Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Đừng tạo cơ hội bỏ lỡ cơ hội!

gày 10.01.2007, 15:40 (GMT+7)
Việt Nam chính thức là thành viên WTO kể từ 11.1.2007. SGTT đã có cuộc trao đổi với luật sư Frederic Burke, giám đốc điều hành hãng luật Baker & McKenzie Vietnam, về tác động của sự kiện này đối với triển vọng thu hút đầu tư trực tiếp từ Mỹ
Tim Burke: "trên thực tế, Việt Nam đã từng bỏ lỡ những cơ hội lớn"
Ông đánh giá thế nào về triển vọng của Việt Nam khi chính thức là thành viên của WTO?
Việt Nam hiện đang có một viễn cảnh sáng sủa, nhưng cũng nên nhìn quanh một số nước ASEAN khác, để đừng bỏ lỡ cơ hội. Họ cũng từng có một viễn cảnh tươi sáng, nhưng họ đã bỏ lỡ vì lý do tham nhũng, hay vì chuyện này, chuyện khác. Chẳng hạn, Myanmar đã từng là một nước xuất khẩu gạo chính trên thế giới vào những năm 1950. Hay Philippines có cơ hội trở thành con hổ của châu Á vào những năm 1960. Còn Indonesia vào những năm 1980 và 1990 là một nước xuất khẩu dầu thô lớn với mức độ tăng trưởng hàng năm là 12-15%.
Nhưng chính ông đã từng nhận xét với tạp chí Time rằng Việt Nam không bao giờ bỏ lỡ cái cơ hội được "bỏ lỡ cơ hội"? (Vietnam never misses the opportunity to miss an opportunity).
(Bật cười lớn) Tất nhiên, có sự phóng đại ở đây. Nhưng, trên thực tế, Việt Nam đã từng bỏ lỡ những cơ hội lớn.
Ý ông là khủng hoảng tài chính châu Á và BTA với Mỹ?
Không còn nghi ngờ gì nữa.
Xin ông cho biết, với việc Việt Nam gia nhập WTO và đạt được quy chế thương mại bình thường với Mỹ, liệu có một làn sóng đầu tư trực tiếp từ Mỹ hay không, và trong những lĩnh vực nào?
Tôi nghĩ dòng đầu tư nước ngoài vào Việt Nam, kể cả từ Mỹ, sẽ tiếp tục tăng lên chủ yếu vào hai lĩnh vực phát triển hạ tầng và chế tạo. Các nhà đầu tư Mỹ cũng quan tâm nhiều đến các dự án khách sạn ven biển ở Vũng Tàu.
Ngoài ra, ngành công nghệ thông tin cũng hy vọng thu hút được sự quan tâm của giới đầu tư Mỹ. Microsoft đã có văn phòng đại diện tại Việt Nam, và họ sẽ mở rộng hoạt động tại đây. Về chế tạo, quyết định đầu tư của Intel sẽ kéo theo các nhà sản xuất có liên quan đến họ.
Một dòng đầu tư khác là các doanh nghiệp ở miền Nam Trung Quốc sẽ mở rộng sản xuất sang Việt Nam. Chẳng hạn như Diamond Polisher, họ đầu tư vào miền Bắc để bán hàng qua Trung Quốc. Trước đây, Intel chỉ bán các sản phẩm của họ ở Việt Nam, nhưng nay đã có đầu tư. Tôi hy vọng là nhiