Hiển thị các bài đăng có nhãn Phóng viên chiến trường. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Phóng viên chiến trường. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Sáu, 13 tháng 4, 2012

Con đường của ký ức

Ngày 26/04/2010, 15:58:49 (GMT+7)
Con đường của ký ức
SGTT - Kết thúc cuộc Hội ngộ Phnom Penh, vào sáng 24.4 Mike Morrow cùng với ba đồng nghiệp khác lên chiếc xe buýt của hãng Caravan về TP. HCM để gặp gỡ với một nhóm phóng viên khác trong cuộc Hội ngộ Sài Gòn. Chốc chốc, ông lại ngó ra bên ngoài cửa kính xe, vẻ mặt đầy ưu tư.
Mike Morrow (ngồi ngoài bên phải) thoát chết nhờ bộ đội Việt Nam cứu
“Tôi là một trong những phóng viên đầu tiên bị bắt ở Campuchia, trong cuộc chiến kéo dài 5 năm này”, Mike nói. Hai người còn lại là Richard Dudman của St Louis Post-Dispatch và Elizabeth Pond của Christian Science Monitor.
May mắn rơi vào tay bộ đội Việt Nam
Vào một ngày cuối tháng 3.1970, khi đang đưa tin về trận chiến đấu giữa bộ đội Việt Nam và quân đội của chính quyền Lon Nol tại thị xã Svay Rieng, cách thủ đô Phnom Penh khoảng 90km, chàng trai mới 24 tuổi đời và hai tuổi nghề đã bị bắt.
“Tôi đã may mắn sống sót nhờ rơi vào tay bộ đội Việt Nam, chứ không phải Khmer Đỏ, và tôi chịu ơn họ vì điều này”, Mike nói.
Tuy nhiên, trước khi “rơi vào tay” bộ đội Việt Nam, anh đã bị lính Khmer Đỏ và dân làng gần đó lấy gậy phang cho thừa sống thiếu chết. Người chỉ huy đơn vị bộ đội Việt Nam có nói với Mike rằng ông ta đã kỷ luật người lính cấp dưỡng, vì mặc dù có mặt ở hiện trường mà lại không can thiệp, khi Mike bị đánh.
“Tôi bị giải đi hết chỗ này đến chỗ khác, và bị tra hỏi khá nhiều. Họ chỉ quyết định trả tự do cho tôi, khi đã thật sự tin rằng tôi chỉ là phóng viên đưa tin chiến sự thuần tuý, chứ không có bất cứ một mục đích nào khác”, Mike nói.
Mike cùng hai đồng nghiệp Mỹ được thả sau 40 ngày. “Khi được tự do, điều khiến tôi lo lắng nhất là liệu hai quân nhân, một Việt Nam và một Campuchia, có nhiệm vụ áp giải chúng tôi suốt thời gian đó, có sống sót được không, bởi cuộc chiến quá khốc liệt. Trước khi bị bắt tôi đã chứng kiến khá nhiều binh sĩ Việt Nam bị bắn chết, thậm chí cả một cái xác bị cháy thui”, Mike ngậm ngùi kể lại.
Anh với hai người áp giải mình, nhất là viên sĩ quan quân đội Việt Nam biết nói tiếng Anh, đã kịp trở thành những người bạn. Thậm chí, trước khi Mike được thả một tuần, khi đang bị giải trên đường, quân đội Mỹ không hiểu vì sao biết có người Mỹ bị bắt đã cử trực thăng đến giải cứu.
Mike kể: “Viên sĩ quan Việt Nam đưa cho tôi chiếc khăn tay (để vẫy trực thăng), và bảo tôi chạy nhanh ra phía cánh đồng lúa. Còn anh ta và người đồng đội Campuchia giương súng bắn lên trời, rồi sẽ rút đi theo hướng ngược lại. Có điều, sau vài loạt đạn nổ, chiếc trực thăng quay đầu bay luôn. Thế là, chúng tôi lại tiếp tục hành trình của mình như cũ”.
Sự biết ơn của Mike về cách ứng xử của bộ đội Việt Nam đã được thể hiện trong bài viết đầu tiên sau khi trở lại Sài Gòn. Trong bài viết này, Mike đã nhắc đến sự che chở của các sĩ quan quân đội Việt Nam đối với anh và hai đồng nghiệp. “Nhận xét này của tôi đã không được chính quyền Sài Gòn đánh giá cao. Và, có lẽ, đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến tôi bị họ trục xuất khỏi miền Nam Việt Nam một năm sau đó”, Mike khẽ nhún vai.
Người cựu đồng nghiệp của Mike, Carl Robinson, ngồi cách hai hàng ghế ở phía đối diện, chợt nói với lên: “Flynn cũng bị bắt trên quốc lộ 1 này, tại thị trấn Chiphou. Nhưng anh ta rơi vào tay quân Khmer Đỏ, và mãi mãi không trở về nữa”.
Vai diễn cuối cùng của Sean Flynn
Bà Kim Dung, vợ của Carl Robinson, kể lại rằng lần đó suýt nữa chồng bà cũng nhập hội với Sean Flynn và Dana Stone, đi đưa tin chiến sự ở Campuchia. Sang đến đất Campuchia, Carl đã bị trục xuất ngược trở về vì khi đi quên không lấy visa.
“Sean với ông Carl nhà tôi chơi thân lắm, và Sean còn là phù rể trong đám cưới chúng tôi trước đó một năm. Nên mấy ông nội này hay rủ nhau đi làm chung”, bà Kim Dung kể lại.
“Tôi không hiểu sao lúc đó chúng tôi lại có ý tưởng điên rồ như thế. Ở Cam pu chia, phóng viên phải đi tác nghiệp bằng xe hơi tự thuê, chứ không tới được nơi có chiến sự bằng trực thăng Mỹ như ở Việt Nam”, Carl nói, và cho biết thêm trước khi về ông đã cố ngăn Sean và Dana đừng đi.
Sean và Dana vẫn cứ đi, mà còn đi bằng xe máy. Người con trai của tài tử huyền thoại của Hollywood – Errol Flynn – cũng như cha mình, rất thích mạo hiểm. Bản thân Sean đã bỏ sang Sài Gòn làm phóng viên ảnh tự do, khi còn đang đóng phim ở Singapore.
Carl kể lại rằng, hình ảnh cuối cùng về Sean và Dana mà các phóng viên chiến trường khác nhìn thấy vào sáng 6.4.1970, trước khi cả hai bị mất tích vĩnh viễn, là hai chàng cao bồi cưỡi hai chiếc Honda 90 màu đỏ. Theo nhiều nguồn tin khác nhau, họ được coi là đã rơi vào tay quân Khmer Đỏ.
“Trên con đường này, chỉ riêng trong mười ngày đầu tiên của tháng 4.1970, đã có chín phóng viên bị bắt và bị giết. Hai năm sau, lại thêm ba người nữa ở khu vực phà Neak Leung”, Carl nói.
Mạch chính của cuộc chiến Đông Dương
“Quốc lộ 1 này của Campuchia, nối với đường 52 ở phía Việt Nam đến thẳng Sài Gòn, rồi từ đó nối với quốc lộ 1 của Việt Nam ra Hà Nội, là do người Pháp xây dựng. Và cũng từ đó, nó trở thành mạch chính của cuộc chiến tranh ở Đông Dương”, Mike triết lý.
Khi chiếc buýt đang chạy trên đường 52 (nay là đường Xuyên Á), Carl chợt chỉ tay sang bên trái đường, phía ngôi nhà thờ Cao Đài, và hỏi: “Có ai biết chuyện gì đã xảy ra ở đây không, khi dân làng bị bom napalm đã bỏ chạy ra quốc lộ?”
Rồi ông tự trả lời: “Có một phóng viên ảnh đã chụp được bức ảnh này và đoạt giải Pulitzer”.
Nhưng hơn thế nữa, bức ảnh này, cùng với bức ảnh tướng Nguyễn Ngọc Loan giương súng lục bắn vào thái dương một tù binh Việt cộng, và loạt bài viết về cuộc thảm sát Mỹ Lai, đã được coi là những đóng góp quan trọng của giới phóng viên chiến trường phương Tây vào việc tạo ra “cuộc chiến trong lòng nước Mỹ”.
Huỳnh Phan – Lam Phong – Hoài Nam

