Thứ Bảy, 7 tháng 4, 2012

Phỏng vấn Giáo sư Peter Timmer

Đã hết thời của một nền nông nghiệp giá rẻ
Không nên công nghiệp hóa kiểu phong trào và bằng bất cứ giá nào, công nghiệp hóa kiểu thâm dụng lao động, và nguy hiểm hơn nữa, coi đó là giải pháp cho việc giải quyết gốc rễ vấn đề nông thôn và nông dân, chứ không phải dùng nông nghiệp để giải quyết bài toán này. Nông nghiệp phải là nền tảng, để trên cái nền đó phát triển công nghiệp chế biến và các dịch vụ liên quan để gia tăng giá trị cho nông sản. - GS Peter Timmer.

LTS: Nghị quyết 26 của Trung ương Đảng về Tam nông, được thông qua tại hội nghị lần 7 của BCH TW khoá 10 vào đầu tháng 8.2008, đã nêu rõ:

"Các vấn đề nông nghiệp, nông dân, nông thôn phải được giải quyết đồng bộ, gắn với quá trình đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn là một nhiệm vụ quan trọng hàng đầu của quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Trong mối quan hệ mật thiết giữa nông nghiệp, nông dân và nông thôn, nông dân là chủ thể của quá trình phát triển, xây dựng nông thôn mới gắn với xây dựng cơ sở công nghiệp, dịch vụ và phát triển đô thị theo quy hoạch là căn bản; phát triển toàn diện, hiện đại hóa nông nghiệp là then chốt..."
Kể từ đó đến nay, một chương trình hành động của chính phủ đã được ban hành và nhiều nỗ lực cụ thể không chỉ của chính phủ đã được thực hiện. Giới chuyên gia cũng đóng vai trò không kém phần quan trọng trong việc làm nóng lên các cuộc tranh luận về chủ đề này.
Mục "Gặp gỡ & Đối thoại" của Tuanvietnam tuần này xin được giới thiệu cuộc trao đổi giữa phóng viên Huỳnh Phan và Giáo sư Peter Timmer, thành viên không thường trực của Trung tâm Phát triển Toàn cầu (Center for Global Develoment - CGD), người hiện đang giữ ghế danh dự Giáo sư Thomas D. Cabot về nghiên cứu phát triển tại Đại học Harvard, trong hai dịp ông sang dự hội thảo ở Việt Nam vào đầu và cuối năm 2011.
GS. Timmer là chuyên gia hàng đầu thế giới về kinh tế nông nghiệp và kinh tế phát triển với số lượng lớn đóng góp nghiên cứu khoa học và uy tín quốc tế thông qua các hoạt động cố vấn chính sách phát triển nông nghiệp, an ninh lương thực và mô hình phát triển kinh tế nông thôn cho chính phủ các quốc gia Đông Á, trong đó có Indonesia, Philippines, Trung Quốc và Việt Nam.
Trong lần tới thăm Việt Nam vào năm 2008, thời điểm thế giới đối diện với khủng hoảng lương thực, thị trường gạo Việt Nam đang có nhiều biến động, GS Timmer đã nhận định giá gạo tuy đang tăng cao, nhưng sẽ nhanh chóng đảo chiều. Sau đó, Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam đã thực hiện các điều chỉnh chính sách, tuy hơi muộn...
Phóng viên Huỳnh Phan: Nhiều người đặt ra câu hỏi rằng liệu giá lương thực tăng có thể đẩy nhanh lạm phát hay không?
Giáo sư Peter Timmer: Tôi xin trả lời là không.
Tôi nghĩ ngành sản xuất lúa gạo ở Việt Nam luôn có mối liên quan chặt chẽ với những gì diễn ra trên toàn cầu. Tất nhiên, Việt Nam có khoảng 10-15% dân sô thực sự rất nghèo, và giá lương thực tăng sẽ làm cho cuộc sống của họ đã khó lại càng khó hơn.
Nhưng bạn không thể giải quyết câu chuyện giảm nghèo bằng cách kìm giữ giá lúa gạo ở mức thấp, bởi vì vẫn có một tỷ lệ lớn hơn những người nông dân làm ăn rất giỏi và được hưởng lợi do giá gạo trên thế giới tăng lên. Đất nước cũng được lợi khi có thêm ngoại tệ.
Nói một cách ngắn gọn, chính phủ nên nghĩ cách khác hợp lý hơn để giải quyết vấn đề đói nghèo.
Giáo sư có gợi ý gì không?
Về ngắn hạn, nên dùng một phần giá trị gia tăng, do yếu tố tăng giá, từ xuất khẩu gạo để giúp cho những người dân nghèo, để họ không bị đói và con cái họ vẫn có thể đến trường, vẫn được chữa bệnh khi ốm đau.
Còn về lâu dài, phải tìm cách tạo việc làm. Đây là yếu tố cơ bản để chuyển bớt lao động nông nghiệp sang những khu vực ngành nghề khác, và diện tích thực tế mà mỗi người nông dân có để canh tác lớn hơn. Bởi như vậy mới áp dụng được những kỹ thuật mới một cách hiệu quả, cũng như giảm chi phí sản xuất.
Ý ông nói là Việt Nam nên tách riêng câu chuyện xuất khẩu gạo và việc đảm bảo đời sống tối thiểu cho người nghèo do giá cả tăng lên theo giá lúa gạo? Tức là không nên nhân danh người nghèo để hạn chế nguồn lợi chính đáng của những người lao động khác?
Đúng vậy. Xuất khẩu là kinh doanh, còn giảm nghèo là câu chuyện kết hợp của công ích trong ngắn hạn, và tạo công ăn việc làm trong trung và dài hạn.
Vào tháng 5.2008, chúng tôi cố gắng ngăn chặn đà tăng giá gạo, và tôi nói rằng Việt Nam cũng là một phần của giải pháp này. Thế nhưng giới chức Việt Nam đã không thay đổi chiến lược xuất khẩu gạo của mình kịp thời. Gặp tôi hồi đầu năm 2011, Bộ trưởng Cao Đức Phát có bảo đảm với tôi rằng ông sẽ không lặp lại sai lầm đó nữa.
Xin Giáo sư, theo những nguồn thông tin riêng và góc nhìn của mình, cho biết liệu chính sách tạm dừng xuất khẩu gạo vào thời điểm đó có hoàn toàn vì mục tiêu kiềm chế lạm phát, như không ít chuyên gia kinh tế ở Việt Nam vẫn nghĩ, không?
Hay như đánh giá của một chuyên gia về nông nghiệp, đề nghị không nêu tên, chính những nhà xuất khẩu gạo cũng tác động vào chính sách này theo hướng có lợi cho họ. Chả là cuối năm 2007, họ đã lỡ ký trước những hợp đồng xuất khẩu gạo với giá thấp, và vì vậy họ sẽ lỗ nặng khi phải thu mua lúa gạo của nông dân với giá cao.
Bộ trưởng Cao Đức Phát có giải thích với tôi rằng trước đó miền Bắc chịu một đợt rét khủng khiếp và kéo dài, phải gieo cấy lại, và ông sợ rằng vụ lúa Đông Xuân sẽ thất thu, sẽ có nạn đói, nếu Việt Nam duy trì xuất khẩu gạo.
Mặc dù, cuối cùng, ông bộ trưởng cũng đã nhận thấy rằng bản báo cáo mang tính dự báo đã thổi phồng lên các nguy cơ. Giờ thì ông ta đã hiểu rằng đợt rét diễn ra ở miền Bắc, chứ không phải ở miền Nam - "vựa lúa" chính của Việt Nam. Hơn nữa, sau đợt rét lúa kéo dài, lúa cấy lại vẫn phát triển tốt, và vụ còn lại (vụ hè thu) hoàn toàn không bị ảnh hưởng gì. Thế nhưng, quyết định đã được đưa ra dựa trên sự thổi phồng đó.
Tất nhiên, mục tiêu kiềm chế lạm phát, theo tôi hiểu, cũng là một lý do khác liên quan đến điều hành kinh tế vĩ mô của chính phủ Việt Nam. Còn cái giả định rằng các nhà xuất khẩu gạo đã tác động đến chính sách thì tôi không biết cụ thể, nên xin miễn bình luận. Mặc dù, với những hiểu biết về Việt Nam hơn hai thập kỷ qua, tôi hoàn toàn có thể tin vào điều đó.
Ở Việt Nam có ý kiến cho rằng giá lúa gạo luôn được giữ ở mức đủ thấp, ngoài câu chuyện kiềm chế lạm phát, để giúp duy trì lợi thế nhân công giá rẻ khi thu hút đầu tư nước ngoài để công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Liệu Giáo sư có thể hình dung chuyện gì sẽ xảy ra với đội ngũ nhân công giá rẻ này, nếu giá lương thực tăng cao, không?
Anh còn phải hỏi tôi nữa. Quá đúng! Và điều đó đã giúp Việt Nam có thể thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa theo hướng thâm dụng lao động giá rẻ.
Tôi nghĩ, công bằng mà nói, Việt Nam cũng có những thành công nhất định. Nhưng, rõ ràng với định hướng công nghiệp hóa mới, trong đó sẽ giảm dần tỷ lệ tận khai tài nguyên thiên nhiên và sức lao động giá rẻ, theo Giáo sư, liệu Việt nam có nên định hướng lại nền sản xuất nông nghiệp của mình không?
Tôi không nghĩ là Việt Nam còn có sự lựa chọn trong việc tiếp tục một chiến lược duy trì lương thực ở giá rẻ, bởi lương thực trên thị trường thế giới đã không còn rẻ nữa rồi. Hơn nữa, Việt Nam là nước xuất khẩu gạo, và việc ngưng xuất khẩu gạo như hồi đầu năm 2008, để kiềm chế lạm phát trong nước, là một ý tưởng tồi. Thế giới nhìn Việt Nam bằng con mắt thiếu thiện chí, nông dân không được hưởng lợi mấy từ thành quả của họ, còn gạo thì bị tồn kho với số lượng lớn.
Như vậy, vấn đề ở đây đã không còn chỉ liên quan tới chính sách phát triển nông nghiệp nữa, mà phụ thuộc vào chiến lược phát triển mới của Việt Nam.
Vậy, theo quan điểm của Giáo sư, điều cốt lõi cần phải nhấn mạnh trong chiến lược phát triển mới của Việt Nam là gì?
Trước hết, tôi muốn điểm lại cách mà xưa nay Việt Nam vẫn làm trong chiến lược công nghiệp hóa. Đó là rút lao động ra khỏi nông thôn, chuyển lao động từ khu vực nông nghiệp sang công nghiệp. Họ muốn dùng công nghiệp hóa để giải quyết vấn đề nông thôn, nông dân, chứ không phải dùng nông nghiệp để giải quyết bài toán này.
Khi công nghiệp hóa và đô thị hóa, người ta cho rằng sự đền bù đất nông nghiệp bị thu hồi cao gấp bội như vậy là có lợi cho người nông dân lắm rồi. Chả phải làm gì cả tự nhiên có một món tiền lớn. Bài toán tính đơn giản quá, bởi "tiếp theo những người nông dân mất đất sẽ làm gì để kiếm sống, sau khi tiêu hết tiền?"
Việt Nam có thế mạnh về nông nghiệp, mà tại sao lại không sử dụng thế mạnh đó để làm ra những gì mà thế giới đang khát khao. Bởi có những nước có tiền, nhưng không có được lương thực, nông sản...
Chẳng hạn, ở Mỹ thu nhập của người nông dân thấp hơn nhiều so với luật sư, mà Mỹ vẫn phải hỗ trợ nông dân để duy trì được nền nông nghiệp hùng mạnh như thế. Mặc dù nông nghiệp không phải là ngành mang lại nhiều tiền cho nước Mỹ, nhưng trình độ, chất lượng của ngành nông nghiệp Mỹ lại rất cao. Tại sao vậy?
Tại vì đó là cách để đảm bảo một sự cân bằng nhất định trong quan hệ của Mỹ với các nước khác. Nước Mỹ cần phải làm chuyện đó, để khỏi phụ thuộc vào nước ngoài.
Nhiều nước cũng muốn làm như vậy, nhưng điều kiện tự nhiên không ưu đãi. Vậy tại sao Việt Nam lại từ bỏ cái sở trường của mình và chạy theo cái sở đoản, và luôn phải chấp nhận vị trí kẻ lẹt đẹt ở đằng sau?
Thế là Việt Nam phải từ bỏ "giấc mộng vàng" công nghiệp hóa hay sao?
Đừng cực đoan như vậy. Tôi chỉ muốn nhấn mạnh rằng không nên công nghiệp hóa kiểu phong trào và bằng bất cứ giá nào, công nghiệp hóa kiểu thâm dụng lao động, và nguy hiểm hơn nữa, coi đó là giải pháp cho việc giải quyết gốc rễ vấn đề nông thôn và nông dân.
Việt Nam vẫn nên coi nông nghiệp là nền tảng, để trên cái nền đó phát triển công nghiệp chế biến và các dịch vụ liên quan để gia tăng giá trị cho nông sản, như khai thác tính cộng đồng, hay phát triển dịch vụ du lịch.
Chỉ có phát triển nông nghiệp bền vững mới thực sự giúp nông dân thoát đói nghèo. Chứ còn làm nông nghiệp theo kiểu tàn phá môi trường, hay thâm canh, trước sau sẽ kéo nông dân quay lại với đói nghèo.
Tôi muốn nhấn mạnh rằng thâm canh quá mức tạo ra những khí thải tác động đến môi trường, và thực sự nông nghiệp Việt Nam đang có một bước lùi khi sau một vụ canh tác lại cần tới 1,5 vụ để tái tạo lại đất như trạng thái ban đầu.
Giáo sư nghiên cứu khá kỹ về nền nông nghiệp Việt Nam, nhất là lịch sử nông nghiệp, từ hơn hai thập kỷ qua. Vậy Giáo sư có thể nêu nguyên nhân tại sao ở Việt Nam, cho tới nay, người ta ít quan tâm đến nông nghiệp?
Ở Việt Nam xưa nay nông nghiệp luôn bị coi là một ngành có giá trị lợi nhuận thấp, mà rủi ro cao. Vì thế, chả ai muốn đầu tư cho nông nghiệp cả.
Còn bản thân người nông dân, lẽ ra là nhân vật trung tâm trong nông nghiệp, lại không đủ năng lực cần thiết. Trong chuyến khảo sát ngắn ở Tây Nguyên, trước khi diễn ra hội thảo về cà phê (3.2011), tôi thấy nông dân còn nghèo lắm.
Tôi sẽ cố gắng đưa các chương trình nghiên cứu và chuyển giao công nghệ của Viện Khoa học Công - Nông nghiệp Tây nguyên, hay Đại học Tây nguyên, đến với nông dân Tây Nguyên. Bởi nếu không được đào tạo để nhận chuyển giao công nghệ, người nông dân sẽ đứng bên lề quá trình chuyển đổi trong nông nghiệp.
Theo tôi một thách thức rất lớn của Việt Nam khi chuyển đổi sang nền nông nghiệp kỹ thuật cao là vấn đề tích tụ ruộng đất. Ở Mỹ một trang trại rộng bốn, năm trăm héc ta nên rất dễ áp dụng các kỹ thuật canh tác tiên tiến, như phun thuốc, haygieo hạt bằng máy bay. Ở Việt Nam nếu mỗi hộ nông dân có được 5 héc ta đất chắc cũng là chuyện cực kỳ khó khăn, bởi theo tôi biết mỗi hộ bây giờ chỉ được giao 1/5, hay thậm chí 1/10 diện tích đó.
(Còn tiếp...)

Trọng tâm nông nghiệp là nông dân, không phải nền hành chính

"Thứ nhất, nông dân Việt Nam cần được hưởng phần thưởng từ việc tăng chất lượng của nông sản, như người trồng lúa ở Thái Lan đang được hưởng, hay người trồng cà phê ở Kenia được hưởng, tức là thu nhập của họ phải tăng gấp đôi mà không nhất thiết phải tăng năng suất nông nghiệp. Thứ hai, phần còn lại của nền kinh tế phải tham gia vào quá trình chuyển đổi nông nghiệp, để trả lại món nợ mà họ đã “vay” của nông nghiệp trong hai thập kỷ qua." - GS Timmer. 



Cách đây 20 năm, khi từ vị trí một nước nhập khẩu lương thực trở thành nước xuất khẩu lương thực, Việt Nam được ví như cô thôn nữ đến tuổi dậy thì, đang ốm nhom trở nên phổng phao, xinh đẹp. Các chàng trai trên tỉnh đều ngắm nhìn cô đầy ngưỡng mộ, và cô thôn nữ rất hãnh diện vì sắc đẹp của mình một cách hồn nhiên.

Có điều, trong 20 năm qua cô thôn nữ đã trở thành thiếu phụ đó vẫn chỉ có niềm tự hào duy nhất về cái vẻ đẹp hồn nhiên của cái tuổi 17 đó, thay vì nghĩ rằng người thiếu phụ ở tuổi đó hấp dẫn đàn ông nhiều hơn ở sự đằm thắm và hiểu biết.
Trong nông nghiệp, "sự đằm thắm và hiểu biết" đó chính là "hàm lượng kỹ thuật cao, bao gồm cả chế biến, để tạo ra giá trị gia tăng cao".
Phóng viên Huỳnh Phan: Giáo sư đánh giá thế nào về nền nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt là quá trình hoạch định chính sách nông nghiệp?
GS Timmer: Các bạn có một bộ trưởng nông nghiệp có học hành bài bản, người đã làm việc cùng tôi trong hai năm ở Harvard. Các bạn có một người đứng đầu cơ quan tham mưu chính sách (Tiến sĩ Đặng Kim Sơn- NV) mà tôi đánh giá là một trong những bộ óc tốt nhất về chiến lược nông nghiệp và phát triển nói chung ở toàn khu vực Đông Nam Á. Mỗi khi đến đây, tôi đều có thể trao đổi và tranh luận trực tiếp và thẳng thắn với họi, và thu nhận được điều gì đó bổ ích từ họ.
Thế còn nền nông nghiệp của Việt Nam, trong sự so sánh với nước có nền kinh tế xuất phát từ nông nghiệp khác?
Chúng ta có thể so sánh với Indonesia, Malaysia, Thái Lan, Đài Loan, và miền Nam Trung Hoa, để thấy rõ Việt Nam thế nào. Có hai câu trả lời, tuỳ theo góc nhìn dài hạn, hay ngắn hạn.
Xét về dài hạn, nhất là kể từ hai thập kỷ trở lại đây, Việt Nam có một thành công đáng khâm phục, khi từ một nước bị đói và phải nhập lương thực, trở thành một nước đứng thứ hai thế giới về xuất khẩu gạo, hay cà phê. Nói tóm lại, Việt Nam đã có một hệ thống sản xuất nông sản hàng hoá tốt.
Còn về ngắn hạn, vào thời điểm hiện nay, nền nông nghiệp Việt Nam rất dễ bị tổn thương. Chúng ta đang nói về nạn khô hạn, khi mực nước của sông Mekong xuống tới mức thấp nhất trong vòng 85 năm trở lại đây. Vấn đề nhiễm mặn trở nên kinh khủng hơn bao giờ hết, khiến sản lượng lương thực bị ảnh hưởng đáng kể. Ảnh hưởng của biến đổi khí hậu với hạn hán và lũ lụt là những thách thức cực kỳ nghiêm trọng.
Thế nhưng, trong cái rủi có cái may. Thị trường nông sản thế giới lại đi theo chiều hướng thuận lợi cho các nhà xuất khẩu gạo, cà phê, ca cao... Tức là Việt Nam có những cơ hội tốt để thay đổi. Nói cách khác, đây là thời điểm hết sức thuận lợi để Việt Nam chuyển sang một nền nông nghiệp năng suất cao hơn và hiệu quả hơn.
Và đây cũng chính là lúc mà chính phủ Việt Nam phải thể hiện được những sáng kiến của mình. Rất cần có những sáng kiến ở cấp chính phủ để tăng năng suất và tính hiệu quả của những mặt hàng nông sản mà tôi đã kể trên, nhất là liên qua tới thị trường.
Xin Giáo sư nói rõ hơn.
Theo tôi nhà nước cần giảm bớt sự can thiệp vào thị trường, và "bật đèn xanh" cho các doanh nghiệp tư nhân tham gia hình thành hệ thống cung ứng nối tới tận người nông dân. Tức là đảm bảo làm sao nông sản đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng, và phần lợi tức tăng thêm từ việc tăng chất lượng phải quay trở về túi người nông dân.
Việt Nam hiện đang đứng ở nhất nhì thế giới về xuất khẩu gạo, cà phê, tiêu và điều. Giáo sư có nhận xét gì về cuộc sống của một bộ phận lớn dân số đóng vai trò chính trong việc khiến Việt Nam "nở mày nở mặt" với thế giới?
Đó chính là câu hỏi quan trọng nhất trong câu chuyện này. Việt Nam hiện giờ có vị thế của một nước xuất khẩu hàng nông sản giá rẻ. Điều đó có nghĩa là làm nông nghiệp vẫn cứ nghèo thôi, bởi người nông dân phải cạnh tranh trong một phân khúc thấp nhất của thị trường thế giới.
Tất nhiên, so với 10 năm hay 20 năm trước đây, cuộc sống của họ có khá hơn. Chẳng hạn chuyện học hành của con cái họ khá hơn hẳn so với lần đầu tiên tôi đặt chân lên mảnh đất này cách đây 22 năm. Đi về nông thôn bạn không còn thấy nạn đói nữa.
Thế nhưng, nông dân vẫn nghèo, theo cả nghĩa tuyệt đối và tương đối, tức là so sánh với các tầng lớp khác trong xã hội. Vì thế, cơ hội của họ rất hạn chế.
Giáo sư có gợi ý gì về giải pháp giảm nghèo không?
Có hai việc cần làm.
Thứ nhất, nông dân Việt Nam cần được hưởng phần thưởng từ việc tăng chất lượng của nông sản, như người trồng lúa ở Thái Lan đang được hưởng, hay người trồng cà phê ở Kenia được hưởng. Tức là người nông dân phải được hưởng tỷ lệ lớn hơn trong phần chi trả của người tiêu dùng. Nói một cách cụ thể, thu nhập của người nông dân phải tăng gấp đôi mà không nhất thiết phải tăng năng suất nông nghiệp.
Điều thứ hai khó hơn, nhất là với những người ra quyết sách nông nghiệp. Đó là tạo việc làm ở đô thị cho những nông dân hoặc nghèo, hoặc được chia quá ít đất canh tác. Đó là sự chuyển đổi từ nền kinh tế nông nghiệp và cách mà nhiều nước đã trở nên phồn vinh. Phần còn lại của nền kinh tế phải tham gia vào quá trình này, để trả lại món nợ mà họ đã "vay" của nông nghiệp trong hai thập kỷ qua.
Ông có nghĩ rằng để giúp cho người nông dân nhận được phần hơn trong chuỗi giá trị, một công ty tư nhân có thể làm được, khi mà đối với doanh nghiệp ưu tiên cao nhất là lợi nhuận? Nhiều người, nhất là nông dân, có thể nghi ngờ ý nghĩa tốt đẹp của câu chuyện này?
Trước hết, phải đặt câu hỏi theo cách khác: Nếu không phải khu vực tư nhân, vậy là khu vực nào? Nhà nước chăng?
Không. Nhà nước chỉ có thể hỗ trợ trong việc đào tạo, cung cấp tri thức cho nông dân, giới thiệu những kỹ thuật mới, hay cải thiện hạ tầng nông thôn thôi.
Những việc còn lại, nhất là tạo sự kết nối trực tiếp với nông dân để hiện đại hoá nông nghiệp và giảm chi phí trung gian, thì lịch sử nông nghiệp thế giới đã chứng kiến nhiều ví dụ tốt về vai trò của các doanh nghiệp tư nhân.
Theo những gì tôi nghiên cứu, nhà nước, hay khu vực công, không biết cách thúc đẩy thị trường, thực hiện sản xuất nông sản, hay thậm chí tạo công ăn việc làm cho nông dân. Còn doanh nghiệp tư nhân biết làm cái công việc kết nối nông dân với người tiêu dùng, bởi họ biết người tiêu dùng cần gì, để hướng người nông dân đáp ứng điều đó và nhận phần chia xứng đáng.
Tức là để kiếm thêm tiền từ người tiêu dùng, doanh nghiệp tư nhân biết họ và những người nông dân cần làm gì để cùng hưởng lợi chính đáng. Đó là con đường hai chiều mà doanh nghiệp tư nhân có thể tạo ra.
Trên thế giới, tuỳ theo lịch sử, văn hoá, hay thể chế chính trị, mà sự tham gia của nhà nước, hay tư nhân, có vai trò quan trọng hơn hay kém. Mức độ tách bạch của sự phân công cũng khác nhau. Ở Việt Nam, dường như vai trò của khu vực công, hay sự can thiệp của nhà nước, là quá nặng nề, nhất là trong tiếp thị và xuất khẩu.
Ví dụ?
Gạo thì khỏi nói luôn, bởi chúng ta đã chứng kiến màn trình diễn không mấy ấn tượng của các tổng công ty nhà nước trong lĩnh vực này. Còn trong lĩnh vực cà phê, Vinacafe là một tay chơi lớn trên thị trường xuất khẩu cà phê. Nhưng trên thực tế, thị trường cà phê thế giới lại cần những thương hiệu riêng nổi bật.
Việt Nam cần phải chuyển đổi từ vị trí mà lịch sử đã xác lập cho quốc gia này để chuyển sang một vị thế hiệu quả hơn, năng động hơn. Và điều quan trọng nhất là chuyển sang một nền nông nghiệp lấy người nông dân, chứ không phải nền hành chính nhà nước, là trọng tâm. Thực lòng mà nói tôi chả mấy tin rằng nền hành chính của nhà nước có thể bảo vệ lợi ích của người nông dân.
Nước Mỹ có một nền nông nghiệp thuộc vị trí hàng đầu trên thế giới. Chính phủ Mỹ có vai trò gì trong chuyện này?
Để trả lời câu hỏi của anh, tôi xin kể một câu chuyện. Tôi lớn lên trong một nông trại, và hai người em của tôi là những nông dân thực thụ, hệt như những người nông dân Việt Nam mà anh đã gặp. Có lẽ, điều khác biệt lớn nhất là họ đều tốt nghiệp đại học về chuyên ngành nông nghiệp của những đại học danh tiếng.
Phòng Nông nhiệp của cái huyện nơi họ sống, cánh tay nối dài của Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ, về lý thuyết, có vai trò hỗ trợ những nông dân như họ bằng những kỹ thuật mới, và kiến thức thị trường. Thế nhưng, nếu cứ răm rắp nghe theo toàn bộ những gì mà Phòng Nông nghiệp huyện hướng dẫn, có lẽ hai người em của tôi đã chết từ lâu rồi.
Giáo sư không đùa đấy chứ?
Thật mà. Bởi kiến thức của mấy ông khuyến nông nhà nước này chỉ bằng một phần mười so với những hiểu biết và kinh nghiệm của mấy người em tôi. Vậy vai trò của phòng nông nghiệp là gì? Tôi có thể nhận xét bằng hai chữ "tiêu cực".
Như tôi đã nói ở trên, nhà nước chỉ có hai việc để làm thôi. Đó là phát triển hạ tầng nông thôn, và tạo ra những trường đại học có thể cung cấp những kiến thức hiện đại nhất về công nghệ nông nghiệp.
(Còn tiếp...)

Doanh nghiệp cạnh tranh - nông dân hưởng lợi

"Có thể ông Đặng Lê Nguyên Vũ sẽ không mấy vui khi nghe tôi nói điều này, nhưng tôi tin chắc rằng mọi thứ tốt đẹp chỉ được thực hiện trong một môi trường cạnh tranh. Đặc biệt, những người với tính cách như ông Vũ lại càng cần có những đối thủ cạnh tranh, bởi chính điều đó mới kích thích khả năng sáng tạo của ông ta." - GS Timmer.


Theo báo Công an HCM, ngày 17-3-2012, Chủ tịch nước Trương Tấn Sang đã làm việc với Công ty cà phê Trung Nguyên về dự án "Mô hình cụm ngành cà phê quốc gia & Mô hình nông thôn mới tích hợp liên hoàn" tại nhà máy cà phê Trung Nguyên, tỉnh Đắk Lắk.

