Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhân vật. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Nhân vật. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2011

Chuyện về “ông chủ” công ty Anh-Chị-Em


Chuyện về “ông chủ” công ty Anh-Chị-Em


- Viết xong ngày tháng khi điền tờ khai hải quan, Lâm Hải Tuấn mới chợt giật mình: “Ồ, hôm nay là ngày sinh nhật của mình!”
Cảm xúc thật bất chợt đó diễn ra tại Sân bay Osaka của Nhật vào trưa ngày Chủ nhật 26/6/2005 khi Lâm Hải Tuấn chuẩn bị lên chiếc Boeing 777 của Hãng Hàng không Quốc gia Việt Nam bay về Thành phố Hồ Chí Minh. 
“Đây chính là món quà sinh nhật dành cho mình”, anh mỉm cười tự nhủ, khi đã yên vị trên máy bay và giở tờ giấy phép thành lập công ty ACE INA Vietnam được tự tay Bộ trưởng Nguyễn Sinh Hùng trao cho Chủ tịch ACE Life International Jacobson mấy hôm trước ở Washington D.C. ra ngắm nghía.
Chuyen ve ong chu cong ty Anh Chi Em
Ông chủ của công ty Anh-Chị-Em Lâm Hải Tuấn.
Lễ sinh nhật đầu tiên ở tuổi 43
Vừa bước ra khỏi phòng đợi, Tuấn nhìn thấy cả 10 người trong ban quản lý ACE Vietnam tươi cười chờ đón anh với bó hoa lan Thái đủ màu sắc. Tuấn càng ngạc nhiên hơn khi về tới văn phòng công ty tại Toà nhà Sun Wah, một chiếc bánh ga tô thật lớn với dòng chữ "Chúc mừng sinh nhật" đang đợi anh. 
Ông Giám đốc 43 tuổi này đã rưng rưng nước mắt nói: "Trong đời tôi cho đến ngày hôm nay chưa có ai tổ chức sinh nhật cho cả"!
Tuổi thơ của cậu bé Lâm Hải Tuấn gắn liền với thời kỳ khó khăn của Việt Nam, và sau này là những năm tháng ở Mỹ vừa đi học vừa đi quét bụi cho thư viện, hay làm gia sư để tự lo tiền học và giúp đỡ cha mẹ nuôi ba đứa em nhỏ. Sau này, đến khi đi làm, hay lập gia đình, thì công việc nay đây mai đó, chả bao giờ anh có mặt ở nhà vào ngày sinh nhật cả. 
“Tôi còn quên sinh nhật của mình, huống hồ là người khác”, Lâm Hải Tuấn kể lại.
Suốt 2 tiếng rưỡi đồng hồ, họ ngồi bên nhau như những người thân, nói hết chuyện nọ đến chuyện kia, từ chuyện nhận giấy phép bên Mỹ thế nào đến lễ treo biển của công ty ở đây ra sao, nhưng nhiều nhất vẫn là kế hoạch triển khai giấy phép để có thể đưa công ty chính thức vào hoạt động trong quý 4 này.
“Tôi cứ tưởng tấm giấy phép là món quà có ý nghĩa nhất, nhưng sự quan tâm của anh chị em trong công ty đối với tôi còn quý hơn nhiều”, Lâm Hải Tuấn tâm sự.
Công ty Anh-Chị-Em
Đặng Giao Thùy Uyên, người được Giám đốc Lâm Hải Tuấn mời về từ Ngân hàng Hồng Công & Thượng Hải cách đây 2 tháng để phụ trách mảng đối ngoại, đã nói: “Từ khi về đây, chúng em không còn cái cảm giác đi làm thuê nữa, mà đang làm cho chính gia đình mình. Nhiều hôm chúng em làm việc tới sáng luôn mà chẳng ai tính toán thiệt hơn gì cả”.
Công việc có liên quan đến cộng đồng người Việt ở California, khi anh làm trưởng chi nhánh của Tập đoàn Bảo hiểm Nhân thọ Metlife ở đó, và thời gian hai năm ở Việt Nam chuẩn bị cho công ty nhận giấy phép và đào tạo nhân lực đã giúp Lâm Hải Tuấn nhận ra rằng dân tộc Việt Nam tạo ra “rất nhiều viên kim cương”, nhưng là những viên kim cương đơn lẻ.
“Tôi muốn khi nắm lại một vốc kim cương, thả tay ra phải được một khối kim cương. Và chất kết dính đó chính là văn hoá teamwork”, Lâm Hải Tuấn nói.
Lâm Hải Tuấn tiết lộ “bí quyết” quản lý nhân lực của anh là làm cho đội ngũ quản lý ở đây cảm thấy tự hào vì họ là một phần của công ty, và coi việc góp sức vào sự lớn mạnh của công ty như một sự khẳng định cho thương hiệu cá nhân của mình.
“Một ngày nào đó bất kỳ ai trong đội ngũ quản lý và nhân viên của tôi có thể tự hào khi nghe câu nói :Wow, you are with ACE Vietnam! (Ồ, bạn đang làm cho ACE Vietnam cơ đấy!)”, anh nói, ánh mắt hơi mơ màng.
Theo Lâm Hải Tuấn, những người của Tập đoàn ACE sang đây đều hết sức ngạc nhiên trước sự thông minh và năng động của đội ngũ quản lý người Việt làm ở đây, và chính ông Jacobson khi gặp anh tại Washington D.C., khi nói đến Việt Nam trong một loạt các thị trường nước ngoài đối với tập đoàn, chỉ buông một câu ngắn gọn: “No concerns!” (Không có gì phải lo cả!)
Chuyen ve ong chu cong ty Anh Chi Em
Người Việt phải có vị thế xứng đáng
“Nếu tôi không về đây, ACE sẽ chọn một người Mỹ về đây quản lý, và người Việt Nam mình vẫn cứ là con trâu trong khi họ là người cầm cày”, Lâm Hải Tuấn nói. Anh đã kiên quyết yêu cầu Tập đoàn bên Mỹ chỉ cử chuyên gia sang đào tạo đội ngũ quản lý người Việt rồi để họ tự điều hành công ty.
Trong thời gian gần 20 năm làm việc cho Metlife ở Mỹ, Lâm Hải Tuấn đã chứng kiến nhiều người Mỹ gốc Việt, và gốc Á nói chung, rất có khả năng nhưng không có cơ hội thăng tiến như những người Mỹ bởi sự phân biệt đối xử trong cái văn hoá “glass ceiling” (trần vô hình) của Mỹ. 
“Nếu họ muốn được công ty để ý, hay công nhận, họ phải nỗ lực gấp 5, 10 lần so với người Mỹ gốc Âu”, Lâm Hải Tuấn bức xúc.
Bản thân anh cũng phải hy sinh hết cả tuổi trẻ để nỗ lực học tập lấy đủ bằng nọ chứng chỉ kia, từ kỹ sư điện, quản lý ngân hàng, kiểm toán đến chứng khoán..., và sau đó phấn đấu cật lực trong công việc mới được sự thừa nhận của Metlife trước đây, và ACE hiện nay.
“Cả hạnh phúc riêng tư của tôi cũng bị ảnh hưởng”, Lâm Hải Tuấn nói, giọng trầm xuống. (Anh đã ly dị được 5 năm năm, và nhìn vẻ mặt buồn lặng của anh khi nhớ lại chuyện đó tôi không dám hỏi thêm câu gì).
“Vậy thì ngay tại đây, chứ không phải tại mảnh đất sống nhờ, tại sao mình lại không tạo cơ hội cho anh chị em mình có cơ hội để nhanh chóng tiến xa cơ chứ?”, Lâm Hải Tuấn vừa nhìn vào khoảng không vừa nói, như với chính mình.
Ngay cả chiến lược kinh doanh và kế hoạch triển khai cụ thể cũng được chính anh với đội ngũ quản lý người Việt ở đây soạn thảo dựa trên những nghiên cứu, phân tích thị trường và đặc điểm văn hoá của người Việt Nam chứ không copy từ tập đoàn, theo như thông lệ.
“Tôi muốn ACE Vietnam trở thành công ty tiên phong trong việc kết hợp sức mạnh và uy tín của một tập đoàn đa quốc gia bên ngoài với một logo riêng của người Việt ở đây”, Lâm Hải Tuấn bộc lộ tham vọng của mình.
Anh đang ấp ủ dự định xây dựng ACE Vietnam trở thành một hình mẫu trong Tập đoàn về tính chuyên nghiệp cao của đội ngũ quản lý, để khi ACE International muốn thành lập một công ty mới ở bất cứ nước nào khác, họ có thể cử người ở đây đi, như họ đã từng cử anh sang Việt Nam cách đây 2 năm.
“Nếu ACE Vietnam thành công, các công ty đa quốc gia khác cũng noi theo gương này mà trọng dụng đội ngũ quản lý người Việt”, Lâm Hải Tuấn nói, giọng đầy lạc quan.
Chuyen ve ong chu cong ty Anh Chi Em
Trả nghĩa người cha
“Khi tôi rời Metlife để về Việt Nam, đồng nghiệp, bạn bè và người thân đều bảo tôi điên, từ bỏ cả một sự nghiệp đầy hứa hẹn để tìm đến một mảnh đất đầy rủi ro bất trắc như Việt Nam”, Lâm Hải Tuấn nhớ lại.
Lúc đó, anh đang phụ trách mảng thị trường Á Châu và Việt Nam của công ty này, sau ba năm liền từ 1994 đến 1996 được bầu làm “Man of The Year” (Nhân vật trong năm) của Metlife do thành tích xuất sắc trong việc điều hành Chi nhánh California.
“Tôi nghĩ mỗi người đều có một cái gì đó thiêng liêng, hay như người ta thường gọi là hoài bão, để vươn tới, và đối với tôi hoài bão đó là thực hiện ước nguyện của cha tôi”, Lâm Hải Tuấn lý giải. 
Cha anh, trước khi nhắm mắt vào năm 1989, đã trăn trối lại với các con: “Hãy đừng quên Việt Nam, hãy làm điều gì đó cho Việt Nam, mảnh đất đã sinh ra ba và cả gia đình ta”.
Năm 1977, gia đình Lâm Hải Tuấn được chính quyền cho phép sang Mỹ vì cha anh là người gốc Hoa. Ông giáo sư văn chương và Pháp văn, vốn chỉ gắn bó với sách vở và học trò, không hề muốn tận dụng cơ hội này. Nhưng vì chiều ý bà vợ muốn tạo cơ hội học hành cho 5 đứa con, ông đành gác bút nghiên, chấp nhận phụ giúp bán hàng cho bà trong một cửa tiệm nhỏ của gia đình để nuôi các con ăn học khi gia đình họ sang Mỹ.
“Trong suốt 12 năm cuối đời, ông luôn day dứt với nỗi nhớ quê hương, và có lẽ ông mất sớm vì lý do đó”, Lâm Hải Tuấn bồi hồi nhớ lại. 
Anh cho biết mỗi khi gia đình đoàn tụ là cha anh lại gợi chuyện về Việt Nam để nói với các con. Gia đình Lâm Hải Tuấn cũng có hai điều luật bất di bất dịch: Không ai trong số 5 anh chị em nhà anh được đổi sang tên Mỹ, và khi nói chuyện với nhau họ không được dùng tiếng Anh.
“Tôi được học hành, thành đạt như ngày hôm nay, là hoàn toàn nhờ vào sự hy sinh của cha tôi ngày ấy, thì việc trở lại Việt Nam để đóng góp một cái gì đó, như ước nguyện của ông, thực ra cũng đâu to tát gì”, Lâm Hải Tuấn nhìn nhận.
Hai năm sau, Lâm Hải Tuấn thu xếp công việc để về Việt Nam lần đầu tiên, và khi trở lại Mỹ, anh đã có một đề nghị táo bạo với Metlife là đầu tư vào thị trường Việt Nam. Từ đó trở đi anh liên tục có dịp về Việt Nam nghiên cứu thị trường, và củng cố thêm niềm tin của mình vào tương lai của thị trường này. Rất tiếc là sau đó Metlife đã thay đổi chiến lược để đầu tư vào Trung Quốc.
“Tôi rất tâm huyết với những cơ hội đầu tư ở Việt Nam, và việc họ thay đổi chiến lược khiến tôi hoàn toàn thất vọng”, Lâm Hải Tuấn lắc đầu, và cho biết thêm đó chính là lý do về mặt nghề nghiệp khiến anh không gia hạn hợp đồng với Metlife, khi nó kết thúc vào tháng 10 năm 2002.
Tự bỏ tiền túi trở lại Việt Nam nghiên cứu những thay đổi của thị trường, sau mấy tháng, Lâm Hải Tuấn đã có trong tay một bản phân tích thị trường cụ thể và một kế hoạch hành động chi tiết.
Cùng lúc đó, anh nhận được một cú phone của ACE, và sau khi nghe anh trình bày, Chủ tịch của Tập đoàn ACE Greenberg đã mời anh về làm với cương vị Phó Chủ tịch của ACE Life International. Ít lâu sau anh được cử sang Việt Nam.
“Đúng là ý tưởng của họ đã gặp ý nguyện của tôi”, Lâm Hải Tuấn mỉm cười kết luận.
  • Huỳnh Phan

Chuyện về hai Việt Kiều họ Lâm


CEOVN Lâm Hải Tuấn (ACE life VN) - Lâm Đôn - Vinacapital

Hai chàng trai họ Lâm, cùng là người gốc Hoa, rời Sài Gòn vào cuối những năm 70. Đều thành đạt nơi xứ người, nay họ quay trở lại "bắc cầu" cho các tập đoàn quốc tế lớn đầu tư vào Việt Nam.
Vào đầu tháng 12 năm 2005, có hai sự kiện thu hút nhiều sự chú ý của báo giới trong TP.HCM.
Sự kiện thứ nhất là một lễ khai trương hoành tráng, nhưng đậm nét dân tộc với màn múa lân và sự tái hiện lại cảnh làng quê truyền thống Việt Nam bên trong và ngoài phòng tiệc, của một công ty bảo hiểm nhân thọ Mỹ.