Thứ Hai, 14 tháng 11, 2011

"Cú hích" cuối cùng cho một quyết định lịch sử

Thứ ba, 12 Tháng bảy 2005, 15:29 GMT+7

"Cú hích" cuối cùng cho một quyết định lịch sử

Câu chuyện về quá trình quay 1 bộ phim được xem là "cú hích cuối cùng" để Tổng thống Bill Clinton quyết định tuyên bố xóa bỏ cấm vận với Việt Nam năm 1994, là tiền đề cho bình thường hoá quan hệ giữa 2 nước

Quan hệ ngoại giao giữa Việt Nam và Mỹ được chính thức bình thường hoá vào ngày 12/7/1995, nhưng để có được sự kiện lịch sử này phải kể đến một quyết định rất táo bạo, mang tính đột phá trong quan hệ hai nước: Bỏ cấm vận với Việt Nam.

Theo như lời ông Pete Peterson, Đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam, phát biểu ở Diễn đàn “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: Con đường đi tới” đầu tháng 6 vừa rồi: Mặc dù đã có quyết sách rõ ràng nhưng để đi tới quyết định này ông Clinton rất cần có một chất “xúc tác” là sự ủng hộ của giới cựu binh Mỹ.

Một bộ phim tài liệu được quay ở Việt Nam vào tháng 10/ 1993 và phát trên kênh truyền hình ABC News vào tháng 1/1994, đã được coi là cú “hích” cuối cùng cho quyết định này.

Ngay sau khi phát xong bộ phim dài khoảng 35 phút này trong chương trình Day-One, tổng đài của hãng ABC đã bị nghẽn mạch bởi rất nhiều cuộc gọi của các cựu binh “Chiến tranh Việt Nam” trên toàn nước Mỹ.

Họ bày tỏ sự xúc động của mình và chia sẻ cách nhìn nhận của các nhà làm phim: Cựu binh của cả hai phía bắt tay nhau trên chiến trường xưa - một hình ảnh mới trong quan hệ giữa hai cựu thù!

Chưa đầy một tháng sau đó, vào ngày 3/2/1994, Tổng thống Bill Clinton trịnh trọng tuyên bố xoá bỏ cấm vận với Việt Nam!

Tháng 10/1993, tại Ia Drang (Việt Nam), hai vị tướng Nguyễn Hữu An và Hal Moore có cái bắt tay lịch sử. Năm 1965, tại đây, họ là chỉ huy của quân đội 2 phía trong một trận đánh khốc liệt được xem là "đã làm thay đổi cuộc chiến ở Việt Nam”.

Cái bắt tay trên chiến trường xưa...