Theo đó, mô hình cụm ngành cà phê quốc gia là mô hình chiến lược tổng thể cho toàn ngành cà phê Việt Nam, nhằm gia tăng giá trị xuất khẩu của cà phê đạt 20 tỷ USD, gấp 10 lần giá trị hiện nay (2,4 tỷ USD năm 2011), đồng thời, tạo ra 5 - 6 triệu việc làm thông qua mô hình nông - công nghiệp cà phê, triển khai tại Đắk Lắk.
Những người xây dựng đề án này cũng kỳ vọng rằng đây cũng sẽ là mô hình nông - công nghiệp mẫu có thể nhân rộng, lắp ghép phù hợp với các mô hình phát triển nông nghiệp Việt Nam.
Chắc chắn, khi được công khai hoá, đề án đầy tham vọng này sẽ nhận được đầy đủ các ý kiến khen chê, nhất là liên quan đến tính khả thi của nó. Và chặng đường phía trước của Tập đoàn Trung Nguyên và ông chủ Đặng Lê Nguyên Vũ sẽ không phải là được trải toàn hoa hồng, mà lẫn với đầy gai của nó.
Tuy nhiên, không thể phủ nhận một điều rằng đề án này xuất phát từ một tầm nhìn rộng và xa, một ý tưởng không hề điên rồ, và được xây dựng hết sức nghiêm túc, với sự tham gia của nhiều chuyên gia trong và ngoài nước, trong đó có GS Timmer  (ĐH Harvard)- thông qua cả sự chia sẻ, và phản biện của ông.
Phóng viên Huỳnh Phan: Lần đầu tiên Giáo sư gặp ông Đặng Lê Nguyên Vũ là khi nào?
GS Timmer: Tháng 11.2010, khi tôi tới Hà Nội dự một hội thảo quốc tế về lúa gạo. Ông Vũ muốn gặp tôi, và chúng tôi gặp nhau ở Hilton, cùng với 4-5 người khác nữa.
Ấn tượng đầu tiên của Giáo sư về đề án mà ông Vũ theo đuổi?
Theo cảm nhận của tôi qua buổi nói chuyện đó, ông ta là người có viễn kiến rõ ràng, đặc biệt là về văn hoá cà phê toàn cầu. Ông ta muốn xây dựng một tinh thần cà phê trong một chu trình khép kín, từ người trồng cà phê đến người tiêu thụ cà phê.
Tôi là một nhà kinh tế học lớn lên từ một nông trại, nên tôi có cách nhìn thực tiễn. Và điều khiến tôi ngạc nhiên nhất chính là việc ông ta đã không mất nhiều thời gian để làm cho tôi hiểu viễn kiến của ông ta.
Cần nhớ rằng tôi là người có tư duy phản biện rất mạnh, còn ông ta lại rất tự tin. Vì thế, chúng tôi đã cảm thấy rất thích thú khi trao đổi với nhau.
Cuộc nói chuyện kéo dài bao lâu?
Khoảng 2 tiếng, tất nhiên phải thông qua phiên dịch. Mặc dù, trước đó, chúng tôi chỉ định gặp nhau khoảng 30 phút. Tôi không có nhiều thời gian ở Hà Nội.
Giáo sư có tự hỏi là tại sao ông Vũ lại chọn ông để nói điều đó không?
Có chứ. Nhưng tôi không mất thời gian đoán già đoán non, mà đã chọn cách hỏi thẳng ông ta.
Và câu trả lời?
Ông ta đã giải thích rằng ông ta tìm đến tôi bởi vì tôi hiểu rõ vai trò của nông nghiệp trong sự phát triển của kinh tế nói chung. Chuyên môn của tôi là nghiên cứu lịch sử kinh tế qua nhiều thế kỷ, và là một chuyên gia về lúa gạo.
Giáo sư có nhận xét gì về mô hình phát triển cà phê của ông Vũ?
Tôi có thể hình dung thấy hình mẫu phát triển cà phê trong đầu ông ta là người nông dân thành công, nghề trồng cà phê bền vững, và tất cả những thứ đó sẽ khuyến khích kinh tế nông thôn, và nền kinh tế thế giới nói chung, phát triển. Và tôi đã giải thích cho ông ta, theo tư duy của tôi, làm sao để điều đó có thể thực hiện được.
Tôi nghĩ ông ta hiểu điều đó với tầm nhìn của ông ta, nhưng chưa có ý niệm rõ ràng về việc liên kết tầm nhìn về phát triển cà phê bền vững với chiến lược phát triển của Việt Nam nói chung. Nhấn mạnh mối liên kết đó là điều tôi đã làm được trong cuộc trao đổi hôm đó.
Liệu sự tham gia của nhiều doanh nghiệp tư nhân sẽ làm xua tan mối hoài nghi rằng trong mô hình này chính doanh nghiệp, chứ không phải người nông dân, được hưởng lợi nhiều hơn?
Đúng vậy, miễn là các doanh nghiệp phải cạnh tranh với nhau, chứ không phải "bắt tay" với nhau, trong quan hệ với người nông dân. Bởi trong trường hợp thứ hai, người nông dân sẽ thiệt thòi. Bởi mọi sự độc quyền đều dẫn tới sự thiệt thòi cho cả nông dân lẫn người tiêu dùng.
Có thể ông Vũ sẽ không mấy vui khi nghe tôi nói điều này, nhưng tôi tin chắc rằng mọi thứ tốt đẹp chỉ được thực hiện trong một môi trường cạnh tranh. Đặc biệt, những người với tính cách như ông Vũ lại càng cần có những đối thủ cạnh tranh, bởi chính điều đó mới kích thích khả năng sáng tạo của ông ta.
Ý Giáo sư  là không phải là cà phê kích thích sáng tạo, như ông Vũ nói, mà là cạnh tranh, tất nhiên là cạnh tranh lành mạnh, mới thực sự kích thích sáng tạo?
(Cười) Đó cũng là một điểm mà tôi không chia sẻ với ông Vũ. Theo tôi, chính sáng tạo đã khiến cho nhu cầu tiêu thụ cà phê lớn hơn, chứ không phải cà phê kích thích sáng tạo.
Chúng tôi đã tranh luận về một mô hình ở Malaysia, khi xưởng chế biến dầu cọ nằm trong một đồn điền với tư cách trung tâm, còn các nông dân xung quanh nhận trợ giúp kỹ thuật, hay phân bón từ trung tâm này và bán sản phẩm cho họ. Nhưng họ là những nông dân độc lập.
Liệu mô hình này có thể áp dụng cho cà phê ở Đắk Lắc hay không? Ông Vũ có một đồn điền rộng vài trăm héc ta, nơi ông định xây dựng thánh địa cà phê. Xung quanh đó là các nông trại cà phê nhỏ, rộng chỉ 1 hoặc 2 héc ta của nông dân. Vậy mối quan hệ giữa đồn điền của ông Vũ, nơi sẽ có nhà máy chế biến cà phê, và những nông trại cà phê của nông dân như thế nào?
Có 3 cách. Cách thứ nhất, người nông dân có thể bán cà phê cho bất cứ ai, không nhất thiết là cho Trung Nguyên. Đó là cạnh tranh.
Cách thứ hai, họ có thể ký hợp đồng với ông Vũ, với tư cách là nhà chế biến với giá thoả thuận trước. Tức là người nông dân chủ động được đầu ra, còn nhà chế biến chủ động được nguồn cung.
Cách thứ ba, nhà chế biến thuê đất của người nông dân, còn người nông dân trở thành người làm thuê cho nhà chế biến, và lĩnh lương tháng. Họ trở thành những "công nhân" nông nghiệp.
Nếu được mời làm cố vấn cho dự án, Giáo sư sẽ khuyên họ chọn cách nào?
Tôi nghĩ cách thứ hai, về lý thuyết, là đẹp nhất. Tuy nhiên, vẫn có một rắc rối nhiều khi giá thị trường thực tế lại trồi trụt đáng kể so với giá thoả thuận ban đầu. Có lẽ nên có một mức bảo hiểm nào đó trên cơ sở giá sàn.
Theo tôi, trong mọi trường hợp, cần để cho người nông dân được hưởng phần hơn, bởi có vậy họ mới chuyên tâm đầu tư vào chất lượng cà phê, hay áp dụng kỹ thuật mới để nâng cao năng suất. Có như vậy nguồn cung cà phê mới bền vững, và mang lại nguồn lợi về dài hạn cho doanh nghiệp.
Mô hình này liệu có nên áp dụng cả với doanh nghiệp trong nước và nước ngoài?
Theo tôi, không nên có giới hạn, hay sự phân biệt ở đây. Thế mạnh của nhà chế biến nước ngoài là họ có sự tiếp cận tốt hơn đối với thị trường cà phê cao cấp.
Chẳng hạn, tôi thực sự vui nếu Starbucks có mặt ở Buôn Ma Thuột. Bởi sự có mặt của Starbucks sẽ khiến cà phê Buôn Ma Thuột được "dán mác" trên thị trường toàn cầu - điều mà tôi tin rằng hiện tại không công ty Việt Nam nào có thể làm được, chí ít là trong ngắn hạn và trung hạn.
Thế nhưng, nhược điểm của các nhà chế biến nước ngoài là không hiểu những người trồng cà phê ở đây, và quan hệ với nguồn cung chắc chắn sẽ kém xa các nhà chế biến nội địa. Tôi nghĩ cuộc tranh tranh sẽ rất thú vị, và khiến người nông dân có lợi nhất.
Giáo sư có nghĩ rằng ông Vũ sẽ lại không vui khi nghe điều này?
Tôi không nghĩ vậy. Ông ta mời tôi vào đây là để nghe sự phản biện độc lập của tôi. Hơn nữa, ông ta đủ tự tin để chấp nhận cạnh tranh. Ông ta biết chuẩn bị một đội ngũ chuyên gia để làm việc đó, và chuẩn bị sẵn tầm nhìn cho tương lai, bởi ông ta tin rằng ông ta dự đoán được xu hướng của thị trường cà phê thế giới trong tương lai.
Vì vậy, ông ta sẽ không nghĩ rằng GS Timmer đang chỉ trích mô hình mà Trung Nguyên đang theo đuổi, mà sẽ cho rằng GS Timmer đang chỉ ra cho ông ta trước những thách thức để ông ta phải chuẩn bị sẵn sàng để đón nhận nó.
Với viễn cảnh đó, Giáo sư có nghĩ rằng những công ty nội địa như Trung Nguyên và những công ty nước ngoài như Starbucks vừa là đối thủ cạnh tranh ở đây, lại vừa là những người đồng hành trong việc đưa thương hiệu cà phê Buôn Ma Thuột ra thế giới?
Nếu tôi làm việc trong văn phòng của Chủ tịch Trung Nguyên, nhưng xin lỗi là tôi quá bận nên khó có thể chấp nhận lời đề nghị nếu có này của ông Vũ (cười), tôi sẽ đề xuất việc thành lập một liên doanh với Starbucks, hoặc Peet's - một thương hiệu cà phê (quán) nhỏ hơn, nhưng lại rất quan trọng trong phân khúc thị trường cà phê cao cấp.
Tức là sao? Tức là tôi có thể là nguồn cung cấp cà phê Buôn Ma Thuột, được xác nhận về chất lượng đẳng cấp, cho anh, tuỳ số lượng mà anh thấy có thể bán, và chia sẻ lợi nhuận, trong khi phải đảm bảo một cái giá thoả đáng để người trồng cà phê cảm thấy vui vẻ, như một điều khoản của hợp đồng.
Hơn nữa, Starbucks có thể kể câu chuyện Tây Nguyên hay hơn. Họ sẽ nói với người tiêu dùng rằng "chúng tôi biết rõ rằng cà phê Buôn Ma Thuột được trồng với kỹ thuật phù hợp với các tiêu chí phát triển bền vững, và việc các vị tiêu dùng cà phê đã giúp cho con cái những người trồng cà phê ở Đắc Lắc có thể đến trường, hay tiếp cận được với dịch vụ y tế.
Với kiến thức và trải nghiệm của mình, tôi tin chắc rằng người tiêu dùng ở Mỹ và châu Âu thực sự muốn nghe và muốn tin vào điều tốt đẹp đó.
Giáo sư thực sự cho rằng Trung Nguyên, nếu tự làm điều này, sẽ gặp khó khăn bội phần?
Tôi chưa hình dung được rõ ràng việc Trung Nguyên có thể xây dựng được hệ thống quán cà phê ở Mỹ, hay châu Âu, trong cái lộ trình mà ông Vũ đưa ra. Tôi nghĩ sẽ thực tế hơn nếu ông ta tham gia vào hệ thống sẵn có, thay vì giới thiệu với người tiêu dùng Âu -Mỹ hệ thống quán cà phê, thương hiệu Trung Nguyên, cùng với cái triết lý mới của mình (cà phê triết đạo).
Tại sao vậy? Ông ta đã có quán cà phê Trung Nguyên ở London, New York, Los Ageles, hay Lousiana, và có thể tăng gấp đôi, thậm chí gấp ba số lượng đó. Nhưng nhiều hơn thì khó đấy, bởi ông ta khó có thể thành công khi làm cả hai việc cùng một lúc. Trong khi đó, hệ thống Starbucks có tới 3000 quán.
Vì vậy, khôn ngoan hơn là hãy tham gia vào hệ thống phân phối sẵn có đó để làm đòn bẩy cho việc xây dựng mô hình kinh tế cà phê mới ở Đắk Lắk - mô hình cà phê bền vững. Khi đã thành công bước này rồi, lúc đó hãy tiếp tục làm bước khác.
Giáo sư có nghĩ rằng Starbucks, hay Peet's sẽ sẵn sàng với sự hợp tác này không?
Chắc chắn. Bởi họ luôn mong muốn có một nguồn cung ứng cà phê chất lượng cao, ổn định và với những câu chuyện mới cho người tiêu dùng.
Những câu chuyện mới?
Chẳng hạn, ở San Franscisco nơi tôi sống, có quán cà phê có trương hình người nông dân trồng cà phê từ Costa Rica. Tôi nghĩ người uống cà phê muốn được nhìn thấy một hình ảnh mới - người nông dân trồng cà phê ở Tây Nguyên.
Giáo sư có uống cà phê thường xuyên không?
Không. Người uống cà phê hàng ngày, loại cà phê hảo hạng, là vợ tôi. Chúng tôi mua từ quán Peet's. Tôi vừa mail cho vợ nói rằng cà phê Buôn Ma Thuột rất ngon, và tôi muốn vợ tôi thử nó.
Tôi chỉ uống cà phê khi đi công tác, bởi ở khách sạn tôi tin rằng tôi có thể tìm được loại cà phê hảo hạng tôi muốn, còn trà thì không. Ở nhà, tôi thường uống trà vào bữa sáng, và rượu vang đỏ vào bữa tối.
Xin cám ơn Giáo sư!

