Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Lịch sử. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Lịch sử cần phải được nhận thức lại

Lịch sử cần phải được nhận thức lại

LTS: Vào 18-19.10.2008 tới, tại Thành phố Thanh Hóa sẽ diễn ra hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 19”, nhân dịp kỷ niệm 450 năm ngày Chúa Nguyễn Hoàng cầm gươm đi mở rộng bờ cõi về phía Nam.
Đây là một cuộc hội thảo có qui mô lớn nhất từ trước đến nay về chủ đề này với 88 báo cáo của các học giả trong và ngoài nước. Giới sử học nhìn nhận rằng với sự đánh giá đầy đủ, công bằng và khách quan về giai đoạn này, nhất là triều Nguyễn, một khớp nối quan trọng trong giai đoạn chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, lần đầu tiên lịch sử Việt Nam sẽ trở nên liền mạch.
Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với nhà sử học Dương Trung Quốc xung quanh chủ đề này. (Bản đăng trên SGTT là bản rút gọn, vì lý do kỹ thuật thuần túy.) 
Xin ông cho biết việc nhận thức lại vai trò của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được đặt ra vào thời điểm nào, và trong bối cảnh nào?
 Thứ nhất, việc nhận thức lại được đặt ra trong công cuộc đổi mới, với thực tiễn của đổi mới và nguyên lý ban đầu là “dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật”. Nguyên lý đó ít nhất là một động lực với những người làm sử để nhìn nhận lại giai đoạn lịch sử đó. Thứ hai, lịch sử là một quá trình nhận thức, hay như ta hay nói “sự kiện xảy ra một lần, nhưng nhận thức là một quá trình”, bởi ở đó có các yếu tố về khoa học, trình độ hiểu biết, và lợi ích. Những yếu tố đó khiến cho một thời kỳ chúng ta đánh giá cái giai đoạn lịch sử thời Nguyễn không công bằng, không khách quan, và quan trọng là không chính xác.
Có một lý do rất dễ hiểu là khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đặt ra hai mục tiêu là “phản đế và phản phong”, đương nhiên trong cái quan niệm hết sức xơ cứng như vậy về chế độ phong kiến chắc chắn Vương triều Nguyễn là cái đã qua, thối nát và phản tiến bộ. Như vậy, không chỉ có sự đối xử không công bằng với triều Nguyễn, một triều đại phong kiến cuối cùng và là đối tượng trực diện của cách mạng, mà ngay cả những di sản, văn hóa dân tộc, như đền thờ, chữ Hán…, cũng có thời đã bị đối xử vừa bất công vừa đầy lầm lẫn.
Có lẽ chỉ hình tượng các anh hùng dân tộc là còn lại. Nhưng họ cũng lại quên rằng những anh hùng dân tộc đó cũng là thuộc phạm trù phong kiến, thuộc phạm trù những tầng lớp xã hội mà sau này chúng ta qui chiếu vào trong quan điểm đấu tranh giai cấp, bởi họ cũng thuộc giai cấp địa chủ phong kiến.
Hơn nữa, cũng phải hiểu một điều là phần lớn đội ngũ sử học của chúng ta là một đội ngũ sử học công chức, trong đó có nhiều người là đảng viên, làm cho các cơ quan nhà nước nên có cái định hướng chính trị rất rõ. Họ đã bị những định kiến chính trị, thậm chí là những cấm kỵ, chi phối, nên đã gặp khó khăn trong việc tiếp nhận hiện thực khách quan. Việc sử học phục vụ chính trị là chuyện đương nhiên, khó tránh, nhưng vấn đề là có phục vụ chính trị một cách khách quan và khoa học hay không mà thôi.
Khi có công cuộc đổi mới, chúng ta có cơ hội đánh giá lại, và nhất là khi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và chống ngoại xâm qua rồi, thì hơn bao giờ hết chúng ta càng phải đề cao khối đại đoàn kết toàn dân. Có rất nhiều vấn đề của lịch sử đã nảy sinh ra từ đó.
Trong khi đó, Trung Quốc đã hóa giải những vấn đề này rất thành công.  Tôi không phải là một nhà nghiên cứu về Trung Quốc. Nhưng tôi cho rằng họ khôn ngoan. Từ chủ nghĩa đại Hán tồn tại một thời mà trong nhận thức nó chuyển sang Đại Trung Hoa, tức là họ biết hóa giải những vấn đề của lịch sử. Nếu đặt chủ nghĩa Đại Hán, chắc chắn họ coi thời nhà Nguyên và nhà Thanh là nỗi nhục lớn vì bị những tộc người ban đầu bị coi là rợ cai trị. Nhưng văn hóa Hán nó mạnh tới mức những kẻ cai trị cũng bị Hán hóa. Bây giờ lợi ích quốc gia của họ là Đại Trung Hoa nên nó đảo ngược, chính nhà Nguyên và và Thanh lại được coi là của họ, là di sản, và được đề cao rất mạnh mẽ. 
Những yếu tố “khoa học, trình độ hiểu biết và lợi ích” mà ông đề cập đã thay đổi như thế nào để dẫn đến cái nhận thức như hiện nay, ít nhất là trong giới sử học?
Chính lợi ích phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu. Ví dụ như vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Khi chúng ta phải bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta phải nghĩ đến ai là người có đóng góp đầu tiên trong việc mở mang phần lãnh thổ ấy, ai là người đã tạo ra chứng lý để ngày nay chúng ta có cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền. Đến lúc này chúng ta phải nói đến thời kỳ các chúa Nguyễn và vua Minh Mạng. Các chúa Nguyễn những người đầu tiên tổ chức những đội quân ra quản lý những vùng biển đảo xa xôi như thế, và những họat động đó trở thành chứng lý rất thuyết phục về chủ quyền của Việt Nam ở đó. Còn vào thời kỳ vua Minh Mạng tấm bản đồ Đại Nam có vẽ rất rõ ràng về quần đảo Trường Sa.
Những điều đó ngoài vai trò bằng chứng còn nói lên trình độ quản lý và phương cách bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của cái triều đại mà lâu nay bị coi là lạc hậu, là không đại diện cho lợi ích dân tộc. Từ cái “vỡ lẽ” ấy chắc chắn người ta sẽ có thể có cái nhìn nhận khách quan, công bằng hơn.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử cũng ngày càng khách quan hơn đối với những vấn đề liên quan đến tư liệu lịch sử. Rõ ràng là trong một thời gian dài, giới sử học chúng ta bị cuốn hút vào cuộc chiến tranh. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chúng ta khó có thể tiếp cận với các học giả nước ngoài, nguồn lưu trữ nước ngoài và phương pháp nghiên cứu của nước ngoài. Sự tham gia của các sử gia nước ngoài trong những hội thảo về chủ đề này cũng đóng góp nhiều cho nghiên cứu của chúng ta, khiến nó thêm khách quan, bởi họ không bị ràng buộc bởi nguyên lý chính trị và có điều kiện tiếp cận tư liệu đang lưu trữ ở nước ngoài.
Nhận thức chung trong giới sử học về vai trò của triều Nguyễn hiện nay như thế nào? Họ để lại những di sản, và bài học gì?
Cái lớn nhất của nhà Nguyễn làm được là nối tiếp được các thế hệ trước, bao gồm các chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn trong việc củng cố được chủ quyền lãnh thổ quốc gia, cho đến giữa thế kỷ 19 khi người Pháp đô hộ. Lúc đó, nước Đại Nam đã phát triển đến một trình độ tương đối cao trong khu vực.