Trận đánh lịch sử Ia Drang, diễn ra năm 1965, là một trận đánh chiến thuật nhưng mang tính chiến lược vì trong suốt thời kỳ chiến tranh Việt Nam chưa bao giờ phía Mỹ lại bị tổn thất lớn như thế trong một trận đánh với 2 tiểu đoàn “Kỵ Binh bay” bị loại ra khỏi vòng chiến đấu.

Thương vong về phía Việt Nam con số cũng rất khác nhau. Phía Mỹ nói là nhiều, trong khi đó theo Đại tướng Võ Nguyên Giáp, Đại tướng Chu Huy Mân (lúc đó là Bí thư Mặt trận B5), hay Thượng tướng Nguyễn Hữu An... mà các nhà làm phim có dịp phỏng vấn, thì số thương vong của phía Việt Nam nhỏ hơn rất nhiều so với số liệu phía Mỹ đưa ra.

Sau trận đánh này, Quân đội Mỹ phải xem xét lại về “sức mạnh vô địch” của lực lượng kỵ binh bay, còn phía Việt Nam cũng hình dung được cách đánh Mỹ như thế nào.

Đúng như lời nhận xét ngắn gọn của Tướng Harold Moore ở bìa đầu cuốn sách: “Ia Drang là trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến ở Việt Nam”.

Bộ phim với tựa đề “They were soldiers... once young... and brave” (Họ từng là những người lính... trẻ trung... và quả cảm) được xây dựng dựa theo cuốn sách “Wewere soldiers once... and young” (Chúng ta từng là những người lính... và trẻ mãi) của Tướng ba sao quân đội Mỹ Harold Moore và phóng viên Joe Galloway của hãng Thông tấn UPI, những người đã có mặt trong trận đánh Ia Drang lịch sử.

Trong cuốn sách của mình, hai đồng tác giả muốn nhấn mạnh đến tính chất khốc liệt, chết chóc của trận đánh đó và sự quả cảm của những người lính trẻ Mỹ. Các nhà làm phim đến Việt Nam với một kịch bản như vậy thông qua hành trình trở lại chiến trường xưa của những cựu binh Mỹ còn sống này.

Tôi nói với họ rằng trong phim phải nêu được tinh thần chiến đấu anh dũng của bộ đội Việt Nam như một sự thật lịch sử. Nếu không họ hãy đề nghị người khác, chứ không phải là tôi, cộng tác”, Vũ Bình kể lại.

Quan điểm của Vũ Bình trong cuộc tranh luận với đạo diễn Terry Wrong và bình luận viên nổi tiếng của hãng ABC Sawyer Forest sau đó đã được Tướng Harold Moore xác nhận.

Vị tướng này đã bày tỏ sự khâm phục thực sự đối với những người phía bên kia chiến tuyến trong trận đánh đó.

Trong phim có một cảnh không chỉ làm các cựu binh Mỹ xúc động, mà còn khiến bản thân những người làm phim thấy “cay cay trong mắt”: Hình ảnh các cựu binh Việt Nam và Mỹ, trong đó có Thượng tướng Nguyễn Hữu An (nguyên Tư lệnh Mặt trận B5), Tướng Harold Moore (nguyên Trung tá Chỉ huy Lực lượng Kỵ binh bay của Mỹ), khoác vai nhau đứng mặc niệm những người đã khuất của cả hai phía, cùng những lời phát biểu đầy xúc động của họ về những người đã nằm yên dưới lòng đất.

Điều thứ hai tôi muốn họ nhấn mạnh trong bộ phim là quan điểm của Việt Nam “sẵn sàng gác lại quá khứ, hướng tới tương lai. Và những người đi tiên phong trong chính sách này chính là các cựu binh Việt Nam”, Vũ Bình kể tiếp.

Có một điều rất thú vị là sau khi bộ phim được hoàn thành, bắc thêm một “nhịp cầu” giữa cựu binh hai nước, thì hai “nhân vật chính” trong phim lại trở thành những người bạn ngoài đời.

Tướng Harold Moore hễ lần nào sang Việt Nam lại đến thăm Tướng Nguyễn Hữu An. Đến khi vị danh tướng Việt Nam qua đời vị tướng Mỹ này đã nhiều lần đến thắp hương trước bàn thờ ông.

Những người tham gia trận đánh đó rõ ràng là những người lính trẻ quả cảm. Và những người còn sống lại thực sự là những người lính già cao thượng”, nhà báo kỳ cựu Joe Galloway, đồng tác giả của cuốn sách, đã thốt lên với Vũ Bình như vậy khi gặp lại anh tại Hà Nội trong dịp kỷ niệm 30 năm kết thúc Chiến tranh Việt Nam.

Chỉ huy cả tướng Mỹ vì là... chủ nhà!

Có lẽ họ bị thuyết phục bởi những bằng chứng lịch sử tôi đưa ra, và, hơn thế nữa, là ý tưởng của tôi muốn làm cho bộ phim có tầm vóc lớn hơn, đóng góp vào mối quan hệ của hai nước”, Vũ Bình giải thích lý do các nhà làm phim Mỹ đồng ý với lập luận của anh. Còn trong suốt quá trình làm phim, họ luôn làm việc với anh như với một “co-producer” (đồng đạo diễn).

Có một điều nữa mà chỉ khi bộ phim đã được hoàn thành, các nhà làm phim Mỹ mới nói lại với Vũ Bình, là họ cũng hình dung được sự khó khăn khi thực hiện bộ phim này qua ba lần sang Việt Nam đi “tiền trạm”. Chính sự kiên quyết đến “dữ dội” của anh trong khi trình bày quan điểm khiến họ cảm thấy yên tâm là bộ phim sẽ được thực hiện thành công cùng với anh.