Sự kiện thứ hai diễn sau đó ngót một tuần là cuộc hội ngộ của hơn 100 nhà đầu tư lớn từ khắp nơi, trong đó có EU, Mỹ và Nhật.

Nhân vật chính trong hai sự kiện đó là hai Việt Kiều. Một người là Tổng Giám đốc ACE Life Vietnam thuộc Tập đoàn Bảo hiểm ACE INA. Người kia là Tổng Giám đốc của Vinacapital, Công ty Quản lý Quỹ Vietnam Opportunity Fund niêm yết tại Thị trường Chứng khoán Luân Đôn.

Không hiểu là có sự “sắp xếp” của Tạo hoá hay không mà giữa họ có những điểm chung khá đặc biệt.

Hai người cùng họ Lâm. Cha họ đều là người gốc Hoa, đều cùng gia đình rời Sài Gòn ra đi vào cuối những năm 70 đầy “nhạy cảm”.

Sau thời gian vượt qua bao khó khăn để học thành tài bên xứ người, họ đều được nhận vào làm ở những hãng quốc tế lớn, đều trở về Việt Nam với tâm nguyện thúc đẩy sự ra đời và mở rộng hoạt động của những hãng này tại Việt Nam.

Và trụ sở công ty của họ đều nằm ở Toà nhà Sun War Tower , 115 Nguyễn Huệ, Quận Nhất, Thành phố Hồ Chí Minh.
"Mr. Wall Street của Việt Nam"
Khi qua nước ngoài vận động thêm vốn cho Quỹ Đầu tư VOF, tôi mới ngã ngửa ra rằng đa số các nhà đầu tư nước ngoài chỉ nghĩ Việt Nam là một nước nuôi trồng thuỷ sản, có lẽ là qua các vụ kiện tôm và catfish mà báo chí đưa tin ầm ĩ”.

Lâm Đôn giải thích lý do anh quyết tâm tổ chức một hội nghị các nhà đầu tư để giới thiệu cơ hội ở Việt Nam như vậy.

Để mời được đại diện của hơn 100 định chế tài chính, trong đó có những “đại gia” như Sandberg Steeman SA, BankPension, Bank Julius Baer, hay Petercam SA…, Lâm Đôn đã phải tới gặp và thuyết phục một con số gấp đôi như vậy.

Trong suốt 6 tháng trời chuẩn bị, Lâm Đôn đã phải thực hiện 3 chuyến đi vận động, mỗi chuyến kéo dài chừng 3 tuần. Hơn 20 cuộc hội thảo nhỏ với các nhà đầu tư đã được tổ chức, đó là chưa kể đến hàng loạt các cuộc gặp gỡ riêng lẻ.

Số lượng tham dự hội nghị các nhà đầu tư cao như vậy cũng nhờ vào khả thuyết phục được coi là điểm mạnh của người cựu cử nhân về thương mại và chính trị học của Trường Đại học Toronto này.

Lâm Đôn được coi là speaker tại các cuộc hội thảo về đầu tư, và được Tạp chí Fortune coi là Mr. Wall Street của Việt Nam .

Theo Lâm Đôn, Việt Nam không thua bất cứ nước nào trong việc thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), nhưng lại chưa chú tâm vào thu hút đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII), chỉ chiếm khoảng 3,7% so với vốn FDI, trong khi đó Trung Quốc, Malaysia hay Thái Lan tỷ lệ này chiếm tới 30-40%.

“Chính vốn FII sẽ giúp cho doanh nghiệp Việt Nam nâng cao được qui mô và năng lực cạnh tranh, giúp Việt Nam tạo ra những doanh nghiệp lớn của riêng mình, nhất là dưới sức ép mở cửa thị trường theo cam kết hội nhập”, Lâm Đôn lưu ý.

“Theo ước tính của tôi, các định chế này hiện đang nắm giữ một lượng vốn khoảng 100 tỷ USD. Chỉ cần họ đồng ý bỏ 1% trong số đó vào Việt Nam là chúng ta có 1 tỷ rồi”, Lâm Đôn nhận xét.
Những cơ hội đầu tư mở ra ở Việt Nam trong những năm gần đây mà Lâm Đôn muốn giới thiệu với các nhà đầu tư cũng chính là nguyên nhân chính khiến anh rời bỏ Công ty Kiểm toán PricewaterhouseCoopers(PwC) Vietnam vào cuối năm 2003, sau khi giúp nó phát triển thành một hãng kiểm toán lớn ở Việt Nam.

Lâm Đôn được cử về làm trưởng đại diện của PwC tại Việt Nam năm 1994, và công ty PwC Vietnam được thành lập một năm sau đó.

Trước khi rời khỏi PwC Vietnam, anh giữ cương vị Phó Tổng Giám đốc, bởi lúc đó PwC Vietnam đã trở thành một hãng kiểm toán mạnh với mấy trăm kiểm toán viên và Tổng hãng bên Canada phải cử một Tổng Giám đốc người nước ngoài về phụ trách cả thị trường Đông dương.

Từ khi tham gia thành lập Công ty Vinacapital vào cuối năm 2003 để quản lý phần vốn đầu tư của VOF, Lâm Đôn cùng các cộng sự đã kịp đưa quỹ này trở thành quỹ đầu tư hiệu quả nhất Việt Nam năm 2004 (theo Nghiên cứu của tổ chức LCF Rothschild).

Trong năm 2004 tỷ lệ lãi ròng đạt 25% trên giá trị góp vốn của các nhà đầu tư, và giá trị cổ phiếu của quỹ trên thị trường chứng khoán Luân Đôn đã tăng 38%. Các con sô tương ứng cho đến cuối tháng 11 của năm 2005 là khoảng 29% và 27%.