Đánh giá nhà Nguyễn, đặc biệt trên lĩnh vực giữ nước, chúng ta có nhiều điều phải suy nghĩ, phải thừa kế. Tôi nói chẳng hạn vấn đề quản lý đất đai là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc gia mọi thời đại, và đến bây giờ chúng ta thấy thực tiễn nó khó khăn thế nào. Vậy tại sao trong một khoảng thời gian tồn tại ngắn như vậy mà triều Nguyễn đã để lại cho chúng ta một di sản rất lớn về địa bạ? Lúc đó làm gì có định vị vệ tinh, làm gì có photocopy, làm gì có máy ảnh, máy scan, mà tại sao họ có thể vẽ từng thửa đất một? Họ không có phương pháp hiện đại như hiện nay, nhưng về nguyên lý quản lý thì trình độ rất cao, đảm bảo được tính ổn định. Từng thửa đất của quốc gia được đo vẽ, được lưu trữ và được sử dụng, trong thời gian rất ngắn với một lực lượng rất nhỏ. Năng lực quản lý đất đai là cái chúng ta phải học.  
Hay cái việc chia đơn vị hành chính cũng vậy. Rõ ràng sau này người Pháp khi cai trị Việt Nam cũng kế thừa chứ không gây đảo lộn lớn. Sau một thời kỳ đảo lộn tất cả lên, chúng ta mới nhận ra rằng cách chia của các cụ ngày xưa là hợp lý, và người Pháp đã rất khôn ngoan khi kế thừa.
Kinh thành Huế là kinh thành của triều Nguyễn, nhưng là tài sản của đất nước, là thành tựu của nhân dân, của một thời đại trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, mà hiện nay chúng ta đang được thừa hưởng.
Chúng ta cũng đã làm chuyện khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới, và nhiều cái không làm được. Vậy mà tại sao một doanh điền sứ như ông Nguyễn Công Trứ chỉ trong một thời gian rất ngắn có một vài năm thôi mà lập ra hẳn hai cái huyện là Kim Sơn và Tiền Hải, và cho đến bây giờ vẫn ổn định và phát triển? Hệ thống thủy lợi làm từ thời đó vẫn tuyện vời, trong khi đó chúng ta mất rất nhiều công sức, tiền của cũng không làm được.
Hay kênh Vĩnh Tế, được chúng tôi chọn nghiên cứu và sau này ông Võ Văn Kiệt rất quan tâm. Một công trình cách đây mấy trăm năm, trong điều kiện công nghệ, kỹ thuật hồi đó, đã được xây dựng rất nhanh và rất hiệu quả (phát huy đến tận bây giờ). Hiệu quả ở đây không chỉ giải quyết vấn đề tưới tiêu và chống mặn cho đồng bằng, mà còn giải quyết cả vấn đề ngoại giao, phòng thủ quốc gia. Kênh Vĩnh Tế bây giờ thực tế là một bằng chứng về chủ quyền của chúng ta.
Liên quan đến vấn đề tập hợp lưu dân, đến thăm mộ ông Thoại Ngọc Hầu, người ta thấy ngoài hai bà vợ yêu ra có rất nhiều nghệ sỹ tuồng, nghệ sỹ khác mà ông kéo theo vào. Đấy là thái độ trân trọng và sử dụng trí thức. Ông ấy đã ý thức được việc đưa văn hóa vào để phát triển các vùng đất mới. Phục vụ cho những người phu dịch còn có cả văn hóa.
Trong khi chúng ta đấu tranh chống tham nhũng, chống tư tưởng bè phái cát cứ, chúng ta không thể không nhắc đến Luật Hồi Tỵ, một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức bộ máy chính quyền thời phong kiến, bắt đầu được đặt ra từ thời vua Lê Thánh Tông và hoàn thiện vào thời vua Minh Mạng, tiếp tục được thực hiện vào các triều vua Nguyễn sau đó. Theo luật này, những người có cùng quan hệ huyết thống, đồng hương, thầy trò, bạn bè…không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương, công sở. Nếu gặp một trong những trường hợp trên thì phải tâu báo lên để thuyên chuyển những người thân thuộc đó đi các nơi khác nhau. Hay trong TP HCM đang diễn vở “Lê Văn Duyệt”, người đã sẵn sàng chém bố vợ vua vì lộng hành.
Vì sao các cụ thành công, bởi vì các cụ nhà mình khi làm bao giờ cũng kế thừa di sản của quá khứ, di sản trong dân gian, trong đời sống xã hội, và trong trí tuệ. Còn chúng ta đi từ cái đứt đoạn, chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể xóa bỏ toàn bộ cái cũ để xây dựng lại toàn bộ thế giới mới. Bây giờ chúng ta vỡ mộng, mới ngả ngửa ra, và buộc phải bắt đầu vun xới lại.
Tôi cho rằng nếu dùng cái chữ như lâu nay ta vẫn dùng với nhà Nguyễn là “bán nước” là không công bằng. Nói đúng hơn nhà Nguyễn đã không thực hiện được trách nhiệm bảo vệ đất nước, và họ phải chịu trách nhiệm về việc mất nước, với tư cách là lãnh đạo quốc gia. Nhưng các nhà khoa học phải đi sâu nghiên cứu là vì sao họ đã không thực hiện được trách nhiệm này, để có những bài học cho các thế hệ hiện tại và sau này.
Chúng ta có một thời kỳ đối xử hết sức vô lý, gọi là vơ đũa cả nắm. Người vô sản đi làm cách mạng chả mất gì cả, “nếu mất chỉ mất xiềng xích, còn được thì được cả thế giới”, còn những ông vua yêu nước đi theo sự nghiệp dân tộc thì mất cả ngai vàng, mất cả quyền lực, rồi những vinh hoa mà ông ta được hưởng. Nếu không tôn vinh những vị vua này hơn thì ít nhất cũng phải bằng người vô sản chứ.  Nhưng chúng ta một thời đã bị che lấp bởi quan điểm ấu trĩ, tả khuynh, dẫn đến tình trạng bất công trong xã hội.
Hay trong những việc triều Nguyễn không làm được như tiến hành công cuộc Duy Tân như người Nhật Bản, giới nghiên cứu cũng phải cố tìm ra câu trả lời. Muốn Duy Tân phải có cái nền tảng của nó chứ, mà lúc đó chúng ta làm gì có tầng lớp hữu sản mà đòi dân chủ, đòi canh tân được như Nhật Bản. Có một lý do nữa là Việt Nam không làm được là do sống cạnh ông Tàu, phải chọn lối sống đó mới tồn tại được, còn chọn lối sống khác thì không.              
Nhà Nguyễn tương đối ngắn so với các triều đại khác (nhà Lê hơn 300 năm, Nhà Lý và nhà Trần trên dưới 200 năm), nhưng nó quan trọng vì nó là cái khớp nối chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, thời kỳ thế giới bắt đầu hội nhập với nhau. Đương nhiên cái hội nhập ban đầu là trong bối cảnh của chủ nghĩa thực dân bành trướng. Nếu chúng ta không nhận thức được đúng và đủ về giai đoạn lịch sử này, chúng ta sẽ không giải thích được những di sản để lại cho đến ngày nay, kể cả cái tốt đẹp lẫn cái bị hạn chế.  
Sự nhìn nhận lại có vai trò gì đối với những thế hệ hiện tại và tiếp theo?
Với những trường hợp với nhiều vị vua chúa Nguyễn, cũng như quan lại của triều đình nhà Nguyễn, như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Trương Vĩnh Ký…, chúng ta đã đối xử thiếu công bằng. Vấn đề nhận thức đầy đủ hơn không phải là vấn đề giải tỏa bất công cho nhân vật này, nhân vật kia, bởi điều đó đương nhiên do cái lẽ công bằng (chúng ta đưa ra mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà). Nhưng quan trọng hơn, chúng ta nhận thức được qui luật phát triển của quốc gia, để nó không bị đứt đoạn trong nhận thức bởi những quan điểm thiếu khách quan.
Chúng ta làm được thì thế hệ hiện nay và tiếp theo nhận thức được quá khứ một cách minh bạch, sáng tỏ hơn, và điều quan trọng người ta sẽ nhìn nhận hiện tại rõ ràng hơn bởi hiện tại chính là lịch sử, là quá khứ trong tương lai.
Đối với giới học giả, cuộc hội thảo này có ý nghĩa về một sự nhận thức đầy đủ hơn, còn đối với toàn xã hội đó là nhận thức về sự công bằng, khách quan, và một cách nhìn khoa học hơn về những gì mà ông cha để lại, để làm động lực cho phát triển.
Theo ông, khi đánh giá về vương triều Nguyễn, Gia Long có phải là nhân vật gây tranh cãi nhiều nhất không?
Cách đây khoảng chục năm rồi, có một cuộc hội thảo nhỏ về Gia Long, trong khoảng thời gian từ 1802 đến khi ông ấy chết. Lập tức, trong con mắt các nhà chính trị, dường như là chúng tôi có ý định phục hồi lại Gia Long. Đó là cách đánh giá đầy mặc cảm về những hoạt động trong nghiên cứu lịch sử.
Về Gia Long, nhìn ông ấy với một hệ thống giá trị, phải nói con người này cũng đầy mâu thuẫn. Đó là một người rất có ý chí và có tài, ở độ tuổi còn rất trẻ, có lúc đã bị Nhà Tây Sơn đánh cho phải lưu vong ra ngoài, nhưng cuối cùng vẫn dựng lại cơ đồ. Đương nhiên trong cuộc đấu tranh quyết liệt đó, Gia Long đã đụng chạm vào một số giá trị của dân tộc. Thí dụ ông đã cầu viện quân Xiêm, và có ý định cầu viện người Pháp nhưng thất bại, bởi cái hiệp ước mà ta vẫn gọi là bán nước đó, ký năm 1787, đã không thực hiện được do Cách mạng Pháp bùng nổ hai năm sau đó (1789). Nhưng mà ông ta vẫn có sử dụng một số lính đánh thuê người Pháp. Những cái đó về mặt nguyên lý dân tộc, giá trị dân tộc, nó tạo ra sự mặc cảm rất lớn. Người ta đã có lý khi nói ông ta “cõng rắn cắn gà nhà”. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, việc đưa người nước ngoài vào, như Lê Chiêu Thống, cho dù chỉ để giải quyết mâu thuẫn nội bộ giữa các tập đoàn với nhau, cũng để lại những mặc cảm lớn.
Ông ta là người tiêu diệt nhà Tây Sơn, vốn để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp thông qua hình tượng Quang Trung. Nhưng nói cho cùng, nhà Tây Sơn sụp đổ trước hết là tại chính họ, nhất là sau cái chết của Quang Trung. Chính cái nền tảng thống nhất mà Quang Trung đã làm được đã bị rạn vỡ bởi chính anh em ông ta. Đó chính là lý do mà Gia Long thắng được.
Mặt khác, khi Gia Long lên ngôi thì việc đầu tiên làm là củng cố cái sự nghiệp mà ông Quang Trung đã bắt đầu là thống nhất quốc gia. Đặt trong bối cảnh sự phát triển của đất nước thì Gia Long là người có công. Có một nghịch lý rất thú vị là triều đại nhà Nguyễn với Tây Sơn là “bất cộng đới thiên”, bởi hai tập đoàn phong kiến này đã đấu tranh với nhau để giành quyền lãnh đạo đất nước, nhưng khi nhà Tây Sơn bị sụp đổ rồi thì chính nhà Nguyễn lại kế thừa cái sự nghiệp nhà Tây Sơn để củng cố nền độc lập ấy.
Nếu lịch sử được đặt trên bình diện công và tội đánh giá thì chúng ta phải công bằng, mà đừng tuyệt đối hóa một giá trị nào. Biện chứng của đời sống, biện chứng của lịch sử là như vậy. Đánh giá nhà Tây Sơn cũng thế. Nhà Tây Sơn có vai trò nhất định trong lịch sử, và đồng thời cũng có trách nhiệm nhất định trong lịch sử.
Theo ông, với những nhận thức này, bao giờ sách sử, nhất là sách giáo khoa dành cho học sinh, sẽ có sự thay đổi?
Sách giáo khoa đòi hỏi tính chuẩn mực rất cao. Nỗ lực của các nhà khoa học là phải đưa ra luận chứng đầy đủ sự thuyết phục người dân và các nhà quản lý đất nước, hệ thống chính trị. Một khi nó đã được đồng thuận ở mức độ cao thì nó sẽ được phản ánh ở chừng mực nào đó trong hệ thống giá trị chuẩn, trong đó có sách giáo khoa lịch sử. Tôi cho rằng cũng không nên vội vã trong việc này, và chúng ta nên tạo ra sự điều chỉnh thích hợp và dần từng bước trong giảng dạy, chứ không nên làm sự đảo ngược ngay. Đối với giới trẻ niềm tin là quan trọng. Không nên thái quá, cực đoan, bởi trong quá khứ mấy chục năm trở lại đây chúng ta đã có những bài học về cách nhìn nhận cực đoan, thái quá. 
Giới sử học thu nhận được gì cho mình sau quá trình nhìn nhận, đánh giá lại này, cả về quan điểm lẫn phương pháp?
Tôi không quan niệm nhà sử học là một ông quan tòa, mà là ông luật sư thì đúng hơn. Anh đưa ra dẫn chứng, chứng lý để thuyết phục mọi người. Còn hiểu lịch sử như một tòa án, tức là nó khắc phục những sai sót để thúc đẩy phát triển. Trách nhiệm của nhà sử học không phải là lên án, vì toàn bộ hành vi trong lích sử có lý do lịch sử riêng, và, như thế, họ làm cho lịch sử có tác động tích cực cho sự phát triển chứ không phải tạo ra sự rối loạn, sự phân tâm, sự hoang mang.
Lịch sử bản thân nó gắn rất chặt với chính trị. Nhưng nếu lấy nhận thức lịch sử làm công cụ để nhận thức lịch sử thì điều đó rất dễ bị ai đó lợi dụng trong những ý đồ khác nhau. Điều đó nằm ngoài mong muốn của các nhà làm sử. Lịch sử quan trọng nhất là làm thay đổi cách suy nghĩ. Khi anh nhìn về quá khứ sáng tỏ hơn, thì anh nhìn về tương lai cũng sáng tỏ hơn.
Trước đây chúng ta bị trói vào những nguyên lý như chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bản thân những phương pháp đó không sai, hoàn toàn đúng. Nhưng chúng ta gặp vấn đề khi vận dụng, nhất là với mục tiêu phục vụ cho chính trị. Việc phục vụ chính trị bản thân nó cũng không sai. Nhưng chúng ta đã sai khi vận dụng những nguyên lý trên một cách cực đoan, không khách quan, và nói đúng hơn là giáo điều. Chúng ta đã mang cái của thiên hạ vào, và lẽ ra phải tiếp nhận nó như một phương pháp thì chúng ta đã tiếp nhận nó như một định đề.
Việc nghiên cứu về nhà Nguyễn nó không chỉ giải đáp những vấn đề khoa học thuần túy về lịch sử, mà quan trọng nhất là tạo ra một nhận thức xã hội. Tại sao nhiều người quan tâm tới những hội thảo về chủ đề này, kể cả các nhà nghiên cứu nước ngoài và các nhà khoa học Việt Kiều? Bởi mọi người đều quan tâm đến việc thúc đẩy đất nước phát triển. Mà muốn thúc đẩy phát triển chúng ta phải hóa giải được nhiều vấn đề quá khứ. Có lẽ thế kỷ 20 là thế kỷ mà đất nước chúng ta chứng kiến nhiều sự thay đổi quá lớn, quá mạnh mẽ, mà không có thế kỷ nào có được. Cho nên tầng tầng lớp lớp những vấn đề quá khứ bị tích tụ lại, và chúng ta phải cố gắng tạo ra cái điểm khơi thông lại, để từng bước làm cho dòng chảy lịch sử nó trở nên đúng qui luật.
Với những cái bầu không khí chính trị thuận lợi hơn và nhận thức trong xã hội, nhất là trong giới lãnh đạo, đã cởi mở hơn, liệu có thúc đẩy quá trình nhận thức, đánh giá lại giai đoạn lịch sử hiện đại một cách đầy đủ và khách quan hơn?
Theo tôi lích sử nó là một thể thống nhất, đừng tách ra. Tôi cho nhận thức thay đổi quan trọng nhất là nhận thức về phương pháp tư duy, sau đó mới đến nhận thức cụ thể, bởi xã hội là một cái gì đó hết sức phức tạp. Cho nên nếu chúng ta không thống nhất với nhau về phương pháp thì hệ quả của nó rất phức tạp, bởi nó sẽ động chạm. Thí dụ, đối với con cháu nhà Nguyễn, họ chỉ nhìn đây là việc giải oan, và điều đó rất chính đáng. Còn đối với các nhà chính trị, có người nghĩ rằng đây là sự sám hối.
Trong quá trình nhận thức đúng là có nhiều lực cản. Chẳng hạn, đánh giá giai cấp địa chủ, chúng ta có cải cách ruộng đất, mà về nguyên lý chúng ta đã thừa nhận là sai lầm. Nhưng những uẩn ức cụ thể trong thực tế chưa giải quyết được nhiều. Chúng ta nên hóa giải nó, thay vì kích động. Bản thân người dân cũng hiểu rằng đây là việc khó tránh trong lịch sử, với bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đó. Nhưng, mặt khác, đương nhiên cũng phải có những người phải đứng ra chịu trách nhiệm về sai lầm đó.
Xin cảm ơn ông!
Huỳnh Phan (thực hiện)

