Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Chuyến đi của Đại sứ Hanford


Ngày 23.08.2006, 10:51 (GMT+7)
Chuyến đi của Đại sứ Hanford
Dự luật PNTR với Việt Nam chưa được đưa vào chương trình nghị sự của lưỡng viện để bàn và bỏ phiếu đã tạo một sức ép nhất định cho các chính trị gia và nhà hoạch định chính sách của Mỹ, những người đang muốn "chơi" con bài PNTR trong quan hệ với Việt Nam. Một trong những hệ quả đó là việc xử lý một vấn đề vẫn đang nổi cộm trong quan hệ hai nước - Việt Nam bị liệt vào danh sách các nước "cần quan tâm đặc biệt về tự do tôn giáo" (CPC).
Về phía mình, những bước đi của Việt Nam trong thời gian qua về vấn đề này đã được nhiều tổ chức, cá nhân đánh giá cao. Năm ngoái, khi công bố bản Báo cáo về tình hình tự do tôn giáo quốc tế của Bộ Ngoại giao Mỹ, Ngoại trưởng Condoleezza  Rice và Đại sứ Hanford đã có những đánh giá tích cực về Việt Nam cả về khuôn khổ luật pháp, chính sách và những tiến triển thực tiễn liên quan đến vấn đề tự do tôn giáo kể từ khi có các văn bản pháp qui mới ra đời. Bản thân bản Báo cáo cũng dành hẳn một khổ để nói về những "tiến bộ có ý nghĩa" của Việt Nam.
Chuyến thăm Việt Nam vào tuần trước của Đại sứ lưu động về tự do tôn giáo quốc tế Hoa Kỳ John Hanford được các chuyên gia về chính trị quốc tế nhìn nhận như một dấu hiệu khá rõ ràng về khả năng Mỹ sẽ xem xét rút Việt Nam khỏi cái danh sách này. Đại sứ Hanford là người có tiếng nói rất có trọng lượng trong những khuyến nghị của Bộ Ngoại giao Mỹ liên quan đến tôn giáo trong bản báo cáo thường niên của Bộ này.
Những nhân vật mà Đại sứ Hanford đã tiếp xúc như Phó Thủ tướng kiêm Bộ truởng Ngoại giao Phạm Gia Khiêm, Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng, Thứ trưởng Bộ Công an Nguyễn Văn Hưởng, Trưởng ban Tôn giáo Ngô Yên Thi, Chủ nhiệm Uỷ ban Dân tộc Ksor Phước, hay lãnh đạo Hội Thánh Tin Lành cả hai miền, cùng một số mục sư Tin lành khác, trong đó có cả đại diện một số chi hội mới được đăng ký … đã gián tiếp nói lên tầm quan trọng đặc biệt của chuyến đi này và những vấn đề mà phía Mỹ quan tâm.
Theo một nguồn thạo tin, lần này Đại sứ John Hanford "đánh giá tích cực những tiến triển của tình hình tôn giáo ở Việt Nam", đặc biệt là khu vực Tây Nguyên, và nhấn mạnh việc hai bên tiếp tục đối thoại trong vấn đề này cũng như các lĩnh vực hợp tác khác nhằm tăng cường hơn nữa quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam. Ông Hanford, tuy nhiên, cũng yêu cầu phía Việt Nam tiếp tục cải thiện tình hình này ở khu vực Tây Bắc, nhất là ứng xử của các quan chức cấp địa phương đối với những vấn đề liên quan đến tôn giáo.
Nhiều nhà phân tích của Mỹ cho rằng, việc đặt Việt Nam vào danh sách này đã gây nhiều phản cảm về "sự công bằng" trong quyết định của Mỹ khi so sánh Việt Nam với nhiều nước khác, trong đó có cả một số đồng minh của Mỹ; nhiều người cũng cho rằng lịch sử quan hệ giữa hai nước, lợi ích chiến lược của Mỹ là những yếu tố phải tính đến cũng như gánh nặng tài chính khi phải theo đuổi vấn đề.
Phải chăng chúng ta đã có thêm cơ sở để tin tưởng vào tương lai quan hệ Việt-Mỹ?
Huỳnh Phan  - Vũ Bình