Myanmar - một con đường với ba góc quan sát


Myanmar - một con đường với ba góc quan sát

"Qua những phát ngôn và hành động của mình, cả ông Thein Sein lẫn bà San Suu Kyi, theo tôi hiểu, đều nhận thức rằng đã đến lúc mọi nguồn lực của đất nước, sau hàng thập kỷ chia rẽ và đối đầu, phải được qui tụ lại để tạo sức bật cho phát triển, chứ không phải để sử dụng trong cuộc đấu tranh nội bộ"

Trong mấy ngày vừa rồi, kết quả sơ bộ về cuộc bầu cử bổ sung ở Myanmar với thắng lợi gần như tuyệt đối của Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ của bà San Suu Kyi, cũng như cá nhân bà, đã tạo một cảm hứng lớn và kỳ vọng mới cho công luận và dư luận quốc tế đối với Myanmar và cả cái khu vực đang tiến tới một cộng đồng vào năm 2015. Nhưng bên cạnh đó, chắc hẳn vẫn có những mối lo ngại, bởi những nguyên do khác nhau.
Tuanvietnam xin được giới thiệu một trong những nỗi lo đó, bên cạnh hai cách nhìn lạc quan về những đổi thay nhanh chóng trong thời gian gần đây ở cái quốc gia đã sống gần nửa thế kỷ dưới chế độ độc tài quân sự.
Ký giả Chongkittavorn và câu chuyện trước hai cuộc bầu cử
Trong số những bài phân tích về thành công ASEAN 2010 tại Hà Nội, có lẽ bài "Vai trò lãnh đạo ASEAN của Việt Nam là bài học cho tất cả" của ký giả Kavi Chongkittavorn, đăng trên The Nation số ra ngày 1.1.2010, được coi là có góc nhìn sâu sắc, toàn diện và khách quan nhất.
Tuy nhiên, người viết vẫn cảm thấy đánh giá của ký giả kỳ cựu này, phần liên quan đến bầu cử ở Myanmar, vẫn chưa thật thuyết phục, khi ông viết rằng "các nước thành viên đều phải  thừa nhận nước chủ nhà Việt Nam đã khéo léo giúp hạ thấp các cuộc thảo luận về khủng hoảng chính trị ở Myanmar bằng cách dấy lên mối lo ngại về Biển Đông".
Nói như vậy, vô hình trung, ký giả Chongkittavorn đã "hạ thấp" mối lo ngại, không chỉ của Việt Nam, về nguy cơ bất ổn ở Biển Đông. Hơn nữa, thật không công bằng đối với lãnh đạo Việt Nam, khi cho rằng việc họ thách thức một nước lớn trong khu vực, với những hệ luỵ khôn lường của nó,  lại không xuất phát từ chủ quyền và lợi ích quốc gia, mà dường như từ lợi ích của một thành viên khác.
Nhưng Chongkittavorn đã có lý khi cho rằng "các nhà lãnh đạo ASEAN có thể đã tạo ra được một áp lực lớn hơn đòi đưa các nhà quan sát bầu cử tới Myanmar, nếu như nước chủ nhà giữ vai trò dẫn dắt với một lập trường mạnh mẽ hơn".
Không chỉ có vậy. Cuộc bầu cử quốc hội Myanmar đã diễn ra chỉ một tuần sau lễ bế mạc Cấp cao ASEAN 17, trong bối cảnh còn tới hơn hai nghìn tù nhân chính trị vẫn bị giam giữ, nhiều đảng phái và cá nhân không được quyền tham gia (trong đó bà San Suu Kyi), cũng như có tới 25% số ghế được dành sẵn đại diện quân đội.
Thế nhưng, chỉ chưa đầy một năm rưỡi sau đó, Myanmar dưới sự điều hành của một chính phủ dân sự đầu tiên sau khoảng nửa thế kỷ, vốn là kết quả của cuộc bầu cử mà nhiều người như Chongkittavorn còn tìm thấy nhiều điểm để phê phán, đã tiến hành những thay đổi đáng ngạc nhiên.
Gần một phần ba số tù nhân chính trị đã được thả. Chính quyền Myanmar đã đàm phán và ký kết các thỏa thuận ngừng bắn với nhiều nhóm vũ trang thuộc các sắc tộc thiểu số khác nhau tại Myanmar. Theo giới quan sát, việc giải quyết các cuộc xung đột với các sắc dân thiểu số đóng vai trò quyết định đối với sự ổn định và phát triển của đất nước này trong tương lai.
Và điều được cộng đồng quốc tế chờ đợi nhất là Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ (NLD), do bà San Suu Kyi lãnh đạo, đã được phép tham gia cuộc bầu cử bổ sung, cũng như việc giới nhà quan sát quốc tế được mời vào Myanmar để giám sát.
Theo Chongkittavorn trong bài viết trên The Nation ngày 26.3.2012, trong động thái cởi mở này của chính quyền Myanmar có phần đóng góp không nhỏ của Tổng Thư ký ASEAN Surin Pitsuwan, người đã được Thổng thống Thein Sein mời vào thăm nước này trước khi cuộc bầu cử diễn ra khoảng 40 ngày.
Trong cuộc gặp với Tổng thống Thein Sein, ông Pitsuwan đã khuyên Myanmar ít nhất cũng nên mời những quan sát viên và phóng viên trong khu vực vào giám sát cuộc bầu cử.
Những người ủng hộ giơ cao tấm ảnh bà San Suu Kyi khi kết quả bầu cử được công bố. Ảnh: Reuters
"Người dân ASEAN xứng đáng được biết các ông đang tiến hành cải cách như thế nào. Myanmar sẽ là chủ tịch của chúng tôi (2014)", ông Pitsuwan được trích dẫn là đã nói như vậy với người đứng đầu chính quyền Myanmar.
Nhưng chính phủ của ông Thein Sein đã không chọn phương án tối thiểu đó. Họ mời thêm cả quan sát viên từ Mỹ và Liên minh châu Âu. Hẳn ông Thein Sein vẫn còn nhớ vụ các nhà ngoại giao phương Tây đã tẩy chay sự kiện cuối năm 2010, khi chính quyền quân sự tiền nhiệm chỉ mời các nhà ngoại giao nước ngoài và đại diện các tổ chức quốc tế thường trú ở Rangoon tham gia giám sát tại các điểm bỏ phiếu.
Nhưng đối với bản thân Chongkittavorn, với tư cách là một nhà báo và đồng thời là Chủ tịch Liên minh Báo chí Đông Nam Á (SEAPA), có lẽ sự thay đổi lớn nhất là cuộc hội thảo quốc tế về phát triển truyền thông ở Myanmar, do Bộ Thông tin & Văn hoá Myanmar và UNESCO đồng tổ chức vào 19-20.3 vừa rồi, nhằm chuẩn bị cho việc soạn thảo luật báo chí của nước này.
Trong bài tham luận của mình, Chongkittavorn đã xác định Myanmar, trong cái "Disney Land" về thể chế chính trị, là "chủ nghĩa xã hội - dân chủ". Còn về mức độ tiến bộ của tự do báo chí, vị chuyên gia hàng đầu về báo chí ở Đông Nam Á này đã xếp Myanmar ngang hàng với Singapore, Malaysia và Bunei, và thấp hơn Philippines, Indonesia, Thái Lan và Campuchia.
Chỉ sau chưa đầy một năm rưỡi, quan điểm của Kavi Chongkittavorn về Myanmar đã thay đổi một cách đáng ngạc nhiên. Mặc dù, sự ngỡ ngàng của vị ký giả này hoàn toàn có lý.
Thế nhưng, có một người ở cách nơi Chongkittavorn đang sinh sống khoảng 2 giờ bay lại hoàn toàn không ngỡ ngàng về sự thay đổi này. Đó là Tiến sĩ Võ Trí Thành, Viện phó Viện Quản lý Kinh tế Trung ương, người vừa mới dự một số sự kiện trong khuôn khổ Cấp cao ASEAN 20 tại Phnom Penh.
TS Thành với câu chuyện chia sẻ kinh nghiệm cải cách
"Thực ra, quá trình mở cửa và cải cách, ở Myanmar đã có sự chuẩn bị từ lâu rồi, ngay trong chính quyền quân sự", TS Thành nói.
Ông kể rằng bên lề APEC 2006, ông đã được mời đến Nhà khách Chính phủ, nói chuyện với một phái đoàn Myanmar, trong đó có một số người mặc quân phục và đeo quân hàm cấp tướng.
"Tôi chủ yếu chia sẻ với họ kinh nghiệm cải cách kinh tế của Việt Nam. Những kinh nghiệm cải cách thuộc những lĩnh vực khác do các chuyên gia khác của Việt Nam trình bày", TS Thành nói.
Có lẽ, sự quan tâm ngày càng tăng của chính quyền quân sự Myanmar đến kinh nghiệm cải cách - mở cửa của Việt Nam bắt đầu từ sau chuyến đi của cựu Thủ tướng Võ Văn Kiệt, với tư cách Đặc phái viên của Thủ tướng Phan Văn Khải. Nhiệm vụ của vị thuyết khách này là thuyết phục Myanmar chỉ tham gia ASEM 5 ở cấp bộ trưởng, thay vì cấp nguyên thủ - một sự thỏa hiệp nhằm đảm bảo cho ASEM 5 thành công.
Hồi đó, một số quốc gia thuộc EU lúc đó đã chỉ trích rất mạnh mẽ Myanmar về sự vi phạm nhân quyền và dân chủ, khi năm 2003 chính quyền quân sự đã bỏ tù hàng ngàn nhà đấu tranh dân chủ và thực hiện tái quản thúc đối với bà San Suu Kyi.