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

Hồ Chí Minh với người Mỹ


Hồ Chí Minh với người Mỹ

Nhân trên mạng lưu hành một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman và những thắc mắc xung quanh sự kiện này [1], xin có đôi lời bàn về những mối liên hệ cũng như thái độ của HCM đối với Mỹ trước và sau khi giành chính quyền từ tay Pháp. Với những người cộng sản VN, đây là câu chuyện dài rất tế nhị và đầy éo le trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, nhiều thế hệ đàn em-học trò của HCM thuộc phái “kiên định lập trường” không muốn nhắc tới (lý do quá dễ hiểu), nên ở đây chỉ xin tạm tóm lược, cũng là gợi mở cho độc giả tìm tòi, đánh giá.
Qua mục Tư liệu về đảng-Lịch sử đảng rất sơ sài trên trang điện tử của Đảng CSVN [2], ta chẳng có được thông tin gì liên quan, thậm chí bị bỏ bê từ năm 2009 không được ngó tới nên giờ không truy cập được. Thử đọc cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh-Tiểu sử và Sự nghiệp, NXB Sự thật 1976, cũng vậyCòn những người Việt ở hải ngoại không ưa cộng sản, rất có điều kiện thu thập thông tin, song dường như muốn kiếm những câu chuyện đời tư, “mặt trái” để đạt mục đích tuyên truyền trước mắt hơn là nghiên cứu sâu, có sức thuyết phục, giúp người dân, hậu thế hiểu bản chất sâu xa tấn bi kịch của dân tộc thời nay.
Nhưng may mắn, những công trình nghiên cứu, hồi ký của người nước ngoài, một số đã được dịch, xuất bản ở VN, đã dần dần cho thấy rõ. Chỉ căn cứ trên vài cuốn sách, như OSS và HỒ CHÍ MINH – đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật [3], Tại sao Việt Nam (Why Vietnam) [4],  Hồ Chí Minh-Một cuộc đời [5] và Paris-Sài Gòn-Hà Nội [6] là có thể có được thông tin kha khá. Dưới ngòi bút của các tác giả phương Tây, có lẽ mối quan hệ này được nhìn nhận như sau:
Là một người cộng sản, nhưng HCM cũng đồng thời mang tư tưởng dân tộc, lại hiểu giá trị và chịu ảnh hưởng của nền dân chủ văn minh phương Tây; ông tỏ ra là một ảo thuật gia tài ba tung hứng cả ba thứ đạo cụ này. Ngoài việc chịu sức ép, nhận trợ giúp từ nhiều phía như Pháp, Trung Hoa, Nhật, Quốc tế cộng sản, các đảng phái tại VN, các đồng chí “nóng đầu” ở trong nước, … HCM cũng đã tìm chỗ dựa đáng kể nơi người Mỹ, ngay từ khi còn ở Trung Quốc cho tới sau ngày giành độc lập.
Trớ trêu thay, vị tổng thống Hoa Kỳ đi đầu phản đối chủ nghĩa thực dân, muốn một quy chế độc lập dần cho Đông Dương là Franklin Roosevelt lại ra đi đột ngột đúng vào thời điểm sinh tử cho cách mạng VN. Tổng thống Truman kế nhiệm thì khác, thế cuộc cũng biến chuyển. Mối lo họa cộng sản ngày càng gia tăng. Bản chất cộng sản trong chính phủ mới của HCM ngày càng lộ rõ. Người Mỹ với hai quan điểm khác nhau trong giới ngoại giao cuối cùng đành chiều lòng nước Pháp thực dân già nua mà chầy bửa của Charles de Gaulle hơn là ủng hộ một chính quyền HCM non trẻ mang nhiều thiên hướng cộng sản. Vậy là những bức thư, những cố gắng của HCM muốn có nhiều hơn sự ủng hộ của Mỹ đã trở thành vô vọng.
Nước Việt Nam đã lỡ một chuyến tàu, những năm 1970’ cũng lại một lần nữa, và giờ đây dường như lịch sử sắp lặp lại.
Câu hỏi “nếu Truman giúp Hồ Chí Minh thì Việt Nam ngày nay sẽ ra sao” thật khó trả lời, cũng như lịch sử khó có thể nói chữ “nếu như”. Cũng tựa như câu hỏi giành cho hai phía chống và bảo vệ HCM, rằng nếu không có ông, Việt Nam liệu có thể trở thành một Thái Lan, Hàn Quốc khác? Hay sẽ như Bắc Triều Tiên, Campuchia của Khơ me Đỏ? Khó nhưng lại rất đáng bàn.
Ba Sàm
———
Ghi chú:
[1] Thư Hồ Chí Minh gửi cho Harry S. Truman (28 tháng 2, 1946).
Trong bức thư ngày 28 tháng 2 1946, Hồ Chí Minh gửi đến Tổng thống Hoa Kỳ, Harry S. Truman, yêu cầu xin sự hỗ trợ của Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
” Chủ tịch Hồ Chí Minh – Việt Nam dân chủ cộng hòa – Hà Nội
Xin gửi tới ngài Tổng thống Hoa Kỳ , Washington DC
Thay mặt chính phủ và nhân dân Việt Nam, tôi xin trân trọng thông báo cho ngài rằng trong quá trình các cuộc hội thoại giữa Chính phủ Việt Nam và đại diện Pháp, Pháp đòi hỏi sự ly khai của Nam Bộ và sự trở lại của quân đội Pháp tại Hà Nội, trong khi đó dân và quân đội Pháp đang hoạt động chuẩn bị cho một cuộc đảo chính ở Hà Nội và xâm lược quân sự. Vì vậy, bản thân tôi đưa ra lời yêu cầu tha thiết tôn trọng nhất tới Ngài và những người dân Mỹ để can thiệp khẩn cấp và hỗ trợ độc lập cho chúng tôi và giúp làm cho các cuộc đàm phán phù hợp với các nguyên tắc của Điều lệ Đại Tây Dương và San Francisco.
Kính
Hochiminh “
Đâu là sự thật trong lịch sử Viêt Nam xảy ra vào năm 1946. Chúng ta có vài câu hỏi:
* Tại sao Chủ tịch HCM lại xin sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ ? thay vì các nước khác ?
* Tại sao Mỹ không giúp đỡ Chủ tịch HCM ?
* Nếu Mỹ giúp đỡ Việt Nam qua sự yêu cầu của Chủ tịch HCM năm 1946 thì tương lai Việt Nam bây giờ ra sao ?
[3] Với chủ trương thay đổi hệ thống thuộc địa, Roosevelt tiếp tục đưa Pháp ra chỉ trích đồng thời đặc biệt nhấn mạnh đến tình hình Đông Dương. Theo quan điểm của ông, trong suốt thời kỳ chiếm đóng Việt Nam, Pháp đã thất bại trong cải thiện mức sống của người dân và, vì những thất bại của họ, đã từ bỏ quyền cai trị …
… Một số nhân viên trong chính phủ Mỹ cũng hy vọng rằng một quan điểm một quan điểm chống thực dân của Mỹ sẽ tiếp nối dưới chính quyền Truman. Nhưng sau khi Franklin Roosevelt mất vào tháng 4 và sau khi cuộc chiến Châu Âu và Thái Bình Dương kết thúc thắng lợi, thế giới đã thay đổi. Tình trạng khẩn cấp thời chiến dẫn đễn việc các phái đoàn OSS cộng tác với các nhóm cộng sản trên khắp thế giới không còn tồn tại nữa ; sự khinh bỉ đối với người Pháp bại trận phải đặt sang một bên khi họ được giải phóng và giành lại vai trò quốc tế nổi bật; và chủ nghĩa lý tưởng đối với tương lai thường đến cùng nối khiếp sợ chiến tranh được thay thế bởi tính thực tế thời bình.
Vào tháng 3 lần đầu tiên Charles de Gaulle đã “đe dọa’’ các nhà ngoại giao của Roosevelt rằng Pháp có thể bị “đẩy vào’’ tầm ảnh hưởng đang nổi lên của Liên xô nếu như chính sách của Mỹ làm Pháp xa lanh hơn với đề tài tước bỏ thuộc địa của Pháp. “Nếu công chúng ở đây nhận ra rằng các bạn chống lại chúng tôi tại Đông Dương’’, ông ta thẳng thừng tuyên bố, “thì sẽ là nối thất vọng khủng khiếp và không ai thực sự biết điều gì sẽ sảy ra’’. Sau đó ông ta nói thêm về hậu quả kèm theo. “Chúng tôi không muốn trở thành cộng sản ; chúng tôi không muốn rơi vào quý đạo của nước Nga nhưng tôi hi vọng các bạn không đẩy chúng tôi vào đó’’. Sự đe dọa của ngườ Pháp đã khuyến khích Roosevelt giữ kín giữa ông và các phụ tá gần gũi nhất những tham vọng ngày càng lớn đối với Đông Dương thuộc Pháp.
Đối với Truman, khả năng Pháp trở thành một phần “quỹ đạo của Nga” trong thế giới thời bình  mới này thậm chí còn đáng sợ hơn. “Trong suốt những tháng cuối năm 1945 và qua năm 1946’’, Joseph Siracusa viết:
“Chính sách của Franklin Rooseverlt đối với Đông Dương dần dần thay đổi trong tay Truman thành một chính sách cố gắng thực hiện đồng thời hai việc: thứ nhất  góp phần giải phóng và mang lại đôc lập cho nhân dân Đông Dương, dù là trong cơ cấu được quy định của Pháp; và thứ hai, phối hợp sự ủng hộ của Đồng Minh chống lại cái được cho là mối đe dọa của Liên Xô đối với Tây Châu, một sự nhật thức không hẳn vô lý dựa trên những hoạt động của Liên Xô tại Đông Âu và Trung Âu.’’ (OSS và HỒ CHÍ MINH – đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, Dixee R. Bartholomew-Feis, NXB Thế giới, 2007, tr. 448, 449).  
[4] Tổng thống Roosevelt từ lâu đã nêu lên chính sách cơ bản của ông đối với vai trò của Pháp sau chiến tranh Viễn Đông. Ông coi chủ nghĩa thực dân là nguyên nhân chính của chiến tranh Thế giới II. Khi thảo luận về nước pháp với con trai mình ở Casablanca, ông cho rằng Pháp phải chịu trách nhiệm một phần về cuộc tấn công của Nhật ở Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) …
Hồi ức của Cordell Hull, công bố năm 1948, còn nhấn mạnh vấn đề này hơn nữa. Ông viết, tổng thống ấp ủ những quan điển mạnh mẽ về nền độc lập của Đông Dương thuộc Pháp. Ông lưu tâm đến sự lệ thuộc của Pháp vì đó là cái bàn đáp cho người Nhật tấn công Philipin, Malaixia và vùng Đông Ấn của Hà Lan. Ông không thể quên được cách cư xử của chính phủ Vichy, khi trao cho Nhật Bản quyền đóng quân ở đó, mà không hỏi ý kiến chúng ta nhưng lại cố làm cho thế giới tưởng rằng chúng ta đã đồng ý.
Về chế độ quản trị , Hull nói:
Thỉnh thoảng tổng thống nói thẳng với chúng tôi và những người khác, ý kiến của ông rằng Đông Dương thuộc Pháp sẽ phải đặt dưới một chế độ quản trị quốc tế ngay sau khi chiến tranh kết thúc, và để cho xứ này được độc lập càng sớm càng hay’’.
Hull cũng dẫn ra bản bị vong lục tháng giêng năm 1944 của tổng thống, trong đó nói rằng … “Đông Dương sẽ không bị trao trở lại cho nước Pháp mà sẽ được cai quản bởi một chế độ quản trị quốc tế…’’ Tuy tổng thống có những ý kiến mạnh mẽ như vậy nhưng không có một tuyên bố chính thức nào về chính sách của Mỹ hay một sự thỏa thuận nào của Đồng minh được chính phủ Mỹ hoặc Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh công bốn cả.” (Tại sao Việt Nam, Archimedes L.A. Patti, NXB Đà Nẵng, 2000, tr.65, 65).
[5] Đối với HCM, Mỹ qua tổng thống Roosevelt là người lớn tiếng đòi phục hồi độc lập cho các dân tộc bị áp bức ở châu á. Nhưng HCM cũng hiểu rằng, với tình hình thế giới phân cực, kiểu gì Mỹ cũng sẽ trở thành thành trì của chủ nghĩa tư bản, chống lại cách mạng thế giới. Tháng 4, Truman lên thay Roosevelt chết vì bệnh, đã lờ đi không nhắc đến vấn đề độc lập ở Đông dương nữa. Tháng 5, tại hội nghị San Francisco, phái đoàn Mỹ cho thấy rằng sẽ không phản đối nếu Pháp trở lại Đông dương. Sự thay đổi chính sách này là kết quả cuộc tranh luận giữa Vụ châu á và Vụ châu Âu của Bộ Ngoại giao Mỹ. Vụ châu Âu cho rằng trong tình hình sự đối đầu ngày càng căng thẳng giữa Mỹ và Liên xô tại châu Âu, Mỹ phải ủng hộ Pháp. Tuy nhiên Mỹ cũng yêu cầu “bảo đảm những điều kiện tự trị tiến bộ hoặc hình thức liên hiệp cho các dân tộc mong muốn độc lập, tương ứng với các điều kiện bên ngoài cũng như khả năng thực tế của dân tộc đó”. Tướng De Gaul cũng hứa Đông dương “sẽ nhận được những hình thức tự trị tương xứng”. Vào cuối tháng 8, khi Việt minh đang bận củng cố quyền lực, Truman đã gặp De Gaul ở Nhà Trắng. De Gaul đã từ chối yêu cầu của Nhà trắng hứa hẹn về tương lai của Đông dương, cho rằng nói bây giờ chỉ là những lời “nói suông”. Mấy ngày sau, Mỹ tuyên bố không phản đối việc Pháp trở lại Đông dương. (HCM-Một cuộc đời-Những ngày tháng 8).
[6] … Washington rất dè dặt về vấn đề duy trì một chính quyền Pháp tại Đông Dương (ai cũng rõ) những tư tưởng và ý đồ của tổng thống Roosevelt … (tr.55).  … Cơ quan OSS (Cục Chiến lược) thấm nhuần tư tưởng chống thực dân của Roosevelt. Nhưng Roosevelt vừa qua đời (12/4/1945) và mối lo sợ của Paris về các phương án “bảo hộ quốc tế” (trusteeship) của Mỹ đối với Đông Dương được xóa bỏ dần (tr.73, Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Philippe Devillers, NXB Tổng hợp TPHCM, 2003).