Nguyên nhân & hệ luỵ


Ngày 16.08.2006, 11:03 (GMT+7)
Thất bại Doha
Nguyên nhân & hệ luỵ
Vòng đàm phán Doha đã thất bại!
Tổng giám đốc Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) Pascal Lamy cay đắng thốt lên: “Không có kẻ lợi người thiệt,... chỉ có những kẻ chiến bại!”. Trước đó, tại Hội nghị thượng đỉnh G-8 ở Saint Petersburg, tổng giám đốc WTO Pascal Lamy đã cảnh báo về khả năng sụp đổ nếu các nước phát triển không tiến hành những bước đi cụ thể.
Pascal Lamy (trái): “Không có kẻ lợi người thiệt,... chỉ có những kẻ chiến bại!”
Trớ trêu thay, những bước đi cụ thể của các nước phát triển này là “buộc tội nhau về sự thất bại”. Chính phủ Mỹ kiên quyết không giảm mạnh trợ cấp nông nghiệp, trừ phi EU giảm thuế đối với sản phẩm nông nghiệp nhập khẩu, còn EU lại yêu cầu Mỹ phải hành động trước. Điều duy nhất mà họ có thể chia sẻ quan điểm với nhau là việc chỉ trích các nước đang phát triển đã không có nhân nhượng đúng mức, bằng việc tiếp tục mở cửa thị thường đối với hàng công nghiệp của họ.
Theo các nhà phân tích quốc tế nổi tiếng, nguyên nhân chính của sự sụp đổ của vòng đàm phán là vấn đề các nền kinh tế phát triển chưa chấp nhận sự từng bước tháo bỏ các trợ cấp cho ngành nông nghiệp của họ và tháo dỡ các hạn chế thương mại của chính họ, như đã hứa, nhằm thúc đẩy thương mại đa phương, nhất là với các nước đang phát triển. Còn theo nhà kinh tế Stiglitz, người đoạt giải Nobel năm 2001, “thất bại đó có nguyên nhân trực tiếp là chính sách đơn phương, coi thường sự đa nguyên và dân chủ toàn cầu của Mỹ”.
“Những vấn đề nội bộ” của các nước lớn
Thủ tướng Tony Blair của Anh đang đứng trước một cuộc khủng hoảng nội bộ trầm trọng, trong khi Tổng thống Pháp Jacques Chirac vừa mới trải qua một cơn “ác mộng” vì các cuộc biểu tình chống cải cách và mở cửa thị trường, và những nước phát triển khác như Nhật luôn có "vấn đề" lớn đối với việc trợ giá, trợ cấp nông sản.
Đối với Mỹ, cuộc bầu cử vào tháng 11 đang đến gần với những bất lợi ngày càng tăng về uy tín chính trị đối với Đảng Cộng hoà cầm quyền (cả ở ngành hành pháp lẫn lập pháp). Trong bối cảnh đó, những lời hứa khi phát động Vòng Đàm phán Doha đã không còn bao nhiêu gam trọng lượng, và, không phải lợi ích quốc gia của nước Mỹ, mà chính những lá phiếu mới là điều các chính trị gia Mỹ quan tâm nhất hiện nay.
Nhà kinh tế Joseph Stiglitz đã đưa ra những con số rất cụ thể: “Cho dù có muốn cứu vãn vòng đàm phán Doha, Tổng thống Mỹ cũng không thể “hy sinh” 25 nghìn cử tri trong ngành bông, khoảng 10 nghìn nông dân trồng lúa và những người Mỹ liên quan khác, khi cuộc bầu cử đang đến gần”.
“(Lợi ích) chính trị đã lấn át sự khôn ngoan”, tờ Washington Post đã bình luận như vậy.
Trong xu thế thúc đẩy thương mại toàn cầu hiện nay, vòng đàm phán phát triển Doha lẽ ra đã có thể là một chiếc chìa khoá vàng giúp các nước nghèo đẩy mạnh các chương trình phát triển và xoá bỏ nghèo nàn, lạc hậu và là một bước đi “cùng có lợi” (win-win) cho các nước “phương Nam” cũng như các nước “phương Bắc” của địa cầu.
Cũng theo tờ Washington Post, sau sự kiện 11.9 (2001), Mỹ và các nước đồng minh đã quyết tâm khởi xướng vòng Doha để giảm các rào cản và thúc đẩy thương mại, nhằm mang lại sự thịnh vượng cho các nước đang phát triển, và, nhờ đó, chống chủ nghĩa khủng bố từ gốc. Nhưng vì những lợi ích chính trị nội bộ, họ đã sẵn sàng “lờ” đi cái mục đích “cao cả” khi khởi xướng nó, cũng như những điều đã hứa khi lôi kéo các nước đang phát triển trong Tổ chức Thương mại thế giới tham gia vào “cuộc chạy marathon” này.
Những phân tích trên có thể “vận” vào cuộc vận động Quốc hội Mỹ thông qua Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam, để hình dung một cách rõ ràng hơn, tại sao với lợi ích so sánh tương đối lớn về kinh tế và thương mại trong quan hệ với Việt Nam làm nền tảng, một triển vọng phát triển mới trong quan hệ hợp tác có tính tới yếu tố địa chính trị, một sự ủng hộ mạnh mẽ của nhiều tầng lớp trong xã hội Mỹ từ chính khách, giới doanh nghiệp, cựu binh..., và kể cả dư luận, mà dự luật này vẫn chưa được đưa ra xem xét thậm chí ở cấp uỷ ban tại Hạ viện?
Với việc Mỹ “nhỡ nhịp” vào tháng 8 vừa rồi với PNTR, nhất là khi tác động của cuộc bầu cử còn chưa lớn, rõ ràng sức ép lên những nỗ lực của Việt Nam quả là lớn hơn chúng ta vẫn tưởng tượng rất nhiều!
Huỳnh Phan - Vũ Bình

Những con chủ bài đã lật...