Những gì mà ông Võ Văn Kiệt nói với Thống tướng Than Swe và các lãnh đạo quân sự Myanmar vẫn chưa được công bố. Thế nhưng, có một điều rất đáng lưu ý là trong những năm đó ông Võ Văn Kiệt suy nghĩ rất nhiều về câu chuyện hoà giải dân tộc ở Việt Nam, và cũng là vấn đề mấu chốt trong giải quyết bất ổn ở Myanmar.
Khoảng nửa năm sau chuyến đi đó, và đúng một tháng trước ngày kỷ niệm 30 năm Ngày Đất nước Thống nhất, Tuần báo Quốc tế đã cho đăng tải bài phỏng vấn ông về chủ đề này.
Ngược hẳn với các tướng lĩnh chỉ ngồi nghe và ghi chép, giới chuyên gia dân sự của nước này mà TS Thành gặp ở nhiều sự kiện khác nhau, trong khoảng thời gian từ đầu năm 2006 đến cuối năm 2011, ở cả Hà Nội và Rangoon, đã hỏi ông đủ mọi thứ.
"Nhưng họ quan tâm nhiều nhất đến giai đoạn cuối '80 - đầu '90 của Việt Nam (khoảng thời gian Việt Nam vẫn bị phương Tây, đứng đầu là Mỹ, phong toả về kinh tế - NV)", TS Thành nói.
TS Thành cho biết thêm rằng trong chuyến đi Phnom Penh vừa rồi, ông được biết thêm rằng kiến trúc sư của cuộc cải cách tỷ giá gây tiếng vang vừa rồi ở Myanmar đã từng qua Việt Nam "ăn sương, nằm gió" mấy năm liền để học tập kinh nghiệm.
"Thực ra, nói như báo chí rằng họ thả nổi tỷ giá là không hoàn toàn đúng. Họ chỉ thống nhất giữa giá chính thức và giá chợ đen, như Việt Nam đã từng làm năm 1989, nhưng với sự linh hoạt hơn", TS Thành nhận xét.
Nhưng về chính trị, theo TS Thành, Myanmar có đặc thù riêng của mình, và rất khác với Việt Nam. Một trong những nét đặc thù đó là phong trào dân chủ đã bắt rễ vào xã hội Myanmar từ lâu rồi.
"Một thuận lợi cho quá trình này là đa số dân Myanmar theo đạo Phật. Tôi cho đấy là ưu thế theo cách của châu Á, nhất là những dân tộc đậm chất Phật Giáo, với đặc điểm là duy tình, cân bằng, tránh những xung đột lớn" TS Thành nói.
Sự lựa chọn đấu tranh bất bạo động, theo kiểu Gandhi ở Ấn Độ, của bà San Suu Kyi, hoặc việc bà gần đây phản đối khả năng cựu chính quyền quân sự ra tòa có thể là một những ví dụ thuyết phục cho tinh thần của Nhà Phật. Còn việc tại sao chính quyền quân sự Myanmar, khác với những chính thể độc tài khác, lại không thủ tiêu bà San Suu Kyi, cũng như 'Kế hoạch tiến tới nền dân chủ trong kỷ cương' được họ đưa ra trong năm 2003, lại là những vấn đề rất cần tìm hiểu.
Tuy nhiên, TS Thành cho rằng, về lâu dài, cách tư duy này lại là một thách thức lớn cho quá trình xây dựng một xã hội pháp quyền chặt chẽ - điều mà quá trình dân chủ hoá hướng tới. "Tôi nghĩ một nền giáo dục kiểu Anh được phục hồi và phát triển sẽ bù đắp cho cái khiếm khuyết này", TS Thành gợi ý.
Những ưu thế của một nền giáo dục kiểu Anh, theo TS Thành, là ở tính thực tiễn cao và tầm nhìn rộng. "Tất nhiên, cái dễ nhận thấy nhất là về mặt ngôn ngữ. Các thành viên Phòng Thương mại của họ mà tôi gặp trong các diễn đàn doanh nghiệp đều có thể trao đổi thoải mái bằng tiếng Anh", TS Thành nhận xét.
Ba lợi thế khác của Myanmar để có thể tiến hành cải cách thành công là dồi dào tài nguyên (khoáng sản, đất đai), tính tôn trọng pháp luật và lợi thế nước đi sau.
"Đang chậm phát triển mà nay lại mở tung cải cách, nên có sức bật lớn và khả năng thu hút sự chú ý của bên ngoài cũng lớn. Đó là chưa nói tới khả năng học những bài học cả thành công lẫn thất bại của những nước đi trước, như Việt Nam", TS Thành nói.
Theo giới quan sát quốc tế, việc quyết định đình chỉ dự án xây dựng đập Myitsone do phía Trung quốc tiến hành của chính quyền dân sự Myanmar cho thấy Myanmar đã cố gắng thoát khỏi Trung quốc sau hơn 20 năm chịu sự kiềm chế của nước láng giềng khổng lồ hơn một tỷ dân với quá nhiều tham vọng ở đất nước này.
"Gặp gỡ các đồng nghiệp Myanmar, họ luôn nói là họ còn khó khăn lắm, phải cố gắng nhiều, học hỏi nhiều. Tôi nói đùa rằng biết đâu 5 năm nữa Myanmar lại trở thành đối thủ cạnh tranh của Việt Nam", TS Thành kể.
Cũng có một người đã nói với người viết hệt như TS Võ Trí Thành nói với các đồng nghiệp Myanmar. Đó là doanh nhân Phạm Quang Vinh, Giám đốc Công ty Tư vấn Phạm & Cộng sự.
Có điều, ông Vinh không nói đùa, mà với một nỗi lo thật sự nghiêm túc.
Doanh nhân Vinh và mối lo về kẻ thách thức
"Tôi đi nhiều nơi, và trong thời gian gần đây chỉ nghe thế giới họ nói về Indonesia và Myanmar trong khu vực này", ông Vinh, người cung cấp dịch vụ tư vấn cho các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, than thở.
Theo ông Vinh, Việt Nam hiện đang đứng trước cái nguy cơ mà Thái Lan đã gặp phải cách đây một thập kỷ rưỡi, khi khủng hoảng tài chính châu Á xảy ra. Lúc đó, rất nhiều nhà đầu tư nước ngoài làm ăn ở Thái Lan đã hướng hết cặp mắt sang Việt Nam.
"Trước khủng hoảng kinh tế toàn cầu, kinh tế Việt Nam đi lên được là nhờ luồng tiền chạy từ ngoài vào. Còn trong vài năm vừa rồi luồng tiền lại chảy từ trong ra, nên muốn kinh tế phục hồi lại, việc thu hút lại nguồn tiền đổ vào là cực kỳ quan trọng" ông Vinh giải thích.
Người dân Myanmar đi bầu cử
"Tôi e rằng Myanmar sẽ không bỏ lỡ cơ hội, như Việt Nam đã từng bỏ lỡ hồi đó đâu. Họ sẽ là "The next Tiger" thực sự như ký giả tờ Diplomat vừa phân tích, điều mà giới đầu tư nước ngoài tưng kỳ vọng ở Việt Nam hồi 2007", ông Vinh khẳng định.
Và để chứng minh, ông Vinh đã đưa ra hai lập luận.
Thứ nhất, Myanmar có một nền tảng giáo dục rất tốt theo kiểu Anh, để xây dựng nguồn nhân lực cho phát triển và thu hút đầu tư nước ngoài. Những khách hàng người Malaysia kể với ông Vinh rằng trong giai đoạn 50-70 của thế kỷ trước nhiều bác sĩ, kỹ sư của Myanmar đã từng sang giúp Malaysia.
"Bản thân tôi có một số cuộc tiếp xúc với giới doanh nhân Myanmar, và có dịp nghe một số bộ trưởng của họ nói chuyện. Ngoài trình độ tiếng Anh lưu loát, tư duy của họ rất rõ ràng, theo kiểu phương Tây", ông Vinh nói.
Thứ hai, cách ứng xử của chính quyền quân sự trước đây của Myanmar, khi quản thúc bà suốt 15 năm, nhưng không giết, cũng như việc bà không đồng tình với cái kiểu "công lý trả thù" đối với họ, cũng được ông Vinh nhìn nhận dưới góc độ của văn minh ứng xử.
Quan trọng hơn nữa, theo ông Vinh, trong quá trình dân chủ hóa và hòa giải ở Myanmar hiện có một cái gì đó tương tự như cặp Nelson Mandela - Frederik Willem de Klerk trong quá trình xóa bỏ chế độ Apartie và hòa giải dân tộc vào cuối những năm '90 của thế kỷ trước ở Nam Phi.
"Qua những phát ngôn và hành động của mình, cả ông Thein Sein lẫn bà San Suu Kyi, theo tôi hiểu, đều nhận thức rằng đã đến lúc mọi nguồn lực của đất nước, sau hàng thập kỷ chia rẽ và đối đầu, phải được qui tụ lại để tạo sức bật cho phát triển, chứ không phải để sử dụng trong cuộc đấu tranh nội bộ", ông Vinh kết luận.
Nhà báo Lê Thọ Bình có kể lại rằng, (cố) Thứ trưởng Ngoại giao Lê Mai, khi được hỏi về những nhà lãnh đạo quốc tế mà ông có dịp tiếp xúc, đã nói rằng ông kính nể nhất cựu Tổng thống Nam Phi Frederic Willem de Klerk.
"Giữ được quyền lực đã là người rất giỏi rồi. Nhưng dám từ bỏ quyền lực, vì một lợi ích lớn hơn của toàn xã hội, thì phải xếp vào hàng vĩ nhân", ông Lê Mai nói.
Theo đánh giá của giới phân tích quốc tế, trong cuộc tổng tuyển cử 5 năm tới Đảng Liên đoàn Quốc gia vì Dân chủ bà San Suu Kyi sẽ thách thức quyền lực của Đảng Đoàn kết Phát triển Liên bang của Tổng thống Thein Sein, hiện chiếm đa số ghế trong Quốc hội.

