc cũng nằm trong thông lệ đó. Giữa lúc quan hệ có trục trặc thì những cuộc trao đổi như vậy càng cần thiết.
Quan hệ giữa hai nước có lịch sử rất lâu dài và không đơn giản, lúc thăng lúc trầm. Trong khi mọi chuyện diễn ra phức tạp, chúng ta càng nên bình tĩnh, tỉnh táo theo phương châm "trái tim phải nóng, nhưng đầu phải rất lạnh".
Với cái đầu lạnh và với truyền thống nghĩa tình trọn vẹn, chúng ta không quên sự giúp đỡ của nhân dân Trung Quốc trước đây trong các cuộc kháng chiến cứu nước, đồng thời cũng nên thấy rằng, kể từ khi bình thường hóa quan hệ tới nay về tổng thế mối quan hệ giữa hai nước đã phát triển mạnh mẽ về nhiều mặt, những vấn đề hắc búa như biên giới trên bộ, phân định vịnh Bắc bộ đã được giải quyết. Điều này có lợi cho môi trường quốc tế của nước ta, có lợi cho vị thế của ta.
Chỉ còn vấn đề biển Đông, ta cần nỗ lực giải quyết thông qua thương lượng ngoại giao. Thực ra chuyện này không mới, nó tồn tại từ lâu và đã từng nổ ra xung đột quân sự năm 1974, 1988..., sau đó không ít lần xẩy ra căng thẳng. Chẳng thế mà ASEAN có tuyên bố năm 1992 mà ta cũng tham gia (lúc đó mới là quan sát viên), rồi DOC giữa ASEAN và Trung Quốc...
Nhưng liệu người Việt Nam có thực sự là người mau quên ơn không, khi tình nghĩa với người Nga ngày xưa vẫn được giữ gìn khá trọn vẹn? Buổi gặp gỡ thầy trò Nga - Việt đầu năm ngoái,  mà ông đã tham dự, chẳng hạn, đã thể hiện phần nào điều đó.
Hay là do, như có người nhận xét (nhà sử học Dương Trung Quốc) rằng chúng ta chưa được sòng phẳng lắm với lịch sử, cả lúc thăng và lúc trầm trong quan hệ?
Tôi không biết anh Dương Trung Quốc nói thế nào và có ý gì. Nhưng, cũng với cái đầu lạnh, ta cũng phải thừa nhận một thực tế nữa là trong quan hệ giữa hai nước từ giữa những năm '70 của thế kỷ trước đã xấu đi và năm 1979 đã xẩy ra chiến tranh biên giới. Đó là một thực tế.
Chỉ có điều mình chủ trương khép lại quá khứ, hướng tới tương lai như mình cũng đã từng ứng xử như vậy với Pháp, với Mỹ, với Nhật, Hàn quốc.... Khổ nỗi nước ta bị nhiều nước xâm lấn quá, cứ nuôi hận thù trong tim thì làm sao sống được?
Tuy nhiên, những chuyện lịch sử như vậy không dễ gì xóa hết, nhất là lúc này lúc khác lại nẩy sinh phức tạp gợi lại nỗi niềm quá khứ. Do vậy ta mong các nước "có vấn đề" với ta tránh để xẩy ra những việc gợi lại quá khứ mà làm mọi việc vì tương lai hợp tác hữu nghị bình đẳng.
Liên quan đến tranh chấp Biển Đông, có ý kiến cho rằng nói đến (tranh chấp) Biển Đông là nói đến (tranh chấp) hai quần đảo. Trong khi đó, nhiều ý kiến cho rằng vấn đề vùng nước mới là điều đáng lưu tâm, ít nhất là trước mắt. Ý kiến của ông?
Có ba câu chuyện ở Biển Đông và chúng đều quan trọng cả.
Thứ nhất là Hoàng Sa thuộc chủ quyền của Việt Nam, người mình đã ở đó bao nhiêu năm rồi, nhưng bây giờ không còn trong tay mình nữa.
Thứ hai là Trường Sa, mình đã hiện diện từ trước ở đó rồi, nhưng đến năm 1988 lại xảy ra cuộc đánh chiếm một số điểm thuộc quần đảo này.