Thực tế đã chứng minh mối lo của các nhà làm phim Mỹ là có thật. Mặc dù đã có sự đồng ý bằng văn bản của các cấp lãnh đạo rất cao nhưng Vũ Bình vẫn phải giải thích cặn kẽ về bộ phim với các cơ quan có liên quan ở cấp địa phương, hay quân khu quân đoàn, để được phép vào quay ở những nơi mà vào thời điểm đó vẫn bị coi là nhạy cảm về mặt an ninh quốc phòng, đặc biệt là đối với truyền hình Mỹ.

Cuối cùng thì thông điệp của bộ phim là Việt Nam muốn “chìa tay” ra với tất cả, kể cả với người Mỹ, và sự có mặt của Tướng Nguyễn Hữu An trong nhiều cuộc gặp của tôi với họ như là một sự xác nhận cho thông điệp này, cũng thuyết phục được mọi người”, Vũ Bình nói.

Nhưng gay go nhất là khi mọi chuyện tưởng như ổn thoả thì một vấn đề kỹ thuật lại nảy sinh: Bộ Ngoại Giao ngoài Hà Nội điện vào cho biết là không thoả thuận được với Bộ Quốc Phòng để lấy máy bay trực thăng đưa đoàn làm phim quay lại bãi chiến trường xưa!

Phải rất nỗ lực, cần đến sự đồng ý của những tướng lĩnh cấp cao của Bộ Quốc phòng Việt Nam, chiếc trực thăng này mới có thể có mặt tại địa điểm nơi ngày xưa là bãi chiến trường. Trong ảnh: Tướng Hal Moore và bình luận viên của hãng ABC Forrest Sawyer đang có mặt tại nơi ngày xưa từng xảy ra những đụng độ khốc liệt: Ia Drang.

Đây là một vùng "rất nhạy cảm" nằm cách biên giới với Cam-pu-chia theo đường chim bay khoảng 2 - 3 cây số. Lúc đó, tàn quân của Khơ me Đỏ và Fulro vẫn còn hoạt động.

Tôi qua Quân đoàn 3, gặp anh Bình là Thiếu tướng Tư lệnh nhờ anh cho sử dụng đường dây riêng để gửi gấp bức điện tôi tự thảo và ký với danh nghĩa là trưởng nhóm làm phim, kiến nghị Cục tác chiến (Bộ Tổng Tham mưu) cấp cho một máy bay trực thăng để bảo đảm cho chương trình này thành công”, Vũ Bình nhớ lại.

Tới nửa đêm hôm đó, khi anh Trung uý công an đi cùng đoàn để bảo đảm an ninh nghẹn ngào nhắc tới cô vợ trẻ mới cưới được một tuần của mình, tôi mới “giật mình”, thực sự cảm nhận được mối nguy hiểm đang rình rập chúng tôi.

Chứ cho đến lúc đó tôi chỉ hoàn toàn chỉ nghĩ đến tác dụng của sản phẩm của mình đối với quan hệ hai nước”,
Vũ Bình vừa nói, vừa nhấc cặp kính ra lau.

Sáng sớm hôm sau, khi nhận được điện trả lời của Phó Tổng Tham mưu trưởng Trần Hanh nhất trí với kiến nghị của đoàn làm phim, đến 9 giờ sáng hôm ấy máy bay trực thăng đã hạ cánh.

"Ngẫm lại, thấy rằng suốt cả chặng đường quả là nhiều lần mình đã ‘uống thuốc liều‘, tôi cũng hơi “sởn gai ốc”. Nhưng trong cái thời khắc cần có một sự quyết đoán như vậy chắc cũng chẳng còn cách nào khác”, Vũ Bình bật cười ha hả, ánh mắt loé lên sau cặp kính cận khá dày.

Vẫn chưa hết đâu, sau khi quay xong ở X-Ray thì trời có bão, máy bay trực thăng không tới đón được, và tôi phải đóng vai một vị tư lệnh bất đắc dĩ”, Vũ Bình thong thả kể tiếp. Anh nói với Tướng Harold Moore: “Ông là tướng, ông hãy chỉ huy phía Mỹ nhưng hãy đặt ông dưới sự chỉ huy của tôi vì tôi là chủ nhà, và hiểu rõ cần phải làm gì khi sự cố xảy ra”.

Tướng Harold Moore, theo lời Vũ Bình kể lại, đã nhìn thẳng vào mắt anh một lúc, trước khi dập chân đứng nghiêm theo tư thế nhà binh và dõng dạc nói: “Yes, Sir!” (Tuân lệnh, thưa Ngài! )

Những người cựu binh Mỹ tỏ ra rất chuyên nghiệp. Họ tìm ngay những cành cây to bằng cổ tay chặt ra, vót nhọn, rồi hơ lửa, để làm vũ khí tự vệ trong trường hợp xấu nhất. Đêm đó, họ phân công nhau “chong mắt” đứng gác như một đơn vị chiến đấu thực thụ. (Rất may đêm đó không có chuyện gì xảy ra và sáng hôm sau máy bay trực thăng tới bốc cả đoàn đi).

... Bộ phim này đã khiến tổng đài của hãng ABC nghẽn mạch như đã nói ở trên, thực sự tạo thành cú “hích” cuối cùng cho quyết định tuyên bố xoá bỏ cấm vận với Việt Nam của Tổng thống Bill Clinton.