Vietship 6 và di sản đáng giá nhất của Phạm Thanh Bình

"Chỉ có một biển mẹ, và đó là một yêu cầu tối thượng, vì kinh doanh biển cực kỳ đắt. Thế mà nguồn lực vốn đã quá hạn hẹp của chúng ta đã và đang bị chia năm, xẻ bảy" - kỹ sư Đỗ Thái Bình.
LTS: Tuần trước, tại Hà Nội đã diễn ra một sự kiện quan trọng, nhưng lại ít thu hút sự quan tâm của giới truyền thông - đó là triển lãm về ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam lần thứ 6 do Vinashin tổ chức (Vietship 6).
Điểm khác biệt rõ ràng nhất của Vietship 6 so với Vietship 5 (2010), theo quan sát của người viết, là địa điểm tổ chức triển lãm. Thay vì chọn địa điểm hoành tráng tại Trung tâm Hội nghị Quốc gia Mỹ Đình, ban tổ chức đã chọn một địa điểm khiêm nhường hơn là Trung tâm Triển lãm Giảng võ. Đang trong quá trình tái cơ cấu, cũng như đau đầu với chuyện "nợ đòi, con khóc", rõ ràng Vinashin đã có một quyết định hợp thời.
Điểm khác biệt thứ hai là hai nhân vật chính của Vietship 5, và trong bài viết "Hai gương mặt, hai cách nhìn" trên Sài Gòn Tiếp Thị sau sự kiện đó, là Chủ tịch Phạm Thanh Bình và Giám đốc Đầu tư Lê Lộc, vì những lý do khác nhau, đều đã rời con tàu Vinashin.
May thay, người viết vẫn còn gặp lại nhân vật thứ ba trong bài viết đó - kỹ sư Đỗ Thái Bình - một nhà cung cấp cho Vinashin, và cũng là nhà nghiên cứu độc lập về ngành công nghiệp đóng tàu Việt Nam trong suốt chiều dài lịch sử phát triển của nó.
Và kỹ sư Đỗ Thái Bình đã giúp người viết phát hiện nốt những khác biệt còn lại.