Thứ ba là thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế của mình đúng theo luật pháp quốc tế, nhất là Công ước Luật biển năm 1982 mà cả mình và Trung Quốc đều đặt bút ký, nhưng Trung Quốc đã khoanh thành cái lưỡi bò choán vào khá sâu, kể cả vùng thuộc các nước khác theo luật quốc tế.
Chuyện chủ quyền lãnh thổ chẳng có gì ít quan trọng cả.
Tôi vẫn nói với phía Trung Quốc là xử lý nó phải có lý, có tình. Tình ở đây là tình hàng xóm láng giềng, tối lửa tắt đèn có nhau. Còn cái lý là luật pháp quốc tế, nhất là Luật biển 1982. Hai nước có quan điểm khác nhau mà không lấy một cái chuẩn chung làm thước đo thì làm sao được? Cái thước đo duy nhất là luật pháp quốc tế thôi - tức là Công ước Quốc tế về Luật Biển.
Anh cũng ký, tôi cũng ký, đều là thành viên rồi. Cứ lấy chuẩn đó mà "cò cưa" với nhau để làm rõ trắng đen, phải trái.
Có một thực tế là ở Việt Nam, và cả ở Trung Quốc, đều có một xu thế đề cao chủ nghĩa dân tộc dường như hơi thái quá. Vậy, theo quan điểm của ông, chúng ta nên giải quyết như thế nào?
Chẳng hạn, nói về thông tin. Tôi có cảm giác, có thể là sai, rằng giữa người lãnh đạo với người dân dường như chưa có sự tin tưởng lẫn nhau. Dân thì cũng nghi hoặc chuyện nọ chuyện kia, còn lãnh đạo thì dường như chưa hẳn đã tin dân?
Cũng không phải thế. Bảo lãnh đạo không tin dân thì tin ai, làm sao lãnh đạo, điều hành đất nước  được? Làm gì có chuyện đó, nói thế thì "oan" quá. Lãnh đạo mà có được người dân nhiệt tình yêu nước thì còn gì hơn!
Chỉ có điều cách thể hiện lòng yêu nước sao cho có lợi nhất cho đất nước. Những người thể hiện lòng yêu nước cao đẹp nhất là các chiến sỹ ở hải đảo không quản ngại gian nan, giữ vững chủ quyền.
Tôi vô cùng khâm phục họ, nhất là các chiến sỹ ở những điểm DK nhỏ xíu giữa biển khơi mênh mông, sóng bão bịt bùng mà vẫn kiên định. Tôi cứ trộm nghĩ phong tặng danh hiệu Anh hùng cho tất cả những người đó cũng xứng đáng!
Còn một chuyện khác cũng cần có sự thông hiểu.Thực ra, trong quan hệ đối ngoại có cái khó là không phải mọi chuyện đều có thể lên truyền hình bảo rằng chúng ta đánh giá (thực chất) thế này, chủ trương thế kia. Làm sao làm thế được! Nói một cách dân dã thì làm sao hành động theo kiểu "thưa ông tôi ở bụi này" được?
Còn làm thế nào để người dân hiểu rõ vấn đề thì có nhiều cách, nhưng chưa được sử dụng kịp thời, sâu rộng.
Đặc điểm của đối ngoại là có những chuyện phải giữ kín chứ không phải là dát, hay sợ đâu. Vấn đề là phải khôn. Đừng lẫn lộn cái khôn với cái sợ. Không phải với Trung Quốc đâu, với nước nào cũng vậy.
Do đó cũng phải hiểu cho cái người lãnh đạo, người ta phải giữ cái gì đó để còn có chỗ nói chuyện, chứ cắt cầu thì rất dễ. Bởi muốn gì thì gì mình vẫn phải cố gắng giải quyết bằng đối thoại, nên phải giữ cầu đối thoại chứ.
Có người không hiểu cho cái đó, có người trái tim nóng nhưng đầu không lạnh. Thậm chí một số ít người lợi dụng để kích động, vì những tính toán riêng... Còn công tác tuyên truyền lại không kịp thời.
Do vậy, nên nhìn sự việc một cách thấu đáo, toàn diện chứ cứ trách cứ nhau. Điều đó chỉ có lợi cho những người muốn "tọa sơn quan hổ đấu", đứng xem chúng ta tranh luận, oán trách nhau.
Vâng, quả là một phần cũng một phần do lỗi của những phóng viên như chúng tôi. Nhiều khi chuyện chẳng có gì mà một số báo chí ở Trung Quốc, hay đâu đấy, lại đưa tin theo hướng lệch đi, hoặc theo kiểu mập mờ, có lợi cho phía họ, thế mà anh em chúng tôi lại không kịp thời cải chính lại cho mọi người hiểu.
Sự phối hợp giữa các cơ quan báo chí và cơ quan quản lý báo chí cũng chưa được nhịp nhàng, nên đúng là ta thường thông tin chậm hơn họ. Tôi cũng đã không ít lần góp ý kiến rồi.
Vả lại, ta nên tỏ ra đàng hoàng, chẳng nên để bị khiêu khích. Hơn nữa, rất nên tránh vơ đũa cả nắm, gây hận thù dân tộc vì nhân dân là nhân dân.
Trong công tác tuyên truyền, đấu tranh dư luận, phải rất nhanh nhạy, phân biệt phải trái. Ngay khi chống Pháp, chống Mỹ cứu nước, ta cũng luôn phân biệt giới cầm quyền và nhân dân cơ mà.
Giáo sư Carl Thayer, một chuyên gia về Đông Nam Á và Biển Đông, cũng từng nhận xét rằng việc chậm trễ cung cấp thông tin chính thức và chính xác sẽ tạo cơ hội cho những suy đoán, tin đồn lan ra trong dư luận.
Đúng vậy. Các loại tin đồn thất thiệt cứ thế mà chen vào thôi. Anh không chiếm chỗ trước, thì người khác người ta chiếm thôi.
Khôn khéo tận dụng vị thế ASEAN
Thường tâm lý của mấy ông nước lớn là thường muốn bắt nạt mấy anh nhỏ, lẻ, và trong câu chuyện lãnh thổ và kinh doanh là rõ nhất.  Quay lại câu chuyện tranh chấp Biển Đông, nhưng mà mấy anh nhỏ đó không còn lẻ nữa, mà cùng nhau góp tiếng nói cho đàng hoàng, chắc ông lớn kia cũng phải hạ giọng.
Thế giới bây giờ là tuỳ thuộc lẫn nhau, chứ không phải là lớn với nhỏ đâu. Tất nhiên anh lớn có tư duy của anh lớn, cách hành xử của anh lớn. Nhưng anh chả sống một mình được, anh vẫn phải đối xử với những anh lớn khác. Mà muốn thế phải có bạn.
Như vậy, cái mạnh của anh nhỏ là có thể trở thành đối trọng trong quan hệ của các nước lớn. ASEAN đâu phải là đối trọng nhỏ. Cũng hơn 500 triệu dân, cũng là một khu vực phát triển kinh tế năng động, cũng có uy tín quốc tế lớn.
Nguyên Phó Thủ tướng  Vũ Khoan
Có tổ chức khu vực nào mà  cả gần chục nguyên thủ các nước lớn phải xách cặp đến họp không, trừ ASEAN? Liên đoàn Ả Rập, hay Mecosur ở Mỹ La tinh có chuyện đó không? Thậm chí là EU cũng làm gì có chuyện mỗi lần họp là Tổng thống Nga, hay Chủ tịch Trung Quốc phải sang.
Trên bàn cờ quốc tế, trong các mối quan hệ giao lưu, họ cần có bạn đồng hành. Và các nước nhỏ có vai trò đó, nếu anh biết ứng khôn khéo. Và ASEAN là một điển hình.
Về vấn đề giải quyết tranh chấp Biển Đông, tuy là lâu dài, thậm chí rất lâu dài, nhưng vẫn phải có cái hướng đi từ đầu để vượt qua chặng đường dài đó để đến cái đích cuối cùng. Trong ASEAN chỉ những quốc gia biển là hoặc trực tiếp, hoặc gián tiếp, dính dáng đến tranh chấp, chứ còn mấy quốc gia đất liền thì không có lợi ích gì.