Ngày 09.08.2006, 10:52 (GMT+7)
PNTR cho Việt Nam
Những con chủ bài đã lật...
Mặc dù đã có nhiều ý kiến, trong đó có cả Sài Gòn Tiếp Thị, lo ngại rằng Việt Nam sẽ gia nhập WTO mà không có PNTR trong một khoảng thời gian nào đó, nhưng với việc Uỷ ban Tài chính Thượng viện đã thông qua dự luật thực thi Hiệp định Tự do thương mại với Peru, đặc biệt là cách thông qua dự luật này, và dự luật PNTR với Việt Nam, đã mở ra những hy vọng là Việt Nam vẫn có thể được trao PNTR trước đầu năm sau.
Lý do để hy vọng là "những con chủ bài" đã được lật ra!
Dân biểu Bill Thomas, người nổi tiếng với những "thủ thuật" buộc Quốc hội phải thông qua ngay cả những dự luật gây tranh cãi nhất, có những trường hợp với sự chênh lệch phiếu rất sít sao
"Quyết tâm chính trị" của Tổng thống Bush?
Nếu không có "sự cố Trung Đông" và bà Ngoại trưởng Condoleezza Rice không phải hoãn chuyến đi châu Á, trong đó có Việt Nam, chắc chắn phía Việt Nam có thể hiểu được quan điểm của Tổng thống mạnh đến đâu về vấn đề này thông qua cuộc gặp với bà Rice. Ngược lại, việc trao đổi, tăng cường hiểu biết và khả năng hợp tác trong những vấn đề quốc tế, khu vực và song phương có thể thúc đẩy thêm "quyết tâm chính trị" của Tổng thống Bush, trước khi ông đến Việt Nam dự APEC và thăm song phương vào giữa tháng 11 tới.
Các chuyên gia về Mỹ đều có chung một nhận định rằng kỳ nghỉ tháng 8 này của Quốc hội là dịp rất quan trọng để các nhóm tập đoàn, công ty có lợi ích về thương mại và đầu tư ở Việt Nam, cũng như những người ủng hộ bình thường hoá hoàn toàn với Việt Nam, tập trung vận động Tổng thống Bush để biến lợi ích kinh tế thành quyết tâm chính trị. Một khi Tổng thống Bush thực sự "muốn", người ta tin rằng dự luật PNTR vẫn có thể kịp thông qua tại Hạ viện, mặc dù có sự hạn chế về thời gian, bởi ông Chủ tịch Uỷ ban Tài chính Hạ viện vốn nổi tiếng là người có thể "đẩy" được những dự luật theo "ý muốn" của Tổng thống qua ngưỡng cửa Quốc hội.
"Quái kiệt" Bill Thomas
Bill Thomas là người nổi tiếng với những "thủ thuật" buộc Quốc hội phải thông qua ngay cả những dự luật gây tranh cãi nhất, có những trường hợp với sự chênh lệch phiếu rất sít sao. Những thủ thuật "ép hạ" của Bill Thomas, mặc dù được đánh giá là ở trình độ "quái kiệt", nhưng ngày càng gây ra sự khó chịu của các nghị sĩ Dân chủ đối lập, và họ thậm chí đã lên tiếng đòi "phế truất" đến mức đầu tháng 3 vừa rồi ông này phải tuyên bố không tham gia vận động tái cử nữa để giải toả sức ép.
Những "quái chiêu" của ông này một lần nữa được thể hiện trong việc ép Uỷ ban Tài chính Hạ viện phải thông qua dự luật thực thi Hiệp định Tự do thương mại với Peru (PTPA) vào cuối tháng trước. Kết quả thông qua PTPA (với tỷ lệ 12-7) đã cho thấy "người bảo trợ" cho PNTR là Max Baucus, nhân vật số hai tại Uỷ ban Tài chính Thượng viện, đã buộc phải thoả hiệp với "người đỡ đầu" cho PTPA là Bill Thomas. Trong số hai Thượng nghị sĩ Dân chủ duy nhất bỏ phiếu thông qua PTPA (7 Thượng nghị sĩ Dân chủ còn lại bỏ phiếu chống) có Thượng nghị sĩ Max Baucus, mặc dù trong phiên điều trần cách đó hai tháng ông này đã phản đối kịch liệt việc thông qua dự luật này với 4 lý do mà Sài Gòn Tiếp Thị đã từng nêu (PNTR: Đợi đến đầu tháng 9).
Người ta vẫn hy vọng rằng với việc không tiếp tục ra tranh cử nhiệm kỳ tới, ông Bill Thomas chỉ còn cách sử dụng nốt những "bí chiêu" còn lại trong khoảng thời gian từ nay đến cuối năm, nếu muốn "thủ tín" với Thượng nghị sĩ Max Baucus, trước khi "rửa tay gác kiếm".
Người chọn luật chơi David Dreier
Một chuyên gia kỳ cựu về Quốc hội Mỹ của Bộ Ngoại giao đã nhận xét rằng trong thời điểm rất cần những lá phiếu ủng hộ của cử tri, các hạ nghị sĩ, trừ ở những bang có những tập đoàn công ty lớn và có nhiều lợi ích trong thương mại và đầu tư với Việt Nam, đều ngại tham gia vào việc bỏ phiếu thông qua PNTR. Có một cách nào đó để người ta vẫn có thể ủng hộ cho PNTR mà vẫn không mang tiếng là "phản bội" quyền lợi của cử tri họ, chẳng hạn như vấn đề việc làm? Câu trả lời là có, và người đóng vai trò quyết định trong việc "chọn luật chơi" chính là David Dreier, Chủ tịch Uỷ ban Quy tắc (UBQT) Hạ viện.
Trước mỗi cuộc bỏ phiếu, về nguyên tắc, ông này có quyền lựa chọn một trong hai cách: record -vote (có ghi và công bố trên website kết quả cụ thể ai ủng hộ, ai chống đối) và voice - vote (biểu quyết miệng). Đối với hình thức voice - vote, ông Chủ tịch Hạ viện (Hastert) sẽ hỏi "ai ủng hộ dự luật này?", những người ủng hộ (hy vọng là đa số) sẽ đồng thanh lên tiếng: "Yes!". Sau đó, ông ta lại hỏi "ai phản đối?", và những người chống lại (số này ít hơn nhiều) sẽ hô lên: "No!". Cuối cùng, ông Chủ tịch Hạ viện sẽ kết luận: "Đa số ủng hộ. Dự luật này được thông qua!". (Trong hình thức voice - vote này cần có sự "phối hợp" nhịp nhàng của nhà đài, khi chỉ "lia" ống kính về góc có những người ủng hộ mà không sợ mất cử tri, tức là những nghị sĩ đại diện cho những bang có các tập đoàn công ty đang làm ăn, hoặc chuẩn bị làm ăn với Việt Nam).
Cách đây 5 năm, khi tiến hành thủ tục thông qua Hiệp định Thương mại song phương với Việt Nam (BTA), Hạ viện Mỹ với chính ông Chủ tịch UBQT David Dreier đã chọn hình thức voice - vote. Lý do là vì ngay trước đó với tỷ lệ gần như áp đảo (410-1) họ đã thông qua một dự luật nhân quyền chống lại Việt Nam, và không có cớ gì lại thông qua một hiệp định làm ăn buôn bán với một nước có tình trạng nhân quyền "tồi tệ" như vậy (theo quan điểm của họ).
Huỳnh Phan - Vũ Bình

Song phương đều thiệt...