Vietship 5 - 2010: Do khủng hoảng kinh tế toàn cầu, các hợp đồng đóng mới tàu biển trong năm 2009 giảm mạnh. Hơn nữa, trong số những hợp đồng đã ký trước đó có khoảng 17% bị huỷ, tuy có ít hơn so với Hàn Quốc và Trung Quốc (khoảng 20%). Theo ông Lê Lộc, Tổng Giám đốc Đầu tư, Vinashin cũng kịp thu lợi không ít từ những hợp đồng bị huỷ này. "Chúng tôi vẫn tiếp tục đóng xong một số tàu bị huỷ hợp đồng giữa chừng, và bán lại", ông Lộc nói...
Ông Lộc khẳng định với các đối tác nước ngoài trong hội thảo rằng Nhà nước đã xác định sẽ hỗ trợ tín dụng cho Vinashin với số tiền khoảng 20 ngàn tỉ đồng, tương đương với hơn 1 tỉ USD. "Ngoài khoản hỗ trợ trực tiếp, Chính phủ còn đứng ra bảo lãnh cho chúng tôi vay tín dụng từ các tổ chức tài chính quốc tế, và việc thương lượng đang được tiến hành", ông Lộc nói.
Còn một nguồn hỗ trợ nữa từ Chính phủ, theo ông Lộc, không trực tiếp nhưng lại có hiệu quả cao. Đó là Chính phủ cấp tín dụng cho các doanh nghiệp nhà nước khác đặt hàng nhằm duy trì việc làm và giúp Vinashin đứng vững trong thời điểm cực kỳ khó khăn này. Ông Lộc nêu ra các ví dụ về 40 con tàu được đặt hàng cho Vinalines, hay kho chứa dầu ngoài khơi FSO-05 cho Petro Vietnam.
(Nguồn: Sài Gòn Tiếp Thị - 19.3.2010)
Việc tiếp tục đầu tư đóng những con tàu bị hủy hợp đồng mà ông Lê Lộc đã "khoe" như một khoản lợi của Vinashin sau này đã được các cơ quan chức năng liên quan kết luận là nguyên nhân trực tiếp và quan trọng đẩy Vinashin lấn sâu vào nợ nần, vì tàu đóng xong không tìm được đầu ra.
Ông thấy hội thảo lần này khác gì so với hội thảo tại Vietship 5?
Tại hội thảo lần trước, Vinashin có trình bày về chiến lược, tuy rất mơ hồ và viển vông. Nhưng lần này, cả 5 diễn giả đều là người nước ngoài.
Người khai màn là đại diện của công ty đăng kiểm DNV (Det Norske Veritas), vào Việt Nam theo dự án tàu 53 ngàn DWT (tấn trọng tải) - được coi là bước ngoặt của Vinashin chuyển sang đóng tàu trọng tải lớn, để rồi từ đó mở rộng đầu tư một cách ồ ạt và lún sâu vào nợ nần.
Đại diện DNV đã đưa ra một kết luận muôn thủa của lý luận đóng tàu là "cung luôn vượt hơn cầu, và các xưởng đóng tàu đầy rẫy trên thế giới đang cạnh tranh nhau về công việc". Chứ ở lần trước, khi Vinashin trình bày kế hoạch mở chuỗi xưởng đóng tàu ra khắp cả dải bờ biển của Việt Nam, không vị khách nước ngoài nào lên tiếng phản biện cả.
Nhưng điểm khác biệt lớn nhất là sự xuất hiện lần đầu tiên của các nhà thiết kế nước ngoài, qua sau sáu kỳ Vietship. Bởi, trước đây, chính sách của các nhà đóng tàu Việt Nam là bỏ mặc việc đào tạo nguồn nhân lực thiết kế.
Đại diện của Công ty Knud E Hansen (Đan Mạch) và đại diện một công ty của Hàn Quốc đều kết luận rằng xu hướng mới của vận tải biển là công nghệ xanh.
Di sản đáng giá nhất mà ông Phạm Thanh Bình để lại cho Vinashin - Công ty Thiết kế tàu thủy của Phạm Bình Minh
Tức là công nghệ mình đang dùng và những tàu đang đóng dở mà không có chủ là đâm vào ngõ cụt? Đúng vậy.
Ở phần Q&A, ông thấy điều gì đáng chú ý nhất?
Thú vị nhất là câu hỏi của đại diện Công ty Bến Kiền với đại diện của Huyndai - Vinashin về kinh nghiệm dùng IT để quản lý. Hoá ra, đại diện Bến Kiền đã lộ ra rằng xưa nay họ không hề sử dụng IT trong công tác quản lý.
Ông tin là như vậy?
Tôi là nhà cung ứng nên cũng hay đến các nhà máy đóng tàu ở Việt Nam, nhất là những nhà máy thuộc Vinashin.
Anh cứ đến mấy nhà máy đóng tàu mà xem, họ sẽ chỉ cho anh xem mấy cái máy tính đời mới có mấy hình cắt bổ kiểu 3D. Thế nhưng, cả bộ máy quản lý ở đó và cả mấy cái hình 3D đó, có cung cấp đầy đủ thông tin lên bàn giám đốc về tình hình cung ứng, công nghệ rồi sản xuất hay không mới quan trọng. Đó mới là quản lý bằng IT.
Ở các nước khác, bộ phận công nghệ phải là bộ phận chuẩn bị hết mọi thứ để lãnh đạo ra quyết định đầu tư - sản xuất, nhưng ở Việt Nam điều này còn lạ lẫm lắm, và bộ phận mua hàng, bộ phận thiết kế, và bộ phận tài chính hầu như ít liên quan đến nhau.
Bây giờ có đủ phần mềm, có đường Internet băng thông rộng, có iPad, máy tính xách tay, rồi máy ảnh số, camera theo dõi... Thiết bị hiện đại nào cũng có hết, nhưng họ không sử dụng vào quản lý.
Ví dụ, hôm nay phải làm hàng chục hạng mục trong một con tàu, giám đốc không cần đi xuống phân xưởng, chỉ cần theo dõi qua màn hình máy tính để theo dõi, kiểm tra.  Giám đốc chỉ cần họp kiểu tele-conferencing bất kỳ lúc nào là có thể nhìn thấy đường đi của các con tàu, công nợ hiện nay thế nào...
Anh có biết là cuối năm ngoái có một hội thảo về phát triển ngành đóng tàu do Vinashin tổ chức không? Ông Trương Văn Tuyến, Tổng Giám đốc Vinashin, báo cáo một thành tích quan trọng là "nhờ có định mức kinh tế kỹ thuật mà chúng tôi đã có thể quản lý được một phần chi tiêu tài chính". Ồ, thế hoá ra bao năm nay, họ đóng bao nhiêu tàu mà không hề có định mức kinh tế kỹ thuật à?
Ví dụ, trước đây một nhà máy kêu cần mấy trăm tỷ cho một dự án đóng tàu nào đó và trả lương công nhân là có ngay. Cái đó các cụ gọi là "bệnh nhân khai - thầy bốc thuốc". Đến bây giờ quản lý chặt hơn, nhà máy đó cần mấy trăm tỷ đồng thì phải thuyết minh rõ đến giai đoạn này, giai đoạn kia, cần một định mức là bao nhiêu tấn thép, tính ra bao nhiêu công để trả lương... Phải có bảng tính đó ở trên họ mới chi tiền.
Tôi có đến các ban kỹ thuật, và thấy bây giờ họ mới bắt đầu xây định mức.
Ý ông nói là các thiết bị IT hiện đại họ mua về chỉ để làm trang sức thôi?
Còn gì nữa. Đáng lẽ ra đã có máy tính thì phải có định mức, vì đã vẽ được thì cũng phải cân được bao nhiêu thép rồi. Phòng kế hoạch, phòng vật tư, phòng công nghệ và phòng tài chính chẳng có liên quan gì với nhau, mạnh ông nào ông ấy làm.
Kỹ sư Đỗ Thái Bình
Xin được hỏi là ông theo dõi quá trình tái cấu trúc Vinashin có thấy những chuyển biến gì khác nữa không, ngoài câu chuyện định mức kinh tế - kỹ thuật? Đối với tôi, cái khác biệt lớn nhất là người ta thực sự thấy "sợ" hơn, và bắt đầu quan tâm đến quản lý nhiều hơn.
Chứ còn cái thay đổi quan trọng nhất để có thể xây dựng một ngành công nghiệp đóng tàu thực sự, như các nước đi trước vẫn làm, là liên kết các ngành đóng tàu khác nhau ở trong nước, như của Vinashin, của dầu khí, hay của công nghiệp quốc phòng trong một sân chơi chung. Chứ ở Việt Nam không ông nào biết ông nào.
Ông có nói quá không đấy?