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Bản lĩnh Việt Nam từ cổ đại đến suốt đời phong kiến


TẠP CHÍ XƯA & NAY

Bản lĩnh Việt Nam từ cổ đại đến suốt đời phong kiến

SỐ 390 THÁNG 10-2011
 Đào Duy Anh

Bài này do học giả Đào Duy Anh viết xong vào mùa hè 1979, ngay sau khi cuộc tấn công của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta vừa kết thúc. Trước sự hưng vong của đất nước, nhà sử học già đã phải nói lên những “lo nghĩ của kẻ thất phu”, là tên đặt lúc đầu cho bài viết này. Tài liệu này nằm trong di cảo của nhà sử học đã quá cố, chưa được công bố. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc để tham khảo.
Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng có thể tận dụng nhân lực và tài lực cả “thiên hạ” nghĩ ngay đến mưu đồ đem lực lượng hùng hậu của dân tộc Trung Hoa là dân tộc đông đúc và văn minh nhất ở giữa các ngoại tộc mà người Hán cho là dã man hết cả, để bành trướng thế lực ra bốn phương. Về phía Tây Bắc thì Tần sai tướng quân Mông Điềm đem 30 vạn binh đánh đuổi bộ tộc Hung Nô gọi chung là rợ Hồ, chiếm cứ các đất ở phía nam Hoàng Hà (các tỉnh Ninh Hạ, Tuy Viễn đời sau) mở thêm 44 huyện và dời đến những người phạm tội cho cư trú và khai thác, về phía Đông Nam thì Tần sai Hiệu uý Đồ Thư đem 50 vạn binh gồm những kẻ lưu vong, những người rể thừa và những người lái buôn, chia làm 5 đạo đi đánh chiếm các miền Bách Việt, mở đặt ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (đất Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu ngày sau), cho bọn quân lính ấy đóng đồn giữ đất và ở lẫn với người Việt, do đó mà khai thác miền đất phía Nam Ngũ Lĩnh làm lãnh thổ của Trung Quốc. Nhưng khi quân Tần tiến sâu vào miền đất tương đương với nước Việt Nam ta ngày sau thì chúng vấp phải sự kháng chiến quyết liệt, do đó quân Tần không  thể tiến sâu hơn vào đất miền Nam. Việc ấy được sử sách Trung Quốc chép rõ.
Sử ký của Tư Mã Thiên (2.112) chép rằng: “Nhà Tần lại sai Hiệu đô úy Đồ Thư đem quân Lâu Thuyền đi đánh Bách Việt ở phương Nam, sai Giám Lộc đào cừ vận lương để vào sâu đất Việt. Người Việt bỏ trốn. Quân Tần cầm giữ lâu ngày, lương thực thiếu hụt. Người Việt ra đánh, quân Tần thua to. Nhà Tần lại sai Uý Đà đem quân đóng giữ đất Việt Đương. Bấy giờ nhà Tần ở phía Bắc thì bị hoạ với người Hồ, ở phía Nam thì mắc với người Việt, đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái không được. Hơn mười năm con trai mặc giáp, con gái chuyên chở, khổ không sống nổi, tự treo cổ ở cây dọc đường xác chết nhìn nhau. Đến khi hoàng đế Tần mất thì thiên hạ cả phản”. Trước Tư Mã Thiên thì Lưu An tác giả sách Hoài Nam Tử đã chép chi tiết hơn rằng: “Nhà Tần tham cái lợi sừng tê, ngà voi, long chả, ngọc châu ngọc cơ, lại sai quan uý là Đồ Thư phái 50 vạn binh, chia làm 5 đạo quân. Một đạo đóng ở Đào Đàm Thành, một đạo giữ ải Cửu Nghi, một đạo đóng ở Đô Phiên Ngung, một đạo giữ cõi Nam Dã, một đạo đóng ở sông Dư Can, ba năm không cởi giáp giãn nỏ. Giám Lộc không có đường để chờ lương, lại lấy quân đào kênh mà thông đường lương, để đánh người Việt, giết được quần trưởng Tây Âu là Địch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào rừng rú, cùng ở với cầm thú, không chịu để cho nhà Tần bắt rồi cùng nhau đặt người kiệt tuấn làm tướng, ban đêm ra đánh cả phá quân Tần, giết được uý Đồ Thư. Quân Tần chết thương mấy chục vạn. Bèn phái những người bị đày đến đóng giữ”.
Cuộc kháng chiến trường kỳ của người Việt chống quân Tần đó là do một bộ phận người Tây Âu liên hiệp với người Lạc Việt tiến hành, dựng lên nước Âu Lạc chặn đứng không cho người Hán tộc tiến xuống đất Ấn Độ Chi Na và miền Đông Nam Á.
Thế là cái mưu đồ bành trướng xuống Đông Nam Á của nhà Tần bị cuộc kháng chiến ngoan cường của tổ tiên dân tộc ta làm thất bị từ tận thế kỷ III trước Công nguyên.
Tiếp theo Tần Thuỷ Hoàng là thuỷ tổ của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế thừa chế độ quân chủ chuyên chế của nhà Tần, không triều đại nào là không kế thừa luôn chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của Tần Doanh Chính.
Sau khi nhà Hán thống nhất Trung Quốc, chấm dứt cuộc đại loạn tiếp sau khi nhà Tần sụp đổ, Hán Võ đế lại dốc toàn lực lượng của Trung Quốc mới được phục hồi để tiến hành ngoại xâm đại quy mô phía Bắc. Hán Võ Đế phái đến 120 vạn binh đánh đuổi bộ tộc Hung Nô khiến họ phải lui về miền Mạc Bắc và một bộ phận là Nam Hung Nô phải đầu hàng và triều phục nhà Hán, sang thời Đông Hán thì tướng quân Đậu Hiến lại mấy lần đánh phá Bắc Hung Nô, khiến di tộc của họ phải sang phương Tây để sau này tham gia cuộc đánh phá Tây đế chế La Mã. Về phía Tây Trung Quốc là các nước gọi chung là Tây Vực, vốn là những nước phụ thuộc của Hung Nô, nhà Hán đương đánh phá Hung Nô thì phái Trương Khiên, rồi nhà Đông Hán lại phái Ban Siêu sang sứ các nước ấy, vừa dùng  quân sự để uy hiếp doạ nạt vừa dùng mưu mô để dụ dỗ mua chuộc, khiến uy thanh của Trung Quốc đạt đến tận bờ phía Đông Địa Trung Hải. Về phía Tây Nam thì nhà Hán kiêm tính các nước nhỏ Tây Nam Di trước kia nhà Tần chưa chinh phục được, đặc biệt là ba nước Dạ Lang, Điền, Cùng Đô, đặt làm châu quận, còn ở phía nam thì Triệu Đà là một huyện lệnh của nhà Tần ở quận Nam Hải đã thừa cơ cuộc loạn khoảng Tần Hán mà dựng nước Nam Việt, Hán Võ Đế đã dùng mánh khoé kết hợp với quân sự diệt nước Nam Việt, rồi dùng gián điệp và mưu gian mà chiếm luôn nước Âu Lạc cũ, chia đất này làm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Thế là cái mục tiêu nhà Tần dùng bạo lực đơn thuần không thể đạt được, nhà Hán không mưu gian quỷ quyệt đã đạt được dễ hơn. Nhưng nhân dân Âu Lạc vốn tha thiết tự do độc lập không thể cam tâm làm nô lệ cho người phương Bắc sai khiến, nên chỉ sau khoảng một thế kỷ họ đã theo lời hiệu triệu của hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị dòng dõi của Lạc tướng Mê Linh, tức dòng dõi Hùng Vương của nước Văn Lang xưa, mà nổi lên đánh đuổi bọn thống trị ngoại tộc, nhà Đông Hán phải phái viên lão tướng đầy kinh nghiệm Mã Viện sang mới chinh phục lại được ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và áp đặt hẳn chính sách trực trị để xúc tiến công cuộc đồng hoá dân Âu Lạc bằng sự di thực ồ ạt những phần tử mạo hiểm và xấu xa trong dân gian Hán tộc và bằng sự thâm nhập ào ạt của văn hóa Hán tộc. Nhưng trong suốt thời kỳ Bắc thuộc thứ hai này nhân dân Âu Lạc vẫn bền bỉ chống đối, cuộc đấu tranh lâu dài ấy mở đầu bằng những cuộc nổi dậy của quân lính Giao Chỉ và Cửu Chân không chịu để cho bon quan lại Hán tộc điều động đi xâm lược lại nước Lâm Ấp mới được thành lập ở quận Nhật Nam. Rồi sau đó cứ khoảng vài ba chục năm một lần, nhân dân Giao Chỉ và Cửu Chân lại nổi lên đánh giết bọn quan lại Hán tộc tàn bạo tham nhũng.
Sang thời Tam Quốc, anh em cha con Sĩ Nhiếp dùng thủ đoạn khôn khéo trấn an nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân nên giữ vững được cục diện hơn hai chục năm, nhưng sau khi Sĩ Nhiếp chết thì bọn quan lại địa phương cướp giết lẫn nhau, nhân dân lầm than, một vị tù trưởng ở Cửu Chân là Triệu Quốc Đạt và em gái tục danh là Triệu Ẩu nổi lên chống bọn quan lại nước Ngô trong cả nửa năm trời. Qua sự ghi chép vắn tắt và thiếu sót của chính sử Trung Quốc, chúng ta cũng có thể thấy rằng sự chống đối của nhân dân Âu Lạc trong suốt năm thế kỷ của thời kỳ Bắc thuộc thứ hai từ sau Mã Viện không bao giờ ngớt. Đến thời Nam Bắc triều nhân cuộc suy đốn của Trung Quốc bị các bộ tộc phương Bắc chèn ép và xâu xé, nhân dân Âu Lạc cũ đã cử hành một cuộc khởi nghĩa đại quy mô dưới sự lãnh đạo của Lý Bôn, muốn xây dựng một triều đại tự chủ chỉ tồn tại hơn nửa thế kỷ, rồi đến khi nhà Tuỳ thống nhất được Trung Quốc thì ách thống trị của phong kiến Hán tộc lại được đặt trở lại trên toàn cõi đất Âu Lạc xưa, tới thời kỳ Bắc thuộc thứ ba.