Ngày 02.08.2006, 09:14 (GMT+7)
Vào WTO mà không có PNTR
Song phương đều  thiệt...
Những diễn biến tích cực của phiên đàm phán đa phương cách đây nửa tháng tại Geneva cho thấy khả năng kết thúc vòng đàm phán này vào nửa sau tháng 9 là rất lạc quan, và việc Việt Nam được xét kết nạp vào tổ chức này vào phiên họp Đại hội đồng ngày 10-11.10 là hoàn toàn có thể
Nếu không có PNTR, các sản phẩm của ngành dệt may của Việt Nam, một ngành có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm và ổn định xã hội, sẽ vẫn bị ấn định bởi quy chế quota, và các tranh chấp thương mại song phương như vấn đề bán phá giá sẽ không được phân xử bởi một cơ chế khách quan hơn trong khuôn khổ quy định của WTO. Ảnh : Lê Quang Nhật
Trong một tiến triển khác, dự luật PNTR với Việt Nam cuối cùng đã được Uỷ ban Tài chính Thượng viện thông qua vào đầu tuần này với tỷ lệ tuyệt đối 18-0 trong số các thành viên có mặt, sau khi đã bị hoãn bỏ phiếu vào giữa tuần trước do không đủ số nghị sĩ cần thiết.
Với một thời gian ít ỏi sau kỳ nghỉ hè của các nghị sĩ, khoảng một tháng, và với mối quan tâm ngày càng ít đi, bởi các nghị sĩ, nhất là những người thuộc Hạ viện, nơi sẽ bầu mới lại 100% vào ngày 7.11 và cho đến nay vẫn chưa có động tĩnh gì với dự luật PNTR, nhiều khả năng VN sẽ gia nhập WTO mà không được Quốc hội Mỹ thông qua PNTR. Những "hệ luỵ" nào có thể, từ cả hai phía, của việc VN vào WTO mà chưa được Quốc hội Mỹ trao PNTR?
Có PNTR với VN, Mỹ được "lợi" đến đâu?
Trong mấy năm qua, kể từ khi BTA có hiệu lực, kim ngạch buôn bán giữa hai nước đã tăng mạnh, trong đó riêng năm 2005, xuất khẩu của Mỹ sang Việt Nam đã tăng 24%! Chẳng khó gì mà không nhận thấy rằng giá trị xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ của Mỹ với một nước đang phát triển cần nhập khẩu vốn và công nghệ như Việt Nam sẽ tiếp tục tăng, thậm chí có sự nhảy vọt, trong điều kiện ổn định lâu dài của quan hệ thương mại không phân biệt đối xử.
Mặt khác, là thị trường tiêu thụ lớn nhất thế giới, nước Mỹ hằng năm cần nhập khẩu nhiều mặt hàng với giá trị lớn, mà nước Mỹ không sản xuất hoặc không có lợi thế so sánh để sản xuất trong nước và các công ty của Mỹ có vị thế thuận lợi nhất để cung ứng các loại dịch vụ khác nhau cho các hoạt động nhập khẩu này.
Như vậy, khi kim ngạch thương mại hai chiều tăng (kể cả trong khi Mỹ vẫn nhập siêu), các công ty của Mỹ vẫn đều đều thu được lợi nhuận, các công dân Mỹ có thêm cơ hội về việc làm, nhất là ở những khu vực Mỹ có lợi thế so sánh, đặc biệt là các ngành dịch vụ. Đây là nguyên nhân chính tạo ra sự ủng hộ mạnh mẽ cho PNTR của các tập đoàn công nghiệp-thương mại, các đại công ty trong liên minh ủng hộ Việt Nam vào WTO với Hội đồng Thương mại Mỹ-Việt và Hội đồng Kinh doanh Mỹ-ASEAN làm nòng cốt.
Việc Việt Nam có quy chế PNTR còn là một bảo lãnh "chính trị-kinh tế" để các nhà buôn và các nhà đầu tư lớn, nhỏ của Mỹ yên tâm tiếp tục hoạt động của mình, nhất là khi cân nhắc tăng vốn đầu tư, mở rộng làm ăn, và chuyển giao công nghệ, tại thị trường Việt Nam mà đỡ lo những rủi ro khi quan hệ kinh tế-thương mại song phương vẫn có nguy cơ bị "đặt lại lên bàn cân" hằng năm.
Chưa có PNTR, Việt Nam "thiệt" đến đâu?
Trước hết, quy chế PNTR Mỹ dành cho một nước khác không phải là một hiệp định thương mại - kết quả của các cuộc đàm phán, thương lượng - mà là một quyết định chính trị của Chính phủ Mỹ (bao gồm cả Quốc hội và Chính quyền) về quan hệ của Mỹ đối với một nước khác. Trong quan hệ với Việt Nam, ngoài việc là một bước hoàn tất quá trình bình thường hoá quan hệ về mặt nhà nước giữa Mỹ và Việt Nam, việc luật hoá mối quan hệ thương mại bình thường vĩnh viễn giữa hai nước sẽ đánh dấu chấm hết cho "cách cư xử của thời kỳ chiến tranh lạnh" với việc áp dụng Điều khoản Jackson-Vanik. Trong bối cảnh có sự chống đối quyết liệt của các nhóm nhân quyền, dân chủ, hay tôn giáo, việc thông qua PNTR với Việt Nam sẽ khẳng định sự tiến bộ trong nhận thức chung của cả hai bên liên quan đến những vấn đề nói trên. Không vượt qua được rào cản "vừa mang màu sắc chính trị, vừa mang sắc thái tâm lý" này, quan hệ hợp tác trong những lĩnh vực khác được kỳ vọng giữa hai nước khó có thể triển khai mạnh được.
Nếu không có PNTR, các sản phẩm của ngành dệt may của Việt Nam, một ngành có ý nghĩa rất lớn trong việc tạo công ăn việc làm và ổn định xã hội, sẽ vẫn bị ấn định bởi quy chế quota, và các tranh chấp thương mại song phương như vấn đề bán phá giá sẽ không được phân xử bởi một cơ chế khách quan hơn trong khuôn khổ quy định của WTO. Hơn nữa, thiếu một quan hệ kinh tế - thương mại bình thường "hoàn toàn" với những lợi ích to lớn hơn của cả hai bên, nhất là của Mỹ, những hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam vào thị trường Mỹ vẫn có nguy cơ bị vấp phải nhiều rào cản thuế quan, hoặc phi thuế quan.
Nếu các nhà đầu tư Mỹ không cảm thấy yên tâm khi đầu tư mới, hay mở rộng đầu tư, ở Việt Nam khi chưa có PNTR, ngoài sự thiệt thòi của chính họ, Việt Nam cũng lỡ mất một cơ hội tiếp cận với nguồn vốn và công nghệ của một nền kinh tế thuộc loại hàng đầu thế giới trong quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của mình. Bản thân quá trình thu hút đầu tư từ những khu vực khác, nhất là Đông Bắc Á, EU, hay ASEAN, cũng gặp phải những khó khăn, bởi quyết định làm ăn lớn của các doanh nghiệp hướng tới xuất khẩu của họ luôn tính đến và hướng đến thị trường Mỹ - một thị trường được đánh giá là vẫn tiếp tục giữ vị thế lớn nhất và hấp dẫn nhất trong vài thập kỷ tới. Một hệ quả gián tiếp nữa là xuất khẩu của Việt Nam, sẽ khó có bước tăng trưởng nhảy vọt, bởi tỷ trọng xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài là khá cao.
Huỳnh Phan - Vũ Bình