Ông nhìn nhận gì trong sự gắn kết gần đây giữa họ, chẳng hạn như giữa Việt Nam với Malaysia, hay gần đây là Việt Nam với Philippines, trong lập trường giải quyết tranh chấp Biển Đông?
Trong quan hệ quốc tế lợi ích là quan trọng nhất. Trong điều kiện khách quan, các nước ASEAN buộc phải chia sẻ lợi ích với nhau. Mặc dù, trên vấn đề này thì nhóm nước này có lợi ích này, nhóm khác có lợi ích khác. Nhưng lợi ích lồng ghép nhau chứ không rành rọt như cái bánh cắt được.
Như vậy, không thể nói chỉ có trên Biển Đông mới thể hiện lợi ích đâu. Còn bao nhiêu lợi ích nhằng nhịt khác nữa. Biển Đông chỉ là một khía cạnh của quan hệ ASEAN thôi.
Ý tôi muốn hỏi là trong mỗi lợi ích mình phải tìm những người bạn, những người cùng có lợi ích với mình, khi nói tới các mối quan hệ của Việt Nam với các quốc gia khác trong ASEAN.
Mình có lợi ích của mình thì cũng đừng bắt người ta bỏ lợi ích của người ta. Phải biết người biết ta, chứ chỉ biết ta, thì không có quan hệ quốc tế.
Cuối năm ngoái, một quan chức phụ trách ASEAN của Bộ Ngoại giao, có nói với tôi rằng cái nét mới của năm ASEAN 2010 so với những năm trước đó là bình thường hoá khái nhạy cảm. Tức là vấn đề tranh chấp Biển Đông được đưa ra bàn thảo các hội nghị lớn như Thượng đỉnh ASEAN, Diễn đàn An ninh Khu vực (ARF), hay Thượng đỉnh ASEAN - Trung Quốc...
Trước đó, khi đưa vấn đề Biển Đông ở những diễn đàn như vậy, có cảm giác là mình thấy nó nặng nề, nhạy cảm thế nào đó...
Cũng không hẳn đâu. Thời tôi làm cũng đã vật lộn với vấn đề Biển Đông bao nhiêu lâu rồi, chứ có phải không đặt lên bàn quốc tế đâu.
Năm 1995, khi mình vào ASEAN đúng lúc ARF ra đời, nên tôi đã dự ARF ngay từ đầu. Câu chuyện Biển Đông cũng đã được đặt lên bàn rồi. Năm nào cũng bàn để từ đó dẫn đến DOC năm 2002.
Còn khi có tuyên bố Manila năm 1992, Bộ trưởng Nguyễn Mạnh Cầm tham dự với tư cách quan sát viên đã tuyên bố ủng hộ.
Có lẽ lúc đó mình là chủ nhà của ARF và các hội nghị cấp cao nên câu chuyện được nhấn mạnh đặc biệt, đúng không ạ?
Đúng vậy. Chứ mình lẽo đẽo vấn đề Biển Đông từ lâu rồi, vì nó là một vấn đề có thể gây mất ổn định trong khu vực.
Thế còn câu chuyện trùng lặp về thời gian giữa chuyến thăm của Tổng Bí thư Nguyễn Phú Trọng sang Trung Quốc để đạt thoả thuận 6 điểm về nguyên tắc giải quyết tranh chấp, và Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đến Ấn Độ, mời họ vào hợp tác thăm dò khai thác dầu khí ở Biển Đông, hay hợp tác quốc phòng. Trong khi đó, Trung Quốc nói gần nói xa nọ kia, ông đánh giá thế nào?
Điều đó có được coi là bình thường hoá khái niệm nhạy cảm không?
(Bật cười) Theo tôi hiểu, chuyện sắp xếp qua kênh ngoại giao là hoàn toàn ngẫu nhiên thôi, chứ có phải mình bầy binh bố trận gì đâu. Ầm ỹ là do suy diễn thôi.
Mình hiểu rõ chẳng ai muốn làm "con bài" của ai, và mình cũng không chủ trương đi với bên này chống bên kia.Trong đối ngoại, anh làm cái gì "phô" quá cũng không được đâu, người ta cười cho. Phải nhớ rằng không chỉ  có mình là "khôn" đâu.
(Còn nữa...)