Đó cũng chính là lý do Vinacapital đã nhanh chóng thu hút được 76 triệu USD trong kỳ phát hành cổ phiếu cuối năm ngoái để nâng tổng số vốn của VOF lên 171 triệu USD, mặc dù con số 47 triệu cổ phiếu phát hành không đáp ứng được nhu cầu mua của các nhà đầu tư.

Khi được hỏi sẽ làm gì trong dịp Tết này, Lâm Đôn bật cười lớn: “Thì nghỉ Tết chứ sao, cả năm vừa rồi mệt hết chịu nổi. Chắc cũng phải đưa bà xã và hai đứa nhỏ đi chơi đây đó quanh Sài Gòn cho thư giãn”.
Trong dịp Hội nghị các nhà đầu tư vừa rồi, Vinacapital cũng tuyên bố gây thêm một quỹ mới gọi là Vianland - trị giá 50 triệu USD. Lâm Đôn hy vọng là sẽ hoàn thành việc gây quĩ này trong vòng 6-9 tháng, để đầu tư vào địa ốc, văn phòng, cửa hàng và trung tâm thương mại. Trong vòng 3 năm tới Vinacapital tập trung đầu tư vào lĩnh vực sản xuất hàng tiêu dùng, tài chính & ngân hàng và bất động sản.

Thực hiện một ước mơ
Lâm Hải Tuấn bắt đầu buổi lễ ra mắt chính thức của Công ty ACE Life Vietnam bằng ba tiếng trống mà nhân viên công ty cũng như những người khách đến dự có cảm giác anh đã dồn hết sức lực của mình vào đó.

“Ba tiếng trống đó là tiếng nói của người con với người cha ở thế giới bên kia:

Ba ơi, con đã thực hiện xong lời ba căn dặn khi cầm tay con lần cuối cùng trong đời là hãy về Việt Nam, hãy làm điều gì đó cho Việt Nam”.

Lâm Hải Tuấn rút khăn mùi soa ra khẽ chấm lên mắt, giọng anh hơi nghẹn lại.

Trước đó vào đầu năm 2003, tại cuộc phỏng vấn tuyển dụng tại trụ sở của Tập đoàn bảo hiểm ACE INA tại New York, sau khi nghe Tuấn phân tích khái quát về thị trường Việt Nam, ông Chủ tịch kiêm CEO của Tập đoàn Evan Greenberg hỏi anh câu cuối cùng:

“Hãy nói cho tôi điều gì làm nên sự khác biệt giữa Tuấn Lâm và những người khác!”
“Chắc là không nhiều lắm, nhưng tôi là người có ước mơ và luôn biết cách tận dụng mọi cơ hội để thực hiện ước mơ của mình”, Tuấn trả lời không chút do dự.

“Vậy anh hãy chuẩn bị về Việt Nam ”, ông Greenberg vừa nói vừa đứng dậy, kết thúc cuộc phỏng vấn chỉ có vỏn vẹn 15 phút, trong khi trước đó người ta bảo với anh rằng có thể kéo dài tới 3 tiếng đồng hồ.

(Sau khi rời Metlife - một hãng bảo hiểm lớn khác của Mỹ - sau 18 năm làm việc và thành danh tại đó, vào tháng 10/2002, vì bất đồng trong quan điểm khi Metlife đã đầu tư sang Trung Quốc còn anh lại cố thuyết phục họ đầu tư vào Việt Nam, Lâm Hải Tuấn đã tự bỏ tiền túi về nước nghiên cứu thị trường và cơ hội đầu tư).

Trong khoảng hai năm trời kể từ khi quay lại Việt Nam với tư cách Phó Chủ tịch của Bảo hiểm nhân thọ, Lâm Hải Tuấn đã vừa phải đôn đáo lo chuyện giấy phép, tiếp tục tìm hiểu thị trường để đưa ra các sản phẩm phù hợp, vừa phải tiến hành chọn được bộ khung quản lý cho công ty tương lai.

“Hàng trăm cuộc phỏng vấn diễn ra khắp mọi nơi, có thể là quán cà phê, quán trà, hay hàng cơm bụi, hay bất cứ một nơi nào khác. Không chỉ phỏng vấn họ, tôi còn tìm hiểu họ thông qua gia đình họ, bởi tính cách con người bộc lộ rõ nhất trong các mối quan hệ gia đình”, Tuấn nói.
Công sức của người được mệnh danh là “Người phỏng vấn khó nhất” từ hồi còn ở Metlife đã không phụ anh. Trong số 20 quản lý được chọn, cho đến nay chỉ có một người phải ra đi vì nhận thấy không phù hợp với cái guồng hoạt động chung của ACE Life Vietnam .

Giải thích tại sao trong chuyến thăm Việt Nam lần này, ông Chủ tịch tập đoàn đã quyết định nộp đơn xin luôn bảo hiểm phi nhân thọ và quỹ đầu tư, bởi các công ty nước ngoài thường mất một vài năm để ổn định một loại hình kinh doanh, Lâm Hải Tuấn nói giọng không giấu được niềm hãnh diện:

“Ông ấy không tìm được một lỗi nhỏ nào trong bộ máy điều hành, cũng như đội ngũ nhân viên và đại diện kinh doanh ở đây, nên mới quyết định nhanh như thế”.
Ông Barry Jacobson, Chủ tịch của ACE Life International nhận xét về anh: “Chúng tôi có thể nói rằng chúng tôi đã có đúng người vào đúng thời điểm ở đây. Tuấn rất hiểu con người và văn hoá Việt Nam bởi anh có thời gian làm việc rất dài và rất thành công với cộng đồng người Việt bên Mỹ.

Anh có một niềm say mê đặc biệt với Việt Nam và muốn làm một điều gì đó thật đặc biệt cho Việt Nam, thông qua những sản phẩm và dịch vụ chất lượng cao phù hợp với người Việt Nam được anh và đội ngũ cộng sự người Việt nghiên cứu rất kỹ. Tập đoàn chúng tôi cũng được hưởng lợi nhờ đó”.
Đội ngũ đại diện kinh doanh của ACE hiện nay đã có hơn 600 người làm việc full-time, sau khi được đào tạo bài bản tại một trung tâm đào tạo của công ty, nơi đồng thời cũng là chỗ giao dịch với khách hàng.

Để thực hiện một khối lượng công việc lớn như vậy, trong suốt cả năm vừa rồi người đàn ông độc thân tuổi Dần này đã phải miệt mài làm việc mười mấy tiếng đồng hồ một ngày, đến mức “nhiều khi cơ thể đã rã rời, mà cái đầu vẫn cứ phải tính toán, lo toan” như lời bộc bạch của anh.