PNTR: Đợi đến đầu tháng 9


Ngày 26.07.2006, 11:05 (GMT+7)
PNTR: Đợi đến đầu tháng 9
Hết tuần này, Hạ viện Hoa Kỳ đã bước vào kỳ nghỉ mà trong chương trình điều trần của Uỷ ban Tài chính và thuế vụ vẫn chưa có lịch cho việc xem xét Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam
Max Baucus, lại là người chống lại việc thông qua dự luật FTA với Peru trong phiên điều trần tại uỷ ban này vào ngày 29.6. Một trong những lập luận TNS bang Montana (đại diện cho các chủ trại nuôi bò) đưa ra để phản đối dự luật này là việc Peru vẫn cấm nhập thịt bò còn xương...Ảnh : TLCK 
Mặc dù Thượng viện sẽ bắt đầu kỳ nghỉ muộn hơn 1 tuần, và, theo lịch trình, ngày 26.7 dự luật PNTR được đưa ra bỏ phiếu ở Uỷ ban Tài chính Thượng viện, nhưng khả năng Thượng viện thông qua dự luật này trước kỳ nghỉ là khó xảy ra, bởi, trên thực tế, đối với những dự luật quan trọng luôn có sự "đảo mắt trông nhau" trong nghị trình lập pháp của hai viện này. Khả năng PNTR được Quốc hội Hoa Kỳ thông qua trước kỳ nghỉ tháng 8 như nhiều người vẫn hy vọng gần như không còn nữa. Trở ngại chính nằm ở đâu?
Tự do tôn giáo có phải là trở ngại chính?
Trả lời hãng tin Reuters về khả năng thông qua quy chế PNTR với Việt Nam, Chủ tịch Uỷ ban Tài chính Thượng viện Mỹ Charles Grassley nói: "Vẫn còn khả năng Thượng viện Hoa Kỳ sẽ bỏ phiếu trước kỳ nghỉ tháng 8, nhưng một số thượng nghị sĩ muốn trước hết, Việt Nam phải làm rõ những biện pháp dự định tiến hành nhằm cải thiện quyền tự do tôn giáo". Nhưng liệu đây có phải thực sự là cản trở chính?
Cũng chính Thượng nghị sĩ (TNS) Grassley đã bày tỏ rằng ông muốn uỷ ban của ông thông qua cả dự luật về Hiệp định Thương mại tự do với Peru, lẫn PNTR với Việt Nam trước kỳ nghỉ. Có thể thấy rằng ông này đồng quan điểm với Chủ tịch Uỷ ban Tài chính & thuế vụ Hạ viện Bill Thomas, người chủ xướng "phương án cả gói" đối với Oman (đã được cả hai viện thông qua trong bối cảnh tình hình căng thẳng ở Trung Đông hiện nay), Peru và Việt Nam. Đối với Peru, ngoài những lợi ích của Mỹ ở "khu vực sân sau" như SGTT đã nêu ra ở số trước (Việt Nam lại bị bắt làm con tin), diễn biến gần đây nhất trong cuộc bầu cử ở Mexico với việc "cánh tả" suýt thắng chắc càng khiến cho Đảng cầm quyền ở Hoa Kỳ "sốt ruột" hơn với việc thông qua hiệp định thương mại tự do này. Sau khi bỏ phiếu thông qua dự luật FTA với Peru tại Uỷ ban Tài chính & thuế vụ Hạ viện, Chủ tịch Uỷ ban Bill Thomas đã tuyên bố: "Peru là một đồng minh trung thành của Hoa Kỳ và là một nhà quán quân về dân chủ. Hiệp định này với Peru tượng trưng cho cam kết của Hoa Kỳ đối với một đồng minh quan trọng, và cũng là cam kết với tự do và dân chủ trong một khu vực mà những nguyên tắc đó đang bị xâm hại".
Trong khi đó, thủ lĩnh phái Dân chủ trong Uỷ ban Tài chính Thượng viện Max Baucus, lại là người chống lại việc thông qua dự luật FTA với Peru trong phiên điều trần tại uỷ ban này vào ngày 29.6. Những lập luận TNS bang Montana (đại diện cho các chủ trại nuôi bò) đưa ra để phản đối dự luật này là việc Peru vẫn cấm nhập thịt bò còn xương, việc hình sự hoá các tranh chấp thương mại làm ảnh hưởng đến các nhà đầu tư Mỹ, quan trọng hơn nữa là vấn đề lao động, và quan trọng nhất là việc xem xét lại "quyền đàm phán nhanh" của Tổng thống trong các hiệp định thương mại tự do, sẽ hết hạn vào giữa năm sau. "Chính phủ phải bắt đầu đánh giá được rằng uỷ ban này không coi quá trình tham vấn, điều trần và tranh luận trước khi bỏ phiếu chỉ dừng ở mức độ kiểm tra những thứ đã được sắp sẵn trong hộp", TNS Baucus nhận định. ("Quyền đàm phán nhanh" của Tổng thống không cho phép Quốc hội bổ sung, sửa đổi các điều trong dự luật, mà chỉ có quyền thông qua, hoặc không thông qua).
Mặc cả?
Chủ tịch Uỷ ban Tài chính Thượng viện Mỹ Charles Grassley
Dự luật PNTR với Việt Nam được giới thiệu chung tại cả hai viện cách đây đúng một tháng rưỡi, được đưa ra điều trần tại Uỷ ban Tài chính Thượng viện sau đó nửa tháng và ngày 26.7 được đưa ra bỏ phiếu thông qua(?), trong khi đó theo lịch trình công tác lập pháp của Uỷ ban Tài chính & thuế vụ Hạ viện, kết thúc vào cuối tuần này trước kỳ nghỉ, dự luật này không hề được đề cập đến. Ngược lại, tại Uỷ ban Tài chính Thượng viện, phải gần một tháng sau buổi điều trần, việc bỏ phiếu thông qua FTA với Peru mới được đưa vào lịch trình. Nếu Uỷ ban Tài chính Thượng viện, và sau đó là Thượng viện, thông qua dự luật FTA với Peru, việc hai viện sẽ thông qua dự luật PNTR với Việt Nam trước kỳ bầu cử vẫn là một khả năng hoàn toàn có thể. (Trước đó, các nghị sĩ bảo trợ cho PNTR tại Thượng viện như Baucus, hay Ramstad, đều yêu cầu tách riêng việc xem xét PNTR ra khỏi các hiệp định FTA, nhưng với những động thái vừa rồi, có thể nhận thấy rằng đã có một sự "thoả hiệp" với "giải pháp cả gói", sau khi cân nhắc lại các lợi ích).
Nếu thực tế xảy ra đúng với những suy luận trên, những người ủng hộ PNTR với Việt Nam lại phải tiếp tục trông chờ vào "cam kết trả nợ" của Uỷ ban Tài chính & thuế vụ Hạ viện, khi họ trở lại làm việc vào đầu tháng 9? Như vậy, "giải pháp cả gói" mà SGTT đã từng đặt ra trước đây có khả năng trở thành hiện thực sau những cuộc mặc cả, đổi chác của các chính khách thuộc hai viện của Quốc hội Mỹ.
Huỳnh Phan - Vũ Bình

Good Morning, Vietnam!