Sau khi nhà Đường thay nhà Tuỳ mà thống nhất hoàn toàn Trung Quốc, Đường Thái Tôn nghĩ ngay đến chuyện bành trướng về phương Bắc và phía Tây. Lý Thế Dân kiêm dùng cả hai chính sách quân sự và thông hôn, dùng quân sự để diệt bộ tộc Đột Quyết mà chiếm tất cả vùng phía Nam Đại Mạc, lại dùng quân sự kết hợp với thông hôn mà diệt luôn bộ tộc Thiết Lặc mà chiếm luôn cả miền Mạc Bắc, rồi lần lượt diệt cả các nước Tây Đột Quyết, Qui Tư, Cao Xương, Thổ Phồn, Thổ Cốc Phồn ở miền Tây Vực. Sau lại kết hợp quân sự và chiêu dụ mà thần phục được cả các nước Thiên Trúc (tức Ấn Độ), mở mang bờ cõi đến sát Ấn Độ Dương và Địa Trung Hải. Về phía Đông thì Đường Thái tôn không thể để yên nước Cao Ly là một nước mạnh ở miền biển chưa chịu thần phục. Sau một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc kéo dài 25 năm, nhà Đường chiếm được toàn bộ Cao Ly, cho Tiết Nhân Quí làm An Đông đô hộ đóng quân ở Bình Nhưỡng để trấn thủ. Ở phía Nam thì nước Vạn Xuân bị nhà Tuỳ diệt Lý Phật Tử mà chiếm lại, nhà Đường thừa thế đặt An Nam đô hộ phủ ở Giao Chaâ (trung tâm là miền Hà Nội) làm một chính quyền quân phiệt để trấn áp thuộc quốc. Nhưng dưới ách thống trị quân phiệt tàn ngược nổi lên, đặc biệt họ liên kết với người Nam Chiếu ở Tây Bắc và người Chiêm Thành ở Nam làm cho chính quyền đô hộ của nhà Đường suy yếu dần mà cuối cùng đến khi nhà Đường suy vong, họ Khúc thừa cơ tự cường để cho Ngô Quyền lật đổ hẳn ách thống trị của phong kiến Hán tộc mà xây dựng nền tự chủ dân tộc.
Như thế là sau hơn một nghìn năm của nạn thống trị ngoại tộc luôn luôn bị cắt quãng bằng những thời khởi nghĩa, hoặc hỗn loạn, hoặc giải phóng ngắn ngủi, tổ tiên chúng ta từ cuộc kháng chiến bất khuất của Liên hiệp Tây Âu – Lạc Việt đến cuộc quật cường của họ Ngô, là thành phần duy nhất trong các nhóm Bách Việt ở miền Nam Trung Quốc giữ trọn khí phách và bản lãnh của mình mà chống lại sự đồng hoá, sự tiêu hoá của cái khối khổng lồ Hán tộc đã từng đồng hoá và tiêu diệt bao nhiêu tộc loại sừng sỏ ở xung  quanh.
Từ sau khi các họ Ngô, Đinh và Lý, Trần kế tiếp nhau xây dựng những triều đại tự chủ và theo hình mẫu của chế độ chính trị mà các triều đại phong kiến Trung Quốc trước kia đã đế lại ấn tích qua hơn nghìn năm của mưu đồ đồng hoá trường kỳ, các triều đại phong kiến Trung Quốc tương đương các nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh vẫn không bao giờ từ bỏ ý đồ ăn sống nuốt tươi cái dân tộc nhỏ bé hơn dân tộc chúng nhiều mà luôn luôn làm vật chướng ngại duy nhất chặn đường không để cho chúng thả sức thực hiện tham vọng bành trướng Đại Hán của chúng xuống miền Đông Nam.
Sau khi nhà Tống thống nhất và ổn định tình hình của Trung Quốc bị xâu xé bởi cuộc diện Ngũ đại thập quốc, Tống Thái Tổ mưu đồ xây dựng một chế độ trung ương tập quyền hùng hậu với một lực lượng quân sự rất lớn nhằm đề phòng những cuộc nổi loạn chống mình, nhưng mưu đồ ấy dẫn đến cái tình hình chính trị hủ bại, tướng kiêu, binh nhác, phú thuế không hai, vét hết của cải của cả nước mà nuôi nấng binh lính ăn không, binh càng nhiều mà thế lực càng yếu. Nhà Tống suy yếu, không thể đối phó với sự uy hiếp của bộ tộc Nữ Chân, phải nhường cắt cho nhà Kim nửa nước phía Bắc, mới nghĩ đến mưu chước bành trước sang nước ta để mong cứu vãn nguy cơ ở trong, nhưng quân Tống hai lần bị Lý Thường Kiệt đánh đuổi vào đến tận nội địa Trung Quốc.
Nhà Tống đã bị con cháu Thành Cát tư Hãn tiêu diệt, bộ tộc Mông Cổ chiếm cứ toàn bộ lãnh thổ và thuộc quốc của Trung Quốc trong phạm vi rộng hơn các thời Hán, Đường. Trên đà phát triển ghê gớm của quân Mông Cổ ra tứ phương, người Mông Cổ bị văn hoá ưu việt của Hán tộc đồng hóa, các vua Mông Nguyên không thể không kế thừa luôn cái chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của các triều đại Trung Hoa, cho nên đã ba lần xua quân mạnh nhất thế giới đương thời để xâm lược An Nam (tên người Trung Quốc gọi nước ta từ thời Đường) mà cả ba lần đều bị quân ta dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Tuấn đánh bại xiểng liểng không thể bén mảng được xuống miền Đông Nam Á.
Chu Nguyên Chương, Thái tổ nhà Minh khôi phục chủ quyền dân tộc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế cực đoan, tàn sát công thần, tàn sát văn nhân, giết hại nhân mạng không sao kể xiết. Con thứ của Nguyên Chương là Chu Đệ nổi loạn, đánh giết anh để cướp ngôi, lại một phen giết người như rạ, để trấn áp nhân tâm, rồi phát động ngoại xâm để đề cao uy vọng của mình, do đó sai hoạn quan Trịnh Hoà đem binh thuyền chở 2 vạn người đi sứ các nước Đông Dương quần đảo và sai Trương Phụ đem 80 vạn binh xâm lược nước ta, kế tục thực hiện cái ý đồ bành trướng xuống Đông Nam Á mà lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới bọn thống trị Mông Nguyên cũng không thực hiện nổi. Nhưng không vượt nổi bức tường thành vĩ đại là cuộc kháng chiến trường kỳ của thầy trò Lê Lợi, Minh Thanh Tổ đành phải dùng chính sách thông thương quốc doanh, bảy lần sai Trịnh Hoà dùng binh thuyền vượt biển xuống các đảo quốc miền Đông Nam Á để thoả mãn yêu cầu mậu dịch mà sự phát triển kinh tế của xã hội Trung Quốc từ thời nhà Nguyên mở rộng quan hệ với người Tây dương đặt ra.
Lại một lần nữa mưu đồ bành trướng Đại Hán của Trung Hoa bị chặn đứng. Nhưng do sự yêu cầu thông thương hải ngoại đó của xã hội Trung Hoa mà một số lớn tư nhân trốn tránh cấm chế vượt biên doanh thương đã hình thành những tập thể Hoa Kiều ở các nước Đông Nam Á mà thư tịch Trung Quốc gọi là Trải Oa (Java), Tam phật tề hay Cựu Cang, Ma Lục Giáp (Malacca), Tô-môn-đáp-lạp (Sumatra), Lữ căn cứ đắc lực cho chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.
Cuộc kháng chiến ngoan cường của Lê Lợi đã dồn nhà Minh đến thế suy vi, khiến cuối cùng Trung Quốc bị bộ tộc Mãn Thanh chinh phục. Nhưng cũng như các rợ Hồ và Mông Cổ trước kia, bộ tộc Mãn Thanh văn hoá thấp kém dùng võ lực mà đánh bại được Trung Quốc suy đốn bạc nhược, nhưng họ đã bị hấp thu vào văn hoá cao hơn của Hán tộc; mà cái sức hấp thu văn hoá và xã hội Hán tộc mạnh mẽ cho đến nỗi, cũng như trường hợp người Mông Cổ trước kia, các hoàng đế Mãn Thanh sau khi bị đồng hoá theo Hán tộc đã bị tinh thần Đại Hán chinh phục luôn mà lại xem mình là những kẻ kế thừa đích phái của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Trên tinh thần ấy, nhà Mãn Thanh đã dùng binh lực áp đảo cả bộ tộc Nội Mông và Ngoại Mông và các bộ tộc theo Hồi giáo ở phía Nam và phía Bắc Thiên Sơn (Tân Cương) lấn chiếm các đất Tây Tạng (trước là Thổ Phồn), Thanh Hải, Miêu Cương (khu Miêu tộc ở miền Đông Vân Nam, Quí Châu), cả nước nhỏ Nê Bạc Nhi (Nepal) ở sát Ấn Độ và buộc cả các nước Miến Điện, Xiêm La đều phải xưng thần triều cống. Trên dải đất Ấn Độ Chi Na, lại cũng chỉ có dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ là quét phăng được mấy chục vạn binh Mãn Hán, do cái tội rước voi về giày mồ của vua Lê Chiêu Thống mà kéo vào giày xéo thành Thăng Long một thời gian ngắn, do đó mà quân lực hùng hậu của Mãn Thanh đã gãy mất đầ tiến xuống các nước miền Nam Dương, một lần cuối cùng cái mộng làm bá chủ nghĩa Đại Hán lại bị đập tan. Mãi đến giữa thế kỷ XIX từ khi chính Trung Quốc bị các nước đế quốc chủ nghĩa Tây Phương xâu xé, bọn vua chúa Hán tộc mới phải tạm ngưng cái tham vọng thôn tính nước ta, nhưng bấy giờ thì nước ta lại bước vào một giai đoạn đấu tranh gian khổ mới là giai đoạn chống chủ nghĩa thực dân Pháp.
(Còn tiếp)

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Nhật trao kho tư liệu phim về chiến tranh cho Việt Nam


Ngày 08.02.2010, 09:50 (GMT+7)
Nhật trao kho tư liệu phim về chiến tranh cho Việt Nam
Một bức ảnh Nihon Denpa News chụp về Việt Nam. Ảnh: TL
SGTT - 1.502 đầu mục phim sẽ được hãng sản xuất phim truyền hình Nhật Bản Nihon Denpa News (NDN) chuyển giao cho đài Truyền hình Việt Nam (THVN) quản lý và khai thác – “Đó là nội dung chính trong hợp đồng hợp tác khai thác tư liệu giữa NDN và đài THVN, sẽ được ký kết vào đầu tuần này”, ông Trần Huy Công, đại diện NDN tại Hà Nội cho biết.
Mục đích của hợp đồng hợp tác này là để phía Việt Nam khai thác trên toàn bộ hệ thống truyền thông Việt Nam, nhằm giúp các thế hệ người Việt Nam trong và ngoài nước biết được những gì đã diễn ra trong thời gian chiến tranh, qua đó giáo dục truyền thống yêu nước, quyết tâm gìn giữ độc lập dân tộc và toàn vẹn lãnh thổ của các thế hệ đi trước. Toàn bộ số phim nhựa 16mm nói trên, được NDN quay từ năm 1964 đến đầu năm 1982, chủ yếu phản ánh về cuộc chiến đấu, sản xuất và sinh hoạt của quân dân miền Bắc trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, xây dựng hoà bình, cũng như cuộc chiến ở biên giới phía Bắc.
Hãng NDN đã lập văn phòng ở Hà Nội từ năm 1964, sau sự kiện vịnh Bắc Bộ (5.8.1964). Quyết định này đã được đưa ra theo gợi ý của Chủ tịch Hồ Chí Minh với người sáng lập NDN, khi ông này sang Hà Nội hai năm trước đó để phỏng vấn người đứng đầu nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà. “Chủ tịch Hồ Chí Minh có nói rằng ông muốn có một hãng truyền hình phương Tây đưa những hình ảnh khách quan về cuộc chiến từ miền Bắc. Và trên thực tế, những hình ảnh độc quyền do NDN đưa về Nhật, sang châu Âu và Mỹ, đã góp phần tạo ra phong trào phản đối cuộc chiến tranh ở Việt Nam trên phạm vi toàn thế giới”, tổng giám đốc NDN Misao Ishighaki kể lại.
“Đây là một bức tranh toàn cảnh về miền Bắc trong giai đoạn đó, với đầy đủ các gương mặt từ lãnh đạo như Hồ Chí Minh, Lê Duẩn, Phạm Văn Đồng, Võ Nguyên Giáp… tới những chiến sĩ, công nhân và người dân bình thường. Cuộc chiến cũng được miêu tả dưới hai góc độ chính quy, với máy bay, tên lửa, hay xe tăng; và toàn dân, với hình ảnh của dân quân tự vệ bắn máy bay”, ông Công nói.
Đài THVN, theo ông Công, đã bắt đầu khai thác tư liệu lịch sử của NDN cách đây khoảng năm năm, với bộ phim Việt Nam (giai đoạn 1964 – 1966), và sau đó là bộ phim Việt Nam thống nhất (giai đoạn 1974 – 1975). Tuy nhiên, bản quyền cả hai bộ phim này đều thuộc NXB Kim Đồng, do đài này từ chối mua. Chỉ khi VTV4 mua bản quyền phát sóng lễ tang Hồ Chí Minh vào 2.9.2008 và tạo được dư luận mạnh mẽ, kho tư liệu lịch sử của NDN mới bắt đầu được lãnh đạo đài quan tâm. Và đầu tháng 5.2009, khi tổng giám đốc Vũ Văn Hiến chính thức thăm trụ sở của NDN ở Tokyo, việc hợp tác khai thác mới chính thức được đặt ra.
Để có được quyền khai thác vĩnh viễn kho tư liệu lịch sử vô giá này, đài THVN phải trả cho NDN một vạn yen (khoảng 100 USD) cho mỗi đầu mục phim. “Đây thực sự chỉ cái giá tượng trưng trả tiền bảo quản kho tư liệu đó suốt mấy chục năm qua. Chứ NDN từ trước đến nay, mỗi lần cần mua tư liệu của hãng phim Tư liệu Việt Nam, hay hãng phim Quân đội Việt Nam, đều phải trả 500 – 1.000 USD/phút”, ông Công nhận xét.
Tuy nhiên, cũng theo hợp đồng, nếu có hãng truyền hình của một nước thứ ba muốn mua lại tư liệu, đài THVN không được phép bán, mà phải thông báo với NDN. Nhà sản xuất này, với tư cách chủ sở hữu, sẽ cùng đài THVN tham gia đàm phán hợp đồng.
Theo lịch trình đã được thoả thuận, tổng giám đốc NDN Misao Ishighaki và giám đốc kinh doanh Yoshida Hiroko đến Hà Nội vào chiều 7.2 để chuẩn bị cho lễ ký chính thức vào 10.2. Hai mươi ba thùng đựng phim, mỗi thùng nặng khoảng 10kg, đã được chuyển bằng máy bay đến Hà Nội, để phục vụ cho việc quay phim chụp ảnh sau lễ ký.
Tuy nhiên, theo ông Công, đến phút chót, đài THVN thông báo lại là họ quá bận, và đề nghị hai bên gửi hợp đồng cho nhau qua chuyển phát nhanh. “Lãnh đạo NDN đã mua vé máy bay và đặt phòng ở Hà Nội rồi, nên không kịp huỷ nữa. Chắc họ đành ngồi chờ ở khách sạn cho đến ngày 10.2, xem lãnh đạo đài THVN có lúc nào rảnh để làm lễ ký hay không. Ít nhất, cũng nhận được tận tay hợp đồng, chứ không phải qua bưu điện nữa”, ông Công nói.
HUỲNH PHAN