“Những phút thư thái nhất của tôi sau một ngày làm việc căng thẳng, thường kéo dài đến 8, 9 giờ tối, là xách xe máy chạy lòng vòng, tận hưởng cái tĩnh lặng của những phố vắng, hít thở bầu không khí của đêm Sài Gòn, trước khi trở về căn hộ tôi thuê ở Sheraton Hotel”, Lâm Hải Tuấn khẽ nói, như với chính mình.

Chỉ có một điều mà ông Chủ tịch Greenberg lo lắng nhất khi ông rời Việt Nam là sức khoẻ của Tuấn, bởi theo ông cứ cường độ làm việc thế này rồi có lúc anh chắc anh không trụ nổi.

“Ông khuyên tôi nếu đã chọn được người tâm đầu ý hợp thì nên sớm lập gia đình để giữ được cân bằng giữa cuộc sống và công việc”, Tuấn kể lại.
Khi nói về vai trò của Việt Kiều trong đầu tư ông Lương Văn Lý, Phó Giám đốc Sở Kế hoạch & Đầu tư TP.HCM đặc biệt nhấn mạnh đến vai trò họ trong các công ty đa quốc gia, hay các quỹ đầu tư:

“Nhiều anh chị em Việt Kiều làm việc tại nơi đó muốn về Việt Nam làm việc, muốn đóng góp cho đất nước. Họ có thể đóng vai trò rất lớn trong việc thu hút các công ty, tổ chức đó vào đầu tư ở Việt Nam”.
  • Huỳnh Phan (Vietnamnet)

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

"Cú hích" cuối cùng cho một quyết định lịch sử

Thứ ba, 12 Tháng bảy 2005, 15:29 GMT+7

"Cú hích" cuối cùng cho một quyết định lịch sử

Câu chuyện về quá trình quay 1 bộ phim được xem là "cú hích cuối cùng" để Tổng thống Bill Clinton quyết định tuyên bố xóa bỏ cấm vận với Việt Nam năm 1994, là tiền đề cho bình thường hoá quan hệ giữa 2 nước

Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ được chính thức bình thường hoá vào ngày 12/7/1995, nhưng để có được sự kiện lịch sử này phải kể đến một quyết định rất táo bạo, mang tính đột phá trong quan hệ hai nước: Bỏ cấm vận với Việt Nam.

Theo như lời ông Pete Peterson, Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam, phát biểu ở Diễn đàn “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: Con đường đi tới” đầu tháng 6 vừa rồi: Mặc dù đã có quyết sách rõ ràng nhưng để đi tới quyết định này ông Clinton rất cần có một chất “xúc tác” là sự ủng hộ của giới cựu binh Mỹ.

Một bộ phim tài liệu được quay ở Việt Nam vào tháng 10/ 1993 và phát trên kênh truyền hình ABC News vào tháng 1/1994, đã được coi là cú “hích” cuối cùng cho quyết định này.

Ngay sau khi phát xong bộ phim dài khoảng 35 phút này trong chương trình Day-One, tổng đài của hãng ABC đã bị nghẽn mạch bởi rất nhiều cuộc gọi của các cựu binh “Chiến tranh Việt Nam” trên toàn nước Mỹ.

Họ bày tỏ sự xúc động của mình và chia sẻ cách nhìn nhận của các nhà làm phim: Cựu binh của cả hai phía bắt tay nhau trên chiến trường xưa - một hình ảnh mới trong quan hệ giữa hai cựu thù!

Chưa đầy một tháng sau đó, vào ngày 3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton trịnh trọng tuyên bố xoá bỏ cấm vận với Việt Nam!

Tháng 10/1993, tại Ia Drang (Việt Nam), hai vị tướng Nguyễn Hữu An và Hal Moore có cái bắt tay lịch sử. Năm 1965, tại đây, họ là chỉ huy của quân đội 2 phía trong một trận đánh khốc liệt được xem là "đã làm thay đổi cuộc chiến ở Việt Nam”.

Cái bắt tay trên chiến trường xưa...

Trận đánh lịch sử Ia Drang, diễn ra năm 1965, là một trận đánh chiến thuật nhưng mang tính chiến lược vì trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam chưa bao giờ phía Mỹ lại bị tổn thất lớn như thế trong một trận đánh với 2 tiểu đoàn “Kỵ Binh bay” bị loại ra khỏi vòng chiến đấu.

Thương vong về phía Việt Nam con số cũng rất khác nhau. Phía Mỹ nói là nhiều, trong khi đó theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Chu Huy Mân (lúc đó là Bí thư Mặt trận B5), hay Thượng tướng Nguyễn Hữu An... mà các nhà làm phim có dịp phỏng vấn, thì số thương vong của phía Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều so với số liệu phía Mỹ đưa ra.

Sau trận đánh này, Quân đội Mỹ phải xem xét lại về “sức mạnh vô địch” của lực lượng kỵ binh bay, còn phía Việt Nam cũng hình dung được cách đánh Mỹ như thế nào.

Đúng như lời nhận xét ngắn gọn của Tướng Harold Moore ở bìa đầu cuốn sách: “Ia Drang là trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến ở Việt Nam”.

Bộ phim với tựa đề “They were soldiers... once young... and brave” (Họ từng là những người lính... trẻ trung... và quả cảm) được xây dựng dựa theo cuốn sách “Wewere soldiers once... and young” (Chúng ta từng là những người lính... và trẻ mãi) của Tướng ba sao quân đội Mỹ Harold Moore và phóng viên Joe Galloway của hãng Thông tấn UPI, những người đã có mặt trong trận đánh Ia Drang lịch sử.

Trong cuốn sách của mình, hai đồng tác giả muốn nhấn mạnh đến tính chất khốc liệt, chết chóc của trận đánh đó và sự quả cảm của những người lính trẻ Mỹ. Các nhà làm phim đến Việt Nam với một kịch bản như vậy thông qua hành trình trở lại chiến trường xưa của những cựu binh Mỹ còn sống này.

Tôi nói với họ rằng trong phim phải nêu được tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội Việt Nam như một sự thật lịch sử. Nếu không họ hãy đề nghị người khác, chứ không phải là tôi, cộng tác”, Vũ Bình kể lại.

Quan điểm của Vũ Bình trong cuộc tranh luận với đạo diễn Terry Wrong và bình luận viên nổi tiếng của hãng ABC Sawyer Forest sau đó đã được Tướng Harold Moore xác nhận.

Vị tướng này đã bày tỏ sự khâm phục thực sự đối với những người phía bên kia chiến tuyến trong trận đánh đó.