Ngày 23.07.2006, 10:03 (GMT+7)
Good Morning, Vietnam!
Ngày 12.7.2006 vừa qua, Uỷ ban Tài chính Thượng viện Hoa Kỳ đã tổ chức buổi điều trần về dự luật trao Quy chế Thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam. Cuộc điều trần diễn ra đúng vào Lễ kỷ niệm 11 năm ngày Chính phủ Hoa Kỳ và Việt Nam quyết định bình thường hoá quan hệ và thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước.
Ngay từ sáng sớm hôm đó (12.7), độc giả Mỹ đã đón một ngày mới bằng một bài bình luận với những lập luận sắc bén của cựu Bộ trưởng Tài chính Mỹ Robert Rubin, yêu cầu Quốc hội Mỹ bỏ phiếu ngay để trao PNTR cho Việt Nam. Bài bình luận có tựa đề “Good Morning, Vietnam” (Chào một ngày mới, Việt Nam) – được đăng trên The Wall Street Journal - tờ nhật báo uy tín hàng đầu của Mỹ có độc giả chủ yếu là giới tài phiệt và giới hoạch định chính sách tài chính - thương mại, chính trị - ngoại giao. Đầu đề của bài bình luận gợi cho bạn đọc nhớ về chương trình “Good Morning, Vietnam”, vốn rất nổi tiếng của giới truyền thông Mỹ trong thời kỳ chiến tranh ở Việt Nam, và đã có đóng góp không nhỏ trong việc khơi dậy phong trào phản chiến ngay trên đất Mỹ.
"Hoàn toàn không giống như quan hệ với những nước khác khi vấn đề lợi ích được ưu tiên hàng đầu, quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam là mối quan hệ của những “mixed feelings” (day dứt, trăn trở)"
Một ngày trước đó, ngày 11.7 (đúng ngày Tổng thống Mỹ Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ hai nước), 18 nhân vật nổi tiếng, gồm các cựu Bộ trưởng Ngoại giao, Quốc phòng, Tài chính, Thương mại, Nông nghiệp…, các Cố vấn Hội đồng an ninh quốc gia, các cựu Đại diện thương mại Mỹ như Henry Kissinger, George Shultz, Harold Brown, Warren Christopher, James Baker, Madeleine Albright, Tony Lake, Sam Berger, William Cohen, Colin Powell, Charlene Barshefsky… đã công bố một bức thư chung gửi các nhà lãnh đạo hai viện của Quốc hội Mỹ kêu gọi họ thông qua PNTR trong thời gian sớm nhất, cụ thể là ngay trong mùa hè này, trước khi Tổng thống Bush sang thăm Việt Nam.
Một lần nữa, trong quan hệ Việt Nam và Mỹ từ sau khi chiến tranh kết thúc lại có thêm một sự kiện với sự trùng hợp rất thú vị. Sự trùng hợp nổi bật nhất trước đây là quyết định dỡ bỏ cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam của Tổng thống Clinton được đưa ra đúng vào ngày kỷ niệm Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời (3.2).
Việc chọn thời điểm “tung” lên một sự kiện là cách làm mà những chính khách Mỹ ủng hộ PNTR đã lựa chọn để “lobby” các chính khách khác, cũng như công luận Mỹ, để tạo ra một hiệu ứng ủng hộ mạnh mẽ và hiệu quả nhất có thể được cho một vấn đề thương mại quốc tế vốn không phải là ưu tiên hàng đầu trong chương trình đối ngoại của Mỹ vào thời điểm hiện nay? Cùng lúc đó, một “thông điệp tích cực” đã được gửi cho Chính phủ và nhân dân Việt Nam trong bối cảnh mối quan hệ giữa hai nước vẫn còn nhiều điều chưa “thông” và khá “nhạy cảm”, khi cụm từ truyền thống “The Vietnam war” (Chiến tranh Việt Nam), thể hiện cách hiểu “lệch lạc” về cuộc chiến kết thúc cách đây hơn 30 năm như một cuộc nội chiến, được thay bằng cụm từ “The conflict in South East Asia” (Cuộc xung đột ở Đông Nam Á) gợi ra một nhận thức mới rằng đây là cuộc chiến giữa hai nước?
Những sự trùng hợp trên chắc hẳn không phải là ngẫu nhiên khi lịch sử quan hệ hai nước vẫn sẽ được viết tiếp trong những năm tháng dài phía trước, và điều này chắc hẳn sẽ là câu hỏi hết sức thú vị cho các nhà bình luận quốc tế, cũng như các sử gia, không hẳn chỉ là của Mỹ, tìm câu trả lời. Có một điều mà đa số có thể nhận thấy ngay rằng, hoàn toàn không giống như quan hệ với những nước khác khi vấn đề lợi ích được ưu tiên hàng đầu, quan hệ giữa Mỹ và Việt Nam là mối quan hệ của những “mixed feelings” (day dứt, trăn trở). Người ta cần có cảm giác “thanh thản” khi bước vào một ngày mới trong quan hệ giữa hai nước với những lợi ích do mối quan hệ bình thường này mang lại cho cả hai bên?
Good Morning, (and not only - không chỉ riêng) Vietnam?
Huỳnh Phan - Vũ Bình

Ông Bí thư tỉnh nghèo thời hội nhập


Ông Bí thư tỉnh nghèo thời hội nhập
,
(VietNamNet) - Đó là ông Vũ Ngọc Hoàng, Bí thư Tỉnh uỷ Quảng Nam - nơi đang có những động thái tích cực trong kêu gọi đầu tư, nơi mà tuần vừa rồi khiến dư luận xôn xao với những đề xuất thực hành tiết kiệm quyết liệt...
Cuộc trò chuyện giữa nhà báo Hoàng Ngọc và ông Hoàng nằm trong khuôn khổ của chủ đề: "Tận dụng mọi cơ hội, khai thác hết tiềm lực để đưa địa phương thoát khỏi đói nghèo và phát triển". Ông Hoàng cũng là một trong ba khách mời của VietNamNet trong bàn tròn trực tuyến của VietNamNet vào lúc 16h ngày 24/8 với chủ đề "Nắm bắt vận hội".
Soạn: AM 523903 gửi đến 996 để nhận ảnh này
Ông Vũ Ngọc Hoàng - Bí thư tỉnh uỷ tỉnh Quảng Nam.
Năm 1997, khi Quảng Nam tách ra khỏi tỉnh Quảng Nam - Đà Nẵng, khác với những lãnh đạo khác vẫn trở về Đà Nẵng với gia đình vào cuối tuần, có một người lặng lẽ bán ngôi nhà ông đã sống gần 20 năm để chuyển về Thị xã Tam Kỳ, nơi đã bị bỏ quên cũng ngần ấy năm sau khi Quảng Nam sáp nhập vào Đà Nẵng. Đó là ông Phó Chủ tịch Thường trực Vũ Ngọc Hoàng.