Cần một nhạc trưởng


Ngày 27.11.2009, 07:35 (GMT+7)
Nghiên cứu khẳng định chủ quyền Biển Đông
Cần một nhạc trưởng
SGTT - Nhân hội thảo quốc tế đầu tiên về Biển Đông tại Việt Nam, một cơ hội lớn cho việc trao đổi về học thuật giữa giới nghiên cứu Biển Đông trong và ngoài nước, Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với giáo sư sử học Vũ Minh Giang xung quanh vấn đề này.
Giáo sư Vũ Minh Giang
Theo kinh nghiệm tổ chức hội thảo nhà Nguyễn, và nhất là hội nghị quốc tế Việt Nam học, ông thấy vai trò của các học giả nước ngoài như thế nào trong việc nghiên cứu vấn đề chủ quyền Biển Đông?
Cực kỳ quan trọng. Tôi đã đề xuất rằng chúng ta nên thông qua kênh cá nhân để mời một số học giả nổi tiếng nước ngoài làm nòng cốt. Chúng ta cung cấp tư liệu, trình bày các lập luận của ta mà chúng ta tin rằng có lý để thuyết phục họ, giúp họ thấu hiểu vấn đề. Qua đó, nhờ họ, cũng như qua mối quan hệ ngoại giao hữu hảo, nhờ những nước có nền học thuật cao, như Thuỵ Sĩ, Hà Lan, hay Nhật Bản, tổ chức những hội thảo quốc tế.
Có thể mới tạo được dư luận học thuật, bởi trên thế giới, luận chứng khoa học thật cũng quan trọng, nhưng cũng có cái không kém phần quan trọng là ai nói ra điều đó. Nếu những vị học giả có uy tín trên thế giới nêu khách quan vấn đề, thì có sức thuyết phục hơn mình tự nói nhiều.
Theo đánh giá của giáo sư, việc nghiên cứu về chủ quyền Biển Đông của Việt Nam được tiến hành ra sao?
Theo tôi, việc nghiên cứu vấn đề tranh chấp các hòn đảo, quan sát trên góc độ học thuật vẫn có một hạn chế chung. Đó là chưa có sự gắn kết thật chặt chẽ giữa các khối nhận thức, để trên cơ sở đó hình thành các khối tư liệu có sức thuyết phục cao. Ba khối đó là chứng cớ lịch sử, chứng cớ pháp lý, và lập luận từ góc nhìn ngoại giao.
Theo tôi, hạn chế ở đây là cách đặt vấn đề bị phiến diện, do bị chi phối bởi chuyên môn hẹp. Chẳng hạn, các nhà sử học thì rất chú ý tới vấn đề chứng cớ lịch sử, coi như vậy là đủ, nhưng lại ít để ý tới cơ sở pháp lý của vấn đề. Ngược lại, những nhà luật học lại hay đề cao logic của công cụ pháp lý, chẳng hạn, kinh nghiệm trên thế giới là trong những sự việc như thế này người ta sẽ kiện ra tòa và đưa bên thứ ba vào, để chứng minh và đòi chủ quyền.
Tuy nhiên, với những vấn đề phức tạp và nhạy cảm như thế này không thể nói rằng chỉ giải quyết trên phương diện pháp lý. Nó còn cần có quá trình thương thảo nữa, và điều đó vô cùng quan trọng. Và các nhà ngoại giao lại nhấn mạnh tới chuyện làm sao sử dụng các biện pháp tranh biện ngoại giao để giải quyết vấn đề.
Giáo sư có theo dõi quá trình này của những bên có tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, chẳng hạn Trung Quốc?
Thứ nhất, với từng khối, họ làm rất bài bản. Về cơ sở pháp lý, nhìn vào động thái và các hiện tượng, có vẻ như họ đang kỳ vọng không đẩy thành tranh chấp quốc tế. Có người nói rằng họ không muốn làm xấu hình ảnh Trung Quốc, nhưng cũng có người đồ đoán rằng họ chưa đủ chứng cớ pháp lý.
Còn Việt Nam bắt đầu nghiên cứu, thu thập sử liệu một cách có hệ thống, bài bản từ lúc nào?
Đến năm 1974, ban Nghiên cứu biên giới hải đảo đầu tiên của Việt Nam mới được thành lập, và đặt ở bộ Tư lệnh Công an nhân dân vũ trang (nay là bộ Tư lệnh Biên phòng). Những người làm sử như giáo sư Phan Huy Lê và tôi được mời vào ban này. Lúc đấy, chúng tôi mới tìm hiểu, nghiên cứu, xây dựng hệ thống tư liệu.
Xét về mặt chứng cớ pháp lý, chúng ta đã có một số. Các sắc chỉ là minh chứng không chối cãi được về thực thi chủ quyền.
Một cuộc tập dợt tiếp nhiên liệu trên Biển Đông của Hải quân Mỹ hồi cuối tháng 10.2009. Ảnh: US Navy
Hay, chẳng hạn, một con tàu của Hà Lan bị va vào đá ngầm ở ngoài Biển Đông, và thuyền trưởng, sau khi xem kinh độ, vĩ độ đã cho người chèo thuyền cứu sinh mang thư đến cầu cứu chính quyền Quinam (Quảng Nam). Sự thừa nhận quốc tế còn thể hiện trong các hải đồ do người nước ngoài vẽ, mà chúng ta có nhiều.
Tuy nhiên, trong hội thảo triều Nguyễn, ông nói chúng ta chưa tập trung gia cố các chứng cớ pháp lý. Xin ông giải thích rõ hơn.
Thứ nhất, chúng ta có cách gia cố và khai thác công cụ pháp lý trên cơ sở những gì ta có trong tay. Đối với những chứng cớ hiện có, hiện nay vẫn chưa có một phân tích sâu sắc trong cái khung logic cho việc sưu tầm.
Thứ hai là rất cần tiếp tục khai thác những chứng cớ về sự thừa nhận quốc tế, chẳng hạn nhật ký của một thuyền trưởng hay thuyền viên nào đó. Chúng ta có thể tiếp cận với tư liệu lưu trữ của Hà Lan, hay một nước nào khác mạnh về hàng hải thời đó, mà lục tìm cho ra.
Cuối cùng, đã đến lúc cần một nhạc trưởng cho công việc này. Đây phải coi là việc mang tầm cỡ quốc gia, với sự tham gia đầy đủ của các lực lượng được coi là trí tuệ nhất, hiểu biết nhất. Theo tôi, việc nghiên cứu này phải được tổ chức dưới dạng một chương trình khoa học tầm cỡ quốc gia, với các yêu cầu trên cơ sở khung logic, thay vì giao việc các cơ quan quan phương.
Trên cơ sở những gì chúng ta đang có, một mặt vẫn tiếp tục tìm kiếm chứng cớ, tư liệu, rồi các nhà luật học sẽ xem trên cơ sở luật pháp, công ước quốc tế, ta nên làm thế nào để được quốc tế thừa nhận. Sau đó, các nhà ngoại giao sẽ tham gia phản biện.
Huỳnh Phan – Xuân Thi (thực hiện)