Và người kể lại những câu chuyện này: Vũ Bình, nguyên là cán bộ của Trung tâm Báo chí (Bộ Ngoại Giao), lúc bấy giờ được cử làm Trưởng nhóm hướng dẫn cho đoàn làm phim.

Còn chúng tôi ghi chép lại những câu chuyện chưa bao giờ được kể này để cho thấy sức mạnh của "Truyền thông và những tác động chính trị" trong quá trình tăng cường hiểu biết giữa các quốc gia, mà chúng tôi đã đề cập trong nhiều phần trước.

Và chắc chắn vẫn còn rất nhiều câu chuyện như vậy nữa...!

  • Huỳnh Phan

Có lẽ nhược điểm lớn nhất của cuốn sách “We were soldiers... once young” là việc ở đoạn mở đầu ông Harold Moore miêu tả tính chất “giết chóc” của trận đánh quá “dữ dội” và “kỹ càng”.

Có lẽ, ông ta bị ám ảnh nhiều bởi cuốn “The street without joy” của nhà báo nổi tiếng Benard Fall kể về chuyện lính Pháp bị bộ đội Việt Minh phục kích trên đoạn đường An Khê – Pleiku, nên không phản ánh xác thực được tính lịch sử của trận đánh Ia Drang.

Bộ phim của Hollywood “We were soldiers...” có sự tham gia của diễn viên Đơn Dương trong vai Trung tá Nguyễn Hữu An còn tệ hơn vì các nhà làm phim chỉ khai thác khía cạnh “chém giết” vốn đặc trưng cho loại phim hành động & bạo lực của Mỹ. Trong phim này đã xây dựng hình ảnh sai lệch về ông Nguyễn Hữu An, một vị tướng tài ba trong chiến trận và tài hoa trong đời thường (ông làm thơ rất hay), một nhà quân sự rất thương lính, thương dân.

Một vài hình ảnh trong quá trình làm phim:

Từ một cuốn sách của tướng ba sao quân đội Mỹ Harold Moore và phóng viên Joe Galloway của hãng Thông tấn UPI, những người đã có mặt trong trận đánh Ia Drang lịch sử...

... được dựng lại thành một bộ phim kể về những người lính của cả 2 phía trong trận đụng độ tại Ia Drang. Bộ phim này được xem là "cú hích" cuối cùng để cựu Tổng thống Mỹ Bill Clinton quyết định bãi bỏ cấm vận với Việt Nam năm 1994.

Và đây là 2 vị chỉ huy của quân đội 2 phía từng đụng độ dữ dội tại Ia Drang. Khó có thể tưởng tượng cả tướng Nguyễn Hữu An và tướng Hal Moore lại có một ngày cùng đứng bên nhau trên chiến trường xưa, để cùng làm một bộ phim "hàn gắn" những vết thương giữa những người cựu binh của 2 phía.

Tướng Nguyễn Hữu An đang ngồi cùng những người bạn Mỹ trước ống kính truyền thông để kể về những câu chuyện xảy ra trong quá khứ.

Sau khi hoàn thành bộ phim này, họ đã trở thành một đôi bạn. Năm 1965, họ là chỉ huy của 2 đội quân đối đầu trong 1 trận chiến mà sau này tướng Moore viết trong cuốn sách của mình: “Ia Drang là trận đánh đã làm thay đổi cuộc chiến ở Việt Nam”.

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Dương Văn Minh qua con mắt thuộc cấp

"Cái giá của 30 năm chiến tranh (1945-1975) nó nặng nề lắm. Mọi người phải hiểu, để bình tĩnh mà phát triển" - nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu nói trong cuộc họp báo với phóng viên quốc tế nhân 35 năm kết thúc chiến tranh Việt Nam.