Với những tư duy, vốn sống và kiến thức thu nhận được từ Liên Xô cũ, nơi ông tốt nghiệp bằng đỏ ngành kinh tế nông nghiệp tại Học viện Nông Nghiệp Belarus, Hà Nội, nơi ông bảo vệ luận án Phó Tiến sĩ (nay là Tiến sĩ chuyên ngành) tại Đại học Kinh tế Quốc dân, và những văn hoá khác mà ông đã từng tiếp xúc, ông muốn thổi vào cái vùng được coi là cằn khô nhất nước này một luồng sinh khí mới. Nhưng trước hết phải thở cùng người dân nơi đây cùng một bầu không khí.

Cùng với các cộng sự của mình, ông đã xây dựng đề án khu kinh tế mở Chu Lai, để được Trung ương chọn là thí điểm vào năm 1997, và 2 năm sau đó phải ra Hà Nội một lần nữa để bảo vệ nó, khi Bộ Kế Hoạch & Đầu Tư cùng nhiều chuyên gia hàng đầu khác muốn từ bỏ nó bởi những phản biện khác nhau.
Lãng phí cơ hội & tiềm năng là lãng phí lớn nhất
TS Vũ Thành Tự Anh, GĐ nghiên cứu của Chương trình Fulbright VN, bình luận về những biện pháp mà chủ tịch tỉnh Quảng Nam đang áp dụng để thực hành tiết kiệm.
Và đến nay, sau 8 năm Quảng Nam thay đổi đã nhiều, cái ghế của ông cũng vậy. (Ông lên làm Chủ tịch tỉnh năm 1999, và tới năm 2001 chuyển sang làm Bí thư). “Chỉ có duy nhất hai điều không hề thay đổi,” - ông Phó Ban Quản Lý Khu KTM Chu Lai nhận xét.

Thứ nhất, nơi ông tiếp khách vẫn là cái ban công rộng nhìn ra thị xã. Thứ hai, ông vẫn nói năng nhỏ nhẹ, nhưng đầy sức thuyết phục bởi tính khoa học và thực tiễn trong cách lập luận, và sự ấm áp chân tình trong giọng nói. Bất kể đó là lãnh đạo TW, các cộng sự của ông, nhà đầu tư, hay người dân bình thường...

Cũng với giọng nói ấy, ông trả lời những thắc mắc của tôi xung quanh chuyện đầu tư ở đây.

Phải dựa vào nhau mà sống chứ không thể mạnh ai nấy chạy
- Có ý kiến cho rằng hình như lãnh đạo Quảng Nam đã không tận dụng được cơ hội để thu hút đầu tư vào Khu KTM Chu Lai, và như vậy sẽ rất khó khăn cho Quảng Nam trong việc mời chào các nhà đầu tư khi những khu bên cạnh như Dung Quất, Nhơn Hội được triển khai? 

Trước hết, chúng ta phải ghi nhận rằng 1,4 tỷ USD cam kết sau 2 năm thực hiện là một con số không hề nhỏ, và đó là thành công bước đầu của những người tham gia và ủng hộ mô hình này ở cấp trung ương và địa phương, và các nhà đầu tư trong, ngoài nước.

Như tôi đã phát biểu trong Lễ Kỷ niệm 2 năm Khu kinh tế mở Chu Lai, số vốn đầu tư mà chúng tôi thu hút được lẽ ra phải nhiều gấp mấy lần, mà lý do chính là Chu Lai chưa được mở hết.

Có phần lỗi của cơ quan cấp Trung ương khi một số bộ chưa vào cuộc, chưa coi thành công của Chu Lai là sự mở đầu cho việc áp dụng mô hình này ở những nơi khác. Còn lỗi của địa phương là vẫn thiếu sự bền bỉ và quyết liệt khi thuyết phục. Chẳng hạn, Quyết định của Chính phủ hướng dẫn việc triển khai mới ra đời cách đây hơn 1 năm, và qui chế khu phi thuế quan cũng phải cuối năm nay mới ra được.

Còn nguy cơ chia sẻ luồng đầu tư như anh nói, tôi lại có suy nghĩ khác. Buôn có bạn, bán có phường, cả phố chỉ có mỗi cửa hàng của mình chưa chắc đã bán tốt được, vì ít người biết. Nhưng nếu cả phố bán hàng thì người mua ở khắp nơi khi cần mua sắm sẽ đến đó.

Vả lại, khi đầu tư vào đây phải tính đến nguồn nguyên liệu đầu vào ở những khu bên cạnh. Chẳng hạn, khi Tập đoàn Phương Bắc của Đài Loan định xây dựng nhà máy nhiệt điện 600 MW (trị giá tới 600 triệu USD), họ có hỏi chúng tôi bao giờ nhà máy lọc dầu Dung Quất đi vào vận hành. Các nhà sản xuất dùng nguyên liệu là sản phẩm lọc dầu cũng quan tâm đến khu kinh tế mở Chu Lai nhiều.

Nói tóm lại, nếu nhà đầu tư chưa vào nhiều thì chắc chắn là do cơ chế chưa đủ mở, mà chuyện đó tỉnh đâu có thể tự quyết được mà chỉ nỗ lực thuyết phục thôi. Hoặc giả nhà đầu tư chưa cảm thấy dự án đủ chín muồi, và quan điểm của tôi nói với anh em làm xúc tiến đầu tư là nhất thiết không được vội vàng, chèo kéo, mà chỉ cung cấp thông tin cho họ lựa chọn thôi.

Họ cam kết vào một cách vội vàng, và bỏ chạy khi mới bắt đầu dự án, hay đang làm dở dang thì còn tệ hơn nhiều. Nếu thấy dự án của họ làm ở chỗ mình không hợp thì giới thiệu sang những chỗ khác như Dung Quất, Đà Nẵng, hay Lao Bảo. Ngược lại, họ cũng giới thiệu một số nhà đầu tư khác sang chỗ chúng tôi.