Cứ dạo một vòng quanh khu triển lãm là thấy rõ. Chẳng hạn, PV Shipyard (thuộc Petro Vietnam) là một thương hiệu nổi tiếng, vừa đóng giàn khoan Tam Đảo, lại không có mặt. Ngược lại, tháng 12.2011, PV Shipyard tham gia triển lãm hàng hải và Vinashin cũng không có mặt.
Hay PV Shipyard ngại dính dáng đến cái tên Vinashin?
Cũng không hẳn. Hầu như tất cả những chuyên gia giỏi của Vinashin đã chạy sang PV Shipyard của Phan Tử Giang hết rồi. Sắp tới, Phan Tử Giang sẽ cho làm giàn chìm nữa.
Trong triển lãm Vietship có thấy trưng bày cả động cơ tàu chiến nữa? Họ muốn bán cho ngành đóng tàu chiến của mình?
Đúng rồi. Nhưng rất tiếc lại ngành đóng tàu chiến lại cũng không tham gia vào cuộc triển lãm này. Ngày thứ hai của Vietship 6, nhiều sĩ quan hải quân và biên phòng đã tới thăm gian hàng của nhà cung cấp động cơ diesel  hàng đầu MTU, động cơ của các tàu tuần tra, tàu corvette mà chúng ta đang quan tâm.
Hay là do vấn đề bí mật quân sự mà các nhà máy đóng tàu quân sự không tham gia? Hoàn toàn không. Mấy xưởng đóng tàu này đã công khai hết rồi, như xưởng Hồng Hà đóng tàu pháo, hay xưởng 189, bởi vì họ đóng cả tàu dân dụng nữa.
Cái mà ngày xưa Nguyễn Mạnh Tuấn đã viết, và bây giờ cánh nhà báo các anh hay nói, chính là "đứng trước biển". Đó là chuyện nguy hiểm nhất.
Chỉ có một biển mẹ, một yêu cầu tối thượng, vì kinh doanh biển cực kỳ đắt. Thế mà nguồn lực vốn đã quá hạn hẹp của chúng ta đã và đang bị chia năm, xẻ bảy.
Giả sử, một người am hiểu về biển và ngành đóng tàu, không chỉ của Việt Nam, như ông, được mời tư vấn thì ông sẽ làm gì?
Về công nghệ đóng tàu, nếu tôi được mời tư vấn, việc đầu tiên tôi sẽ làm là thống kê lại toàn bộ năng lực của Vinashin hiện nay, cũng như ngành đóng tàu quân sự, ngành đóng tàu của dầu khí, và điều chuyển để chỉ có một ngành đóng tàu.
Tại sao? Chẳng phải Vinashin đã nguy khốn vì câu chuyện sáp nhập quá nhanh mà trình độ quản lý thì lại không theo kịp đó thôi?
Ý tôi không phải vậy. Anh có biết trong công nghệ đóng tàu bây giờ thiếu nhất gì không? Một việc rất đơn giản mà xưởng đóng tàu nào cũng phải làm, làm theo kiểu cò con, là uốn ống. Trên mỗi con tàu cần vài ki lô mét đường ống, để dẫn dầu, dẫn nước, dẫn điện, dẫn khí đốt đến các buồng...
Ý ông nói là tại sao không tập trung vào một nhà máy uốn ống?
Đúng vậy. Ví dụ ở Quảng Châu, Nhà máy đóng tàu Bạch Hạc Đồng có một  phân xưởng uốn ống khủng khiếp, dài 300m và rộng 40m. Trong đó, nó nhập máy uốn ống điều khiển bằng điện tử của Mỹ, là loại công nghệ hàng đầu thế giới. Nó cung cấp ống cho khắp nơi, vì ống không phải chỉ dành cho ngành đóng tàu, mà cả các nhà máy sản xuất nồi hơi.
Còn ở Việt Nam, đâu đâu cũng uốn ống. Nếu anh đến thăm Nhà máy Đóng Tàu Sông Cấm thì anh sẽ thấy họ uốn ống bằng công nghệ hạng bét của Trung Quốc, ngay ở Trung Quốc cũng chẳng còn dùng nữa. Có xưởng còn mua cả phần mềm uốn ống của Trung Quốc mới dở hơi.
Trong khi đó, Nhà máy Bạch Đằng chơi sang hơn, mua của Pháp rất đắt tiền, nhưng phần điều khiển bằng điện tử bị chết, do trình độ thợ điều khiển hạn chế, nên lại quay sang điều khiển bằng tay.
Bây giờ việc cần làm ngay là phải tập hợp lại toàn bộ những thiết bị uốn ống đó về một chỗ, cải thiện, nâng cấp lên cho đồng bộ, và uốn ống cho cả toàn ngành đóng tàu dùng. Lâu nay, chúng ta quên mất khái niệm hợp tác trong nghề khai thác biển ở Việt Nam.
Trong khi đó, anh thấy những nhà cung cấp nước ngoài vào đây đều đi theo nhóm cả. Trung Quốc cụm lại hành nhóm, còn Hà Lan có Hội Sở tại Việt Nam, và tại triển lãm họ tổ chức một khu riêng.
Ghe bầu đâu? Ghe nang đâu? Con người tấn công biển Lý Sơn đâu? Chứ thuyền buồm đâu phải là truyền thống của VN
Ông có nhận xét gì về lần này triển lãm này?
Hoàn toàn thiếu tính dân tộc. Tôi đã nói điều này từ Vietship 1, và tại Vietship 6 tôi buộc phải nhắc lại điều này. Không phải chỉ có chèo thuyền, rồi trống đồng mới là truyền thống đâu nhé. Ghe bầu đâu? Ghe nang đâu? Con người tấn công biển Lý Sơn đâu? Không hề có hình ảnh! Đấy là cái buồn nhất.
Thế rồi bao nhiêu công lao trong chiến tranh đóng tàu không số cũng chẳng thấy đâu. Cho dù nó bé tí tẹo, nhưng là xương máu, trí não, để từ đó Việt Nam mới nghĩ đến công nghiệp đóng tàu. Bây giờ tôi hỏi con đường Ngô Văn Năm trong Sài Gòn là tên vị anh hùng nào trong quá khứ, tôi cá là hầu hết đám trẻ đều không biết là ai. Đó chính là lãnh đạo ngành đóng tàu đầu tiên của nước Việt Nam độc lập, người chỉ huy thiết kế tàu không số, xuất thân từ người thợ Ba Son anh hùng.
Trong triển lãm, tôi có thấy một gian của một công ty thiết kế thuộc Vinashin ?
Đó chính là một điểm son của triển lãm, mặc dù đó không phải là sự chủ động. Giám đốc công ty này là con trai của cựu chủ tịch Phạm Thanh Bình có tên là Phạm Bình Minh.Anh ta được gia đình cho đi học đóng tàu tại Úc, thực tập tại Hyundai, trước khi về đây và còn được đặt vào vị trí Viện phó Viện Thiết kế tàu ở 84 Trần Hưng Đạo Hà nội
Hình như cũng nghe lùm xùm nhiều về chuyện này?
Đúng thế. Ở viện này người ta phản đối rất mạnh, vì vì ở đó toàn cỡ "cây đa, cây đề" cả, cỡ tuổi tôi, hoặc kém một tí, và bảng thành tích là ở thời đánh Mỹ cũng vẽ đã thiết kế được cái này, cái nọ. Tự nhiên, một "ông con trời" nhảy dù xuống cái ghế lãnh đạo.
Nhưng tôi lại thấy sự hợp lý trong câu chuyện này. Vì trong kỷ nguyên mới này, Tây vào và lôi bản vẽ ra thảo luận, mấy "cây đa, cây đề" chịu không tham gia trực tiếp được, chí ít là về mặt ngôn ngữ.
Phạm Bình Minh trao đổi được với Tây ngon lành bằng tiếng Anh, anh ta lại sử dụng máy tính và phần mềm thiết kế cũng rất ngon lành.
Thứ nữa, Phạm Bình Minh đã đưa tư tưởng phương Tây về tổ chức phòng thiết kế, chứ không theo lối tư duy của mấy ông học Nga, học Ba Lan, hay thậm chí học trong nước. Rồi, cũng do tư duy mới kiểu phương Tây, Phạm Bình Minh tập hợp được một đội ngũ kỹ sư chuyên gia trẻ xung quanh. Và, cuối cùng, đứng đằng sau Phạm Bình Minh là những chuyên gia thiết kế phương Tây.
Theo tôi, việc cựu Chủ tịch Phạm Thanh Bình lập ra cái công ty thiết kế tàu và bổ nhiệm con trai làm giám đốc là một quyết định sáng suốt nhất, nếu không nói là duy nhất, trong suốt thời gian trị vì Vinashin của ông ta.
Và, quan trọng nhất, chắc Phạm Bình Minh hẳn phải rút kinh nghiệm để không đi vào "vết xe đổ" của người cha. Bởi thiết kế tàu cho tới nay là do Tây thiết kế, sang đây chỉ triển khai thôi. Chứ vấn đề sáng tạo thiết kế từ đầu thì phải học và rèn luyện trong thực tế.