Trong hồi ức của mình, Kiến trúc sư Nguyễn Hữu Thái, người có mặt khi ông Dương Văn Minh, Tổng thống cuối cùng của chế độ Sài Gòn đọc tuyên bố đầu hàng tại Đài Phát thanh Sài Gòn vào trưa 30.4.1975, đã viết:
"... Dẫu sao ông cũng đã hy sinh danh dự của một tướng lãnh (dù là một tướng bại trận) để cứu thành phố này khỏi cảnh tàn phá và đổ nát. Sau này tôi mới biết là ông và bộ tham mưu từ mấy ngày qua đã quyết định đầu hàng dẫu có bị đối xử không tương xứng của phía đối nghịch.
Đó cũng là một hành động can đảm và đáng ca ngợi của một Phật tử vào cuối đời. ... Ít ra ông còn giữ được nguyên vẹn Sài Gòn và phần còn lại của miền Nam tránh khỏi đổ nát và đổ máu thêm một cách vô ích...
Nhận xét của người cựu Chủ tịch Tổng hội Sinh viên Sài Gòn đã được một nhân chứng lịch sử - cựu Đại uý Phạm Xuân Thệ (nay là Trung tướng) - khẳng định một phần trong các bài viết về ông.
Phần còn lại cũng đã được nói tới bởi những nhân chứng lịch sử khác, ở một lát cắt lịch sử khác, và từ một góc nhìn khác. Họ là ông Nguyễn Hữu Hạnh, chuẩn tướng Quân đội Việt Nam Cộng hoà, Luật sư Triệu Quốc Mạnh, hay nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu - những thành viên của nội các cuối cùng của chế độ Sài Gòn. Thường là trong các cuộc họp báo quốc tế, được tổ chức 5 năm một lần.
Ngày 28.4 năm ngoái, họ lại tiếp tục thực hiện cái nhiệm vụ định kỳ này. Nhưng với họ, cuộc họp báo hôm đó không hề mang tính nghĩa vụ nữa, mà đã có thêm ý nghĩa của một sự sẻ chia một hồi ức chung. Và những câu hỏi từ dưới cử toạ lại mang ý nghĩa của một sự gợi mở.
Bởi trong số cử toạ ở dưới có một nhóm nhỏ phóng viên quốc tế - những người đã từng có mặt trên mảnh đất Sài Gòn này trên dưới bốn thập kỷ trước, và cũng chứng kiến được nhiều điều tương tự như họ. Mặc dù, không nhất thiết phải là những ngày cuối của tháng Tư năm 1975.
Đó là những cái tên như Simon Dring và Jim Pringle (Reuters), Don Kirk (Washington Star), Mike Morrow (Dispatch News Service), hay James Caccavo (Red Cross).
Các phóng viên nước ngoài tại cuộc họp báo quốc tế tổ chức ngày 28.4.2010 tại TP.HCM
Tất cả những điều đó gộp lại đã khiến cho người viết, từng tham dự ba cuộc họp báo tương tự trước đó, kể từ năm 1995, tại Sở Ngoại vụ TP HCM, cảm nhận được một sự cởi mở chưa từng có, nói đúng hơn là sự "mở lòng". Nhất là khi các nhân chứng nói về ông Dương Văn Minh, đại tướng, Tổng thống VNCH - một nhân vật gây tranh cãi trong những ngày cuối cùng của tháng Tư lịch sử ấy, trước khi Đại uý Thệ và các đồng đội của ông tiến vào Dinh Độc Lập.
Và qua đó, người viết cũng hiểu thêm rằng, tại sao cố Thủ tướng Võ Văn Kiệt lại nhận xét về ông Dương Văn Minh trong bài trả lời phỏng vấn tuần báo Quốc tế nhân 30 năm thống nhất đất nước (30.4.2005):
"Bản thân tôi cùng với anh em được giao tiếp quản Sài Gòn năm 1975, một Sài Gòn nguyên vẹn sau một cuộc chiến tranh như vậy, tôi nghĩ không thể không nói đến vai trò của nội các Dương Văn Minh và các lực lượng chính trị đối lập với Mỹ - Thiệu, có quan hệ với chính phủ Dương Văn Minh lúc bấy giờ".
Tuần Việt Nam giới thiệu lại cuộc họp báo quốc tế tại TP.HCM ngày 28/4/2010 như một tư liệu để tham khảo.
Simon Dring: Vào thời điểm cuối 1964, khi lực lượng Việt Cộng hoạt động rất mạnh và rất gần khu vực Sài Gòn, một số người nghĩ rằng Sài Gòn sẽ nhanh chóng bị thất thủ. Lúc đó, Mỹ chưa đưa quân vào Việt Nam.
Xin cho biết cảm nghĩ của ông lúc đó. Ông muốn chiến tranh kết thúc với sự thất thủ của Sài Gòn, hay người Mỹ đưa quân vào?
Ông Nguyễn Hữu Hạnh
Nguyễn Hữu Hạnh: Tôi là trung tá, trưởng phòng 2 cho ông Dương Văn Minh, từ năm 1959. Lúc đó, ông Minh là Tư lệnh Bộ Tư lệnh Hành quân.
Tất cả những nhân vật quan trọng (của Mỹ) đến Việt Nam đều đến thăm ông Minh hết, và (những lần đó) đều có mặt tôi hết. Họ đều hỏi ý kiến ông Minh về việc đưa quân Mỹ vào Việt Nam. Nhưng ông Minh đều từ chối.
Khi đảo chính Ngô Đình Diệm, ông Minh đã phá tất cả những ấp chiến lược mà Mỹ đã làm. Điều đó đã khiến Mỹ không bằng lòng.
Mỹ lại yêu cầu đổ quân vào miền Nam, và ông Minh lại từ chối. Mỹ yêu cầu ném bom miền Bắc và phá đê sông Hồng, ông Minh cũng lại từ chối. Lúc đó, người Mỹ nói rằng ông Minh là người khó hợp tác. Thế là năm 1964, Nguyễn Khánh đảo chánh Dương Văn Minh.