Trong phim có một cảnh không chỉ làm các cựu binh Mỹ xúc động, mà còn khiến bản thân những người làm phim thấy “cay cay trong mắt”: Hình ảnh các cựu binh Việt Nam và Mỹ, trong đó có Thượng tướng Nguyễn Hữu An (nguyên Tư lệnh Mặt trận B5), Tướng Harold Moore (nguyên Trung tá Chỉ huy Lực lượng Kỵ binh bay của Mỹ), khoác vai nhau đứng mặc niệm những người đã khuất của cả hai phía, cùng những lời phát biểu đầy xúc động của họ về những người đã nằm yên dưới lòng đất.

Điều thứ hai tôi muốn họ nhấn mạnh trong bộ phim là quan điểm của Việt Nam “sẵn sàng gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Và những người đi tiên phong trong chính sách này chính là các cựu binh Việt Nam”, Vũ Bình kể tiếp.

Có một điều rất thú vị là sau khi bộ phim được hoàn thành, bắc thêm một “nhịp cầu” giữa cựu binh hai nước, thì hai “nhân vật chính” trong phim lại trở thành những người bạn ngoài đời.

Tướng Harold Moore hễ lần nào sang Việt Nam lại đến thăm Tướng Nguyễn Hữu An. Đến khi vị danh tướng Việt Nam qua đời vị tướng Mỹ này đã nhiều lần đến thắp hương trước bàn thờ ông.

Những người tham gia trận đánh đó rõ ràng là những người lính trẻ quả cảm. Và những người còn sống lại thực sự là những người lính già cao thượng”, nhà báo kỳ cựu Joe Galloway, đồng tác giả của cuốn sách, đã thốt lên với Vũ Bình như vậy khi gặp lại anh tại Hà Nội trong dịp kỷ niệm 30 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam.

Chỉ huy cả tướng Mỹ vì là... chủ nhà!

Có lẽ họ bị thuyết phục bởi những bằng chứng lịch sử tôi đưa ra, và, hơn thế nữa, là ý tưởng của tôi muốn làm cho bộ phim có tầm vóc lớn hơn, đóng góp vào mối quan hệ của hai nước”, Vũ Bình giải thích lý do các nhà làm phim Mỹ đồng ý với lập luận của anh. Còn trong suốt quá trình làm phim, họ luôn làm việc với anh như với một “co-producer” (đồng đạo diễn).

Có một điều nữa mà chỉ khi bộ phim đã được hoàn thành, các nhà làm phim Mỹ mới nói lại với Vũ Bình, là họ cũng hình dung được sự khó khăn khi thực hiện bộ phim này qua ba lần sang Việt Nam đi “tiền trạm”. Chính sự kiên quyết đến “dữ dội” của anh trong khi trình bày quan điểm khiến họ cảm thấy yên tâm là bộ phim sẽ được thực hiện thành công cùng với anh.

Thực tế đã chứng minh mối lo của các nhà làm phim Mỹ là có thật. Mặc dù đã có sự đồng ý bằng văn bản của các cấp lãnh đạo rất cao nhưng Vũ Bình vẫn phải giải thích cặn kẽ về bộ phim với các cơ quan có liên quan ở cấp địa phương, hay quân khu quân đoàn, để được phép vào quay ở những nơi mà vào thời điểm đó vẫn bị coi là nhạy cảm về mặt an ninh quốc phòng, đặc biệt là đối với truyền hình Mỹ.

Cuối cùng thì thông điệp của bộ phim là Việt Nam muốn “chìa tay” ra với tất cả, kể cả với người Mỹ, và sự có mặt của Tướng Nguyễn Hữu An trong nhiều cuộc gặp của tôi với họ như là một sự xác nhận cho thông điệp này, cũng thuyết phục được mọi người”, Vũ Bình nói.

Nhưng gay go nhất là khi mọi chuyện tưởng như ổn thoả thì một vấn đề kỹ thuật lại nảy sinh: Bộ Ngoại Giao ngoài Hà Nội điện vào cho biết là không thoả thuận được với Bộ Quốc Phòng để lấy máy bay trực thăng đưa đoàn làm phim quay lại bãi chiến trường xưa!

Phải rất nỗ lực, cần đến sự đồng ý của những tướng lĩnh cấp cao của Bộ Quốc phòng Việt Nam, chiếc trực thăng này mới có thể có mặt tại địa điểm nơi ngày xưa là bãi chiến trường. Trong ảnh: Tướng Hal Moore và bình luận viên của hãng ABC Forrest Sawyer đang có mặt tại nơi ngày xưa từng xảy ra những đụng độ khốc liệt: Ia Drang.

Đây là một vùng "rất nhạy cảm" nằm cách biên giới với Cam-pu-chia theo đường chim bay khoảng 2 - 3 cây số. Lúc đó, tàn quân của Khơ me Đỏ và Fulro vẫn còn hoạt động.

Tôi qua Quân đoàn 3, gặp anh Bình là Thiếu tướng Tư lệnh nhờ anh cho sử dụng đường dây riêng để gửi gấp bức điện tôi tự thảo và ký với danh nghĩa là trưởng nhóm làm phim, kiến nghị Cục tác chiến (Bộ Tổng Tham mưu) cấp cho một máy bay trực thăng để bảo đảm cho chương trình này thành công”, Vũ Bình nhớ lại.

Tới nửa đêm hôm đó, khi anh Trung uý công an đi cùng đoàn để bảo đảm an ninh nghẹn ngào nhắc tới cô vợ trẻ mới cưới được một tuần của mình, tôi mới “giật mình”, thực sự cảm nhận được mối nguy hiểm đang rình rập chúng tôi.

Chứ cho đến lúc đó tôi chỉ hoàn toàn chỉ nghĩ đến tác dụng của sản phẩm của mình đối với quan hệ hai nước”,
Vũ Bình vừa nói, vừa nhấc cặp kính ra lau.

Sáng sớm hôm sau, khi nhận được điện trả lời của Phó Tổng Tham mưu trưởng Trần Hanh nhất trí với kiến nghị của đoàn làm phim, đến 9 giờ sáng hôm ấy máy bay trực thăng đã hạ cánh.

"Ngẫm lại, thấy rằng suốt cả chặng đường quả là nhiều lần mình đã ‘uống thuốc liều‘, tôi cũng hơi “sởn gai ốc”. Nhưng trong cái thời khắc cần có một sự quyết đoán như vậy chắc cũng chẳng còn cách nào khác”, Vũ Bình bật cười ha hả, ánh mắt loé lên sau cặp kính cận khá dày.

Vẫn chưa hết đâu, sau khi quay xong ở X-Ray thì trời có bão, máy bay trực thăng không tới đón được, và tôi phải đóng vai một vị tư lệnh bất đắc dĩ”, Vũ Bình thong thả kể tiếp. Anh nói với Tướng Harold Moore: “Ông là tướng, ông hãy chỉ huy phía Mỹ nhưng hãy đặt ông dưới sự chỉ huy của tôi vì tôi là chủ nhà, và hiểu rõ cần phải làm gì khi sự cố xảy ra”.