Quan điểm của tôi là miền Trung là phải dựa vào nhau, bù trừ cho nhau thì mới thành một thế mạnh chung được. Ví dụ như cảng và sân bay Đà Nẵng là một lợi thế cho Chu Lai thu hút đầu tư, và Sân bay Chu Lai sẽ thúc đẩy cho Dung Quất phát triển.

Quản lý không phải là nắm quyền
- Ông có nhận xét gì về ý kiến đóng góp của các nhà doanh nghiệp trẻ tại cuộc gặp với lãnh đạo tỉnh ngay sau lễ kỷ niệm?

Rất nhiều ý kiến đóng góp hay. Tôi đã nói nhiều với anh em là quản lý không hề có ý nghĩa tự thân, quản lý không phải để nắm quyền. Bộ máy quản lý chỉ được hình thành khi có nhu cầu phát triển và chức năng của nó là phục vụ sự phát triển.

Cái logic trong tư duy của tôi là môi trường đầu tư phải được hoàn thiện liên tục, chứ không phải quyết định một lần rồi phù hợp mãi được. Hơn nữa, môi trường đầu tư là để phục vụ nhà đầu tư, nên đối tượng thụ hưởng nó phải có tiếng nói của mình. Nói một cách khác môi trường đầu tư chính là cái bể bơi cho nhà đầu tư bơi, mà chỉ có người đang bơi mới hiểu rõ nhất là nước nóng hay lạnh, bẩn hay sạch.

Dự kiến vào cuối năm nay những cuộc gặp mặt này sẽ diễn ra thường xuyên hơn, chứ không phải 2 năm 1 lần như hiện nay. Tất cả các nhà đầu tư sẽ gặp mặt hàng tháng theo hình thức sinh hoạt Câu lạc bộ các Nhà đầu tư, mà thành viên bao gồm tất cả những nhà đầu tư đang hoạt động trên địa bàn Quảng Nam, cả trong nước và nước ngoài. Họ sẽ chỉ thảo luận một vấn đề duy nhất: Môi trường đầu tư ở đây còn có cái gì chưa tốt?

Tham gia Câu lạc bộ này còn có cả đại diện của cơ quan tư tưởng - văn hoá tỉnh uỷ, viện kiểm sát, hội luật gia, và, đặc biệt, là tất cả các nhà báo. Nếu trong cuộc sống có cơ quan, cá nhân nào đó gây khó khăn cho nhà đầu tư, thì diễn đàn này với sự tham gia của các cơ quan tư pháp và công luận sẽ bảo vệ nhà đầu tư, giúp cho môi trường đầu tư được thông thoáng và minh bạch hơn.

Sở dĩ cuối năm nay mới thành lập diễn đàn này vì tôi muốn đợi cho số nhà đầu tư đông đông lên, và tiếng nói sẽ chính xác và có tiếng vang hơn.

Hoang sơ, chậm phát triển cũng là lợi thế
- Các nhà đầu tư, nhất là nước ngoài, thường quan tâm nhiều đến hạ tầng. Vì vậy khu vực TP.HCM và các tỉnh lân cận là nơi thu hút đầu tư tấp nập nhất, và gần đây khu vực kinh tế trọng điểm miền Bắc do được đầu tư hạ tầng nhiều cũng có những khởi sắc lớn về kêu gọi đầu tư. Ông có nghĩ đó là một nguyên nhân khiến Chu Lai chưa thu hút được nhiều đầu tư như các ông mong đợi?

Đúng, nhưng không hẳn như vậy. Theo tôi nhà đầu tư luôn tính mọi ưu thế và bất lợi theo kiểu trọn gói, nếu có một số điểm bất lợi nhưng cả gói có lợi đáng kể thì họ vẫn làm. Ừ thì hạ tầng chưa được đầu tư bao nhiêu, nhưng bù lại khi giải phóng mặt bằng họ lại chẳng phải đền bù bao nhiêu cho những khu đất không canh tác được. Chu Lai có một lợi thế lớn là cần bao nhiêu diện tích chúng tôi cũng đáp ứng được. Ở những chỗ khác được cấp 20, 30 ha là lớn lắm rồi, nhưng ở đây cần tới 100, 200 ha cũng chẳng sao.

Trong khi đó Trung ương lại cho chúng tôi được giữ lại các khoản thu ở Chu Lai để tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng trong cả chục năm, và cứ như vậy chúng tôi lấy khoản thu ở nhà đầu tư đến trước để làm hạ tầng đón nhà đầu tư đến sau. Ví dụ như khoản thu dự kiến từ một nhà máy ô tô Chu Lai Trường Hải là 200 tỷ đồng cho năm nay nếu so với khoản đầu tư 500 tỷ đồng cho hạ tầng của Chu Lai sau 2 năm rõ ràng không phải là một khoản nhỏ.

Hơn nữa, sự hoang sơ của hoang mạc cát kéo dài suốt hơn 100 cây số bờ biển của Quảng Nam lại là một lợi thế cực kỳ lớn mà không đâu có được để phát triển du lịch, làm các khu nghỉ dưỡng ven biển. Đây là lĩnh vực mà rất nhiều nhà đầu tư trong nước và nước ngoài quan tâm.

 - Sự chậm phát triển của một nền kinh tế chủ yếu dựa vào nông nghiệp, mà lại ở trình độ phát triển không cao, chắc hẳn gây khó khăn không ít cho các nhà đầu tư khi tuyển chọn lao động?
 

 - Chúng tôi ý thức được việc này. Tạm thời thì giải quyết theo hướng sử dụng nguồn lao động có trình độ, tay nghề, từ những địa phương khác để kèm cặp lao động tuyển từ địa phương như chỗ anh Dương Trường Hải đang làm. Đồng thời chúng tôi cũng kêu gọi những lao động Quảng Nam phải tha hương do điều kiện kinh tế nghèo nàn của tỉnh trước đây trở về. Chúng tôi cũng có thể sử dụng đầu ra của các trung tâm đào tạo tại Đà Nẵng.

 Về kế hoạch của riêng mình hiện nay chúng tôi đang kêu gọi đầu tư để xây dựng những trường đại học, dạy nghề. Làm từ đầu cũng có cái rất hay là mình có thể áp dụng ngay được những mô hình tiên tiến nhất mà không phải sửa chữa lại lại với những gì đã có sẵn và đang có nhiều dấu hiệu của sự tụt hậu. Rõ ràng đây là một điểm mà những người muốn tạo ra sự khai phá trong lĩnh vực giáo dục đào tạo chắc chắn quan tâm.

 - Xin cảm ơn ông!
  • Huỳnh Phan (thực hiện)