Dương Văn Minh là người muốn chấm dứt chiến tranh cho đất nước Việt Nam, mặc dù ổng cầm súng của Mỹ. Có nhiều người có nhiều cách nói về ông ấy lắm. Khi ông ấy lên Tổng thống, ông ấy ký một cái giấy yêu cầu cố vấn của Mỹ phải rút đi trong vòng 24 tiếng đồng hồ, để giải quyết vấn đề chiến tranh Việt Nam.
Mike Morrow: Tôi được biết Dương Văn Minh có người em trai ở phía bên kia. Vậy ông Minh, và có thể là cả ông nữa, lần đầu tiên liên hệ với Mặt trân Dân tộc Giải phóng là khi nào? Những năm 50, 60, hay chỉ đến khi Sài Gòn chuẩn bị sụp đổ?
Nguyễn Hữu Hạnh: Câu hỏi tốt. Tôi có thể nói rằng người Việt Nam chúng tôi có tới 95% là có người thân ở cả hai phía. Tôi cũng có những người bà con là đảng viên cộng sản. Hay ông Võ Văn Kiệt, một người lãnh tụ ở miền Nam này, cũng có người thân bên phía chúng tôi.
Có điều, lúc đó người Mỹ chưa có hiểu người Việt Nam đâu. Nếu có ai đó mà có tội do liên quan đến cộng sản, ngay ở chính quyền Sài Gòn cũng vẫn có người cảm thông, giúp đỡ. Tôi không hiểu người Mỹ, hay CIA, có hiểu được điều này không, nhưng đây là một đặc điểm quan trọng của người Việt chúng tôi.
Vào ngày 2.5.1975, khi mà ông Dương Văn Minh gặp ông Trần Văn Trà - một tướng cộng sản, người nhận lãnh thành phố này -, ông Trà đã nói rằng giữa chúng ta không có kẻ thua người thắng, mà dân tộc Việt Nam chúng ta thắng đế quốc Mỹ.
Don Kirk: Tôi có nghe về những trại cải tạo sau 4.1975. Chẳng hạn, đến năm 1985, tôi được nghe rằng có những người đi cải tạo mà vẫn chưa được về. Điều này có ngược lại tinh thần của Tướng Trà nói với Tướng Minh hay không?
Câu hỏi này cũng rất hay. Chắc ông cũng biết là trong lúc mới giải phóng, ý tưởng của Đảng (Cộng sản Việt Nam) là như vậy.
Nhưng nói thực sự với quý ông, tôi được mời tham vào Mặt trận Tổ quốc Việt Nam của thành phố (HCM), nhưng mà tôi vẫn ái ngại về điều đó. 30 năm đánh nhau ắt hẳn phải có điều nọ điều kia giữa những người nọ và những người kia.
Vào năm 1988, tôi có viết một cái bài về hoà hợp dân tộc. Tôi vẫn nghĩ rằng (mặc dù) Đảng Cộng sản Việt Nam muốn điều này, nhưng vẫn còn để một số vấn đề xảy ra.
Sau bài viết của tôi, ông bí thư (thành uỷ), rồi ông chủ tịch Mặt trận, đã có những hành động tốt. Các quý vị cũng biết là sau khi hai bên đánh nhau, thì cũng có nhiều khó khăn để giải quyết lắm, và cũng cần thời gian.
Nhà sử học Nguyễn Đình Đầu, nguyên Trưởng đoàn đàm phán của chính quyền Dương Văn Minh tại trại David, kể:
Chiều 28.4, ông Dương Văn Minh nhậm chức. Sáng 29.4, ông Dương Văn Minh cử tôi đưa một phái đoàn đi trại David, nơi có đại diện của chính phủ Cách mạng Lâm thời Cộng hoà miền Nam Việt Nam, để điều đình việc ngưng chiến.
Tôi được đại diện của phía bên kia cho biết là chiến dịch Hồ Chí Minh đã bắt đầu, và vì thế không thể ngưng chiến ngay được, mà cần một thời gian.
Simon Dring: Vào lúc 11:30 ngày 30.4, ông đang ở đâu? Có phải đang trong trại David không?
Nguyễn Đình Đầu: Trưa 29.4 tôi đã về rồi.
Simon Dring: Khi đến trại David, không biết ông có thảo luận với phía Mỹ ở đó không?
Nhà nghiên cứu Nguyễn Đình Đầu
Nguyễn Đình Đầu: Không. Tôi chỉ đến gặp đại diện của Chính phủ Cách mạng Lâm thời thôi.
Chiều 29.4 vẫn còn đánh nhau. Chúng tôi cùng với ông Dương Văn Minh nghĩ rằng ngoài vấn đề thương thuyết, có lẽ chính quân đội của ông phải có thái độ "đàm phán" mạnh hơn nữa thì mới có thể ngưng chiến được.
Sáng 30.4, chiến sự vẫn diễn ra gần Sài Gòn. Đến 9 giờ ông Dương Văn Minh đã ra nhật lệnh cho quân đội là đơn phương ngừng bắn, và chờ bên đối phương đến để trao quyền hành.
Cho nên, việc giải phóng thành phố này không có chiến tranh, không có chuyện hai bên đánh nhau. Và đến 11:30 quân giải phóng chiếm được Dinh Độc lập.
Nhiệm vụ của tôi tuy không thành công, nhưng vẫn coi như đã thành công.
Nữ phóng viên từ Romania: Xin cho biết cuộc sống của ông 35 năm vừa rồi ra sao.
Nguyễn Đình Đầu: Trước 30.4.1975, người ta coi tôi thuộc thành phần thứ ba. Tôi có một số người bạn ở chế độ cũ, và có một số người bạn bên cách mạng. Do lẽ đó mà ông Dương Văn Minh nhờ tôi đi điều đình việc ngừng bắn vào 29.4.
Lúc đó tôi 55 tuổi, còn bây giờ tôi 90 tuổi. Sau ngày giải phóng, tôi không có công, nhưng cũng không có tội. Thành thử tôi được làm nghề nghiên cứu tự do. Nhờ trời thương nên cũng có một số kết quả trong các công trình nghiên cứu sử, địa.