Tướng Harold Moore, theo lời Vũ Bình kể lại, đã nhìn thẳng vào mắt anh một lúc, trước khi dập chân đứng nghiêm theo tư thế nhà binh và dõng dạc nói: “Yes, Sir!” (Tuân lệnh, thưa Ngài! )

Những người cựu binh Mỹ tỏ ra rất chuyên nghiệp. Họ tìm ngay những cành cây to bằng cổ tay chặt ra, vót nhọn, rồi hơ lửa, để làm vũ khí tự vệ trong trường hợp xấu nhất. Đêm đó, họ phân công nhau “chong mắt” đứng gác như một đơn vị chiến đấu thực thụ. (Rất may đêm đó không có chuyện gì xảy ra và sáng hôm sau máy bay trực thăng tới bốc cả đoàn đi).

... Bộ phim này đã khiến tổng đài của hãng ABC nghẽn mạch như đã nói ở trên, thực sự tạo thành cú “hích” cuối cùng cho quyết định tuyên bố xoá bỏ cấm vận với Việt Nam của Tổng thống Bill Clinton.

Và người kể lại những câu chuyện này: Vũ Bình, nguyên là cán bộ của Trung tâm Báo chí (Bộ Ngoại Giao), lúc bấy giờ được cử làm Trưởng nhóm hướng dẫn cho đoàn làm phim.

Còn chúng tôi ghi chép lại những câu chuyện chưa bao giờ được kể này để cho thấy sức mạnh của "Truyền thông và những tác động chính trị" trong quá trình tăng cường hiểu biết giữa các quốc gia, mà chúng tôi đã đề cập trong nhiều phần trước.

Và chắc chắn vẫn còn rất nhiều câu chuyện như vậy nữa...!

  • Huỳnh Phan

Có lẽ nhược điểm lớn nhất của cuốn sách “We were soldiers... once young” là việc ở đoạn mở đầu ông Harold Moore miêu tả tính chất “giết chóc” của trận đánh quá “dữ dội” và “kỹ càng”.

Có lẽ, ông ta bị ám ảnh nhiều bởi cuốn “The street without joy” của nhà báo nổi tiếng Benard Fall kể về chuyện lính Pháp bị bộ đội Việt Minh phục kích trên đoạn đường An Khê – Pleiku, nên không phản ánh xác thực được tính lịch sử của trận đánh Ia Drang.

Bộ phim của Hollywood “We were soldiers...” có sự tham gia của diễn viên Đơn Dương trong vai Trung tá Nguyễn Hữu An còn tệ hơn vì các nhà làm phim chỉ khai thác khía cạnh “chém giết” vốn đặc trưng cho loại phim hành động & bạo lực của Mỹ. Trong phim này đã xây dựng hình ảnh sai lệch về ông Nguyễn Hữu An, một vị tướng tài ba trong chiến trận và tài hoa trong đời thường (ông làm thơ rất hay), một nhà quân sự rất thương lính, thương dân.

Một vài hình ảnh trong quá trình làm phim:

Từ một cuốn sách của tướng ba sao quân đội Mỹ Harold Moore và phóng viên Joe Galloway của hãng Thông tấn UPI, những người đã có mặt trong trận đánh Ia Drang lịch sử...

... được dựng lại thành một bộ phim kể về những người lính của cả 2 phía trong trận đụng độ tại Ia Drang. Bộ phim này được xem là "cú hích" cuối cùng để cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton quyết định bãi bỏ cấm vận với Việt Nam năm 1994.

Và đây là 2 vị chỉ huy của quân đội 2 phía từng đụng độ dữ dội tại Ia Drang. Khó có thể tưởng tượng cả tướng Nguyễn Hữu An và tướng Hal Moore lại có một ngày cùng đứng bên nhau trên chiến trường xưa, để cùng làm một bộ phim "hàn gắn" những vết thương giữa những người cựu binh của 2 phía.

Tướng Nguyễn Hữu An đang ngồi cùng những người bạn Mỹ trước ống kính truyền thông để kể về những câu chuyện xảy ra trong quá khứ.

Sau khi hoàn thành bộ phim này, họ đã trở thành một đôi bạn. Năm 1965, họ là chỉ huy của 2 đội quân đối đầu trong 1 trận chiến mà sau này tướng Moore viết trong cuốn sách của mình: “Ia Drang là trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến ở Việt Nam”.

Kỳ 1: Nhân quyền - Đâu chỉ có một cách nhìn nhận!

Kỳ 1: Nhân quyền - Đâu chỉ có một cách nhìn nhận!

Cập nhật lúc 16:54, Thứ Hai, 11/07/2005 (GMT+7)
,

VietNamNet lật lại hồ sơ về những câu chuyện chưa từng được kể trong quá trình tăng cường hiểu biết giữa Việt Nam - Hoa Kỳ nhân 10 năm bình thường hoá quan hệ giữa 2 nước.

Những câu chuyện VietNamNet lần lượt đăng tải dưới đây qua lời kể của một người trong cuộc:

Nhân quyền luôn là vấn đề mà Mỹ muốn áp đặt với các nước khác trong đó có Việt Nam, và luôn là rào cản trong tiến trình cải thiện quan hệ song phương.

Để có những nhận xét có tính khách quan và hiểu biết như của Cựu Đại sứ Peterson phát biểu bên lề Diễn đàn ‘'Quan hệ Việt - Mỹ: Hướng tới tương lai” vừa rồi, không chỉ hoàn toàn nhờ thiện chí của những người Mỹ mong muốn quan hệ hai nước tốt đẹp hơn, mà còn thông qua những cuộc tranh luận, nhiều khi rất gay gắt, để người Mỹ có thể hiểu và thông cảm với những khía cạnh “phức tạp” của vấn đề trong một bối cảnh chung mang cả tính đồng đại và lịch đại.

Câu chuyện về hai cuộc tranh luận giữa một cán bộ Trung tâm Báo Chí, Bộ Ngoại giao, với một nhà báo kỳ cựu và một sử gia nổi tiếng về vấn đề này có thể giúp bạn đọc có thêm một cái nhìn về quá trình “tăng cường hiểu biết” này.

Soạn: AM 478540 gửi đến 996 để nhận ảnh này

Khi tranh luận với phóng viên Henry Kamp của báo New York Times, người đàn ông này còn là một chàng phiên dịch rất trẻ của Trung tâm Báo chí Bộ Ngoại giao. Ảnh: H.N.

Câu chuyện thứ nhất: Phỏng vấn... phóng viên báo New York Times về vụ Mỹ Lai và chuyện nhân quyền

Vừa bước ra khỏi Bảo tàng về vụ thảm sát Mỹ Lai, Henry Kamp quay sang Vũ Bình, vừa nheo mắt vừa nói, nét mặt không giấu được vẻ tự hào: “Tôi là một trong những người đã có công phanh phui ra vụ này ra ánh sáng”.Vũ Bình hỏi luôn: “Vậy ông nghĩ thế nào về quan niệm nhân quyền của Mỹ trong cuộc chiến tranh ở Việt Nam?

... Đã hơn một tuần trong suốt chuyến đi xuyên Việt của mình từ Hà Nội vào đây, Henry Kamp, phóng viên cao cấp về đối ngoại của tờ New York Times, tờ báo có số lượng phát hành lớn nhất trong số những báo có uy tín nhất nước Mỹ, đã lặp đi lặp lại các câu hỏi về tình hình nhân quyền ở Việt Nam với tất cả các quan chức từ cấp Trung ương đến địa phương mà ông ta tiếp xúc.

Đối với những nhà lý luận có tầm cỡ như ông Nguyễn Phú Trọng, hay ông Đặng Xuân Kỳ, cách trả lời không có gì phải bàn. Nhưng với các quan chức cấp địa phương thì những câu hỏi này thực sự làm họ lúng túng.

Vào thời điểm năm 1993, quan hệ giữa hai nước sau gần 20 năm chiến tranh và tiếp đó là khoảng ngần ấy năm cấm vận kinh tế đã bắt đầu có những dấu hiệu được cải thiện. Trong bối cảnh đó, nếu vấn đề nhân quyền, vốn rất “nhạy cảm” với dư luận và Quốc hội Mỹ, được phản ánh một cách tiêu cực sẽ không hề có lợi cho những nỗ lực xích lại gần nhau của cả hai phía.

Tuy nhận thức được chuyện này, nhưng với tư cách một phiên dịch, Vũ Bình vẫn phải trung thành với những gì người ta nói, và kiên nhẫn chờ cơ hội “phản biện” lại với quan điểm của nhà báo Mỹ này.

Soạn: AM 478536 gửi đến 996 để nhận ảnh này

Mỹ Lai, vụ thảm sát rùng rợn năm 1968 đã được người kể lại câu chuyện này lấy làm ví dụ tranh luận với phóng viên Henry Kamp của New York Times về Nhân quyền và cách nhìn nhận nó.

Là người thu xếp chương trình, anh biết trước là họ sẽ phải qua Mỹ Lai, cũng như biết trước được vai trò của Henry Kamp trong việc phanh phui vụ thảm sát này (do Phái đoàn Đại diện Thường trực của Việt Nam tại Liên Hiệp Quốc báo về).

... Henry Kamp tự nhiên sững lại khi nghe câu hỏi của anh chàng phiên dịch trẻ của Bộ Ngoại giao Việt Nam. Vẻ lúng túng hiện rõ trong ánh mắt ông ta nhìn Vũ Bình. Rồi ông ta nói rằng đây chẳng qua là tội ác của một cá nhân, nhưng cũng công nhận là lúc đầu nó bị che giấu bởi các cấp trong quân đội Mỹ.

Vũ Bình nói luôn một hơi: “Rõ ràng việc này thể hiện chính sách của Mỹ, vì nếu chỉ là sự vi phạm của cá nhân thì việc gì họ phải che giấu. Hơn nữa với tội thảm sát dân thường như vậy tại sao mức án chỉ có 2 năm, và chỉ sau có hơn 1 năm trong tù viên trung uý sát nhân đó lại được chính Tổng thống Gerald Ford ký lệnh ân xá.

Như vậy, Chính quyền Mỹ không thể có một sự bào chữa, hay biện hộ nào cho sự vi phạm nhân quyền ở cấp cao nhất đối với người dân thường vô tội ở Việt Nam”.

Tôi nói với Henry Kamp rằng việc cải thiện nhân quyền là mong muốn chung của mọi người, mọi xã hội, trong đó có Việt Nam chúng tôi.

Nếu ông là nhà báo đến từ Thuỵ Điển, một nước đã ủng hộ chúng tôi rất nhiều từ trước đến nay, hay đến từ Anh, là nước ít liên quan đến chúng tôi, thì việc đặt vấn đề nhân quyền có thể chấp nhận được.

Nhưng người Mỹ các ông với cái cách nêu vấn đề như ông vẫn nêu thì hoàn toàn không có đủ tư cách, sau tất cả những gì mà Mỹ đã làm ở Việt Nam như Chuồng Cọp, Mỹ Lai, hay chất độc hoá học”, Vũ Bình kể lại trong trạng thái đầy phấn khích.

Nhân đà này, anh tự trả lời luôn vấn đề mà Henry Kamp cũng rất quan tâm trong các cuộc tiếp xúc là việc tại sao Chính quyền Việt Nam lại phải giam giữ những sĩ quan chế độ cũ lâu hơn tuyên bố ban đầu của họ. Anh lưu ý nhà báo New York Times về bối cảnh có những cuộc chiến tranh ở biên giới phía Tây - Nam..., cộng thêm với những toán biệt kích liên tục được cử từ Mỹ về để lật đổ chính quyền.

Một triệu quân của chế độ Sài Gòn hầu như vẫn còn nguyên, vì chúng tôi không đánh để tiêu diệt mà chỉ đánh cho tan rã với mục đích hoà hợp dân tộc sau này. Đồng thời, lúc đó những kho vũ khí bí mật để lại chúng tôi vẫn chưa phát hiện ra. Trong hoàn cảnh đó liệu có chính quyền nào, kể cả chính quyền Mỹ các ông, dám thả họ ra không?”, Vũ Bình hỏi vặn lại Henry Kamp.

Từ đó đến Sài Gòn, trong suốt phần còn lại của chuyến đi, Henry Kamp không hề đả động gì đến chuyện nhân quyền nữa trong các cuộc phỏng vấn của mình mà chỉ tập trung hỏi về kinh tế.

Sau khi về Mỹ, ông ta có gửi cho Vũ Bình một bức thư ngắn, cám ơn về “một chuyến đi đã mang lại hiểu biết nhiều hơn về đất nước, con người Việt Nam", và về những vấn đề đặt ra trong đầu ông ta trước đó.

Tôi nghĩ đối với một nhà báo kỳ cựu ở cái tuổi gần 70, một cái tuổi rất khó thay đổi trong tư duy, như Henry Kamp, chừng ấy ấn tượng cũng là quí lắm rồi. Nếu ông ta có viết về nhân quyền chắc ông ta cũng phải cân nhắc chứ không đến nỗi tệ như ông ta hình dung ban đầu”, Vũ Bình lý giải.

  • Huỳnh Phan