Tôi muốn nhắc lại là cái giá của 30 năm chiến tranh (1945-1975) nó nặng nề lắm. Mọi người phải hiểu, để bình tĩnh mà phát triển.
Ông Dương Văn Minh trả lời phỏng vấn của phóng viên nước ngoài. Ảnh tư liệu
Luật sư Triệu Quốc Mạnh, nguyên Đô trưởng cảnh sát Sài Gòn - Gia Định, kể:
Trước giải phóng tôi là thẩm phán, từ năm 1963 đến tháng 4. 1975. Khoảng 14 ngày trước giải phóng, ông Dương Văn Minh ngỏ ý mời tôi nắm chức đô trưởng cảnh sát Sài Gòn - Gia định. Và khi nhậm chức, người đầu tiên ông Minh tuyên bố bổ nhiệm là tôi.
Mặc dù trong chính phủ Dương Văn Minh cũng có những người muốn nắm giữ cảnh sát để tiếp tục chống lại Cách mạng, nhưng ông Dương Văn Minh, theo chúng tôi biết, đã không muốn như vậy.
Cho nên, khi tôi nắm được cái đài chỉ huy tác chiến và lệnh của tôi là không được nổ súng trước. Lý do mà tôi giải thích là lúc đó là thời gian đang thương thuyết.
Tôi nói láo với họ rằng việc đàm phán là có kết quả 60% rồi cho nên toàn thể phải nghe tôi. Tôi chỉ huy bằng cách ra lệnh không được nổ súng trước, nên rất thuận lợi cho việc tiến quân vào Sài Gòn của bộ đội.
Điều thứ hai là tôi lập danh sách tất cả những tù chính trị và ký tên để phóng thích họ.
Điều thứ ba là giải tán lực lượng cảnh sát đặc biệt. Bởi cảnh sát có hai loại, một là loại mặc sắc phục chuyên giữ trật tự trị an, và hai là là loại đặc biệt, chuyên bắt bớ những người làm chính trị, sinh viên, công nhân....
Tôi ngồi trên chiếc xe, mang quân hàm chuẩn tướng, đi thị sát một số nơi, chứ không ở cùng nội các ông Minh trong Dinh Độc lập.
Tôi có thể nói với quý vị, chỉ huy kiểu đó, chắc có người cười tôi lắm. Nhưng sự hiệu quả là bộ máy cảnh sát gồm 16 ngàn người trở nên rệu rã trong ngay ngày 29.4.
Jim Pringle: Ông nghĩ như thế nào về việc Tướng Loan (Nguyễn Ngọc Loan), cũng là chỉ huy trưởng lực lượng cảnh sát, đã bắn chết một tù binh Việt Cộng trong ngày thứ nhất, hoặc ngày thứ hai của cuộc Tổng tấn công Mậu Thân 1968?
Luật sư Triệu Quốc Mạnh
Triệu Quốc Mạnh: Lúc đó, tôi biết Tướng Loan. Tôi xin diễn tả hình ảnh Tướng Loan một chút thì các vị sẽ biết Tướng Loan là ai. Một kẻ điên hay khùng, hay gì đó tương tự.
Ngày nào cũng vậy, (ông ta) cặp nách một chai rượu và tay bên kia cầm một khúc chả lụa,. Vừa nốc rượu, ông ta vừa làm việc với sĩ quan của mình.
Khi đó, Bộ trưởng Tư pháp của chế độ Sài Gòn là Huỳnh Đức Bửu dự hội nghị ở Teheran, và họ đã đưa cái ảnh đó (Tướng Loan bắn tù binh Việt Cộng) ra. Tay bộ trưởng này về nói với chính phủ là muốn độn thổ luôn.
Hồng Nga (BBC):
Tôi biết ông là đảng viện cộng sản. Vậy ông vào Đảng thế nào, và ông Dương Văn Minh có biết điều đó không, khi ông ta bổ nhiệm ông làm đô trưởng cảnh sát?
Gần 10 năm sau, khi có một bài báo của một người rất quan trọng viết, ông ta mới tiết lộ rằng tôi là người của Cách mạng.
Gia đình tôi, bạn bè tôi, tuyệt đối không ai biết tôi là người cộng sản. Chính vì vậy, ông Dương Văn Minh và nội các của ông ta cũng hoàn toàn không biết điều đó.
Cái ý của ông Minh, theo tôi nắm được, là một ngày nào đó có sự bàn giao giữa chính quyền mới và cũ sẽ có sự xáo trộn trong dân rất lớn. Thù oán, xung đột, giết chóc nhau. Vậy ai giữ gìn cái này, và ai có kinh nghiệm của xã hội Sài Gòn lúc này?
Chắc là anh em xung quanh ông Dương Văn Minh đánh giá tôi là người có sự chuyên nghiệp. Bởi tôi sinh tại đây, sống tại đây, trưởng thành tại đây, học và làm quan toà tại đây. Tôi cũng rất gần gũi với cảnh sát tại đây.
Simon Dring: Kể từ khi vào Đảng, ông đã có những đóng góp tích cực gì cho Cách mạng với tư cách thẩm phán?
Triệu Quốc Mạnh: Tôi vào Đảng Cộng sản tháng 6.1966. Tôi vừa đóng vai nói trên, vừa hoàn thành nhiệm vụ thẩm phán một cách hoàn hảo.
Về đóng góp cho Cách mạng, tôi có hai việc làm được.
Với tư cách thẩm phán, tức là làm cho Bộ Tư pháp, tôi nắm được mấy hồ sơ mật về an ninh mà toàn quốc gửi về cho Bộ Nội vụ và Bộ Tư pháp. Tôi thấy cái nào có lợi cho việc sớm chấm dứt chiến tranh, có lợi cho Cách mạng, tôi cũng có bàn với những người lâu lâu có liên hệ với tôi.
Nhiệm vụ thứ hai là tôi làm thẩm phán, có gần gũi với những người hoạt động chính trị, có xu hướng đòi độc lập, đòi hoà bình, thì bàn với họ làm sao để có cách hoạt động, nhất là gầy dựng phong trào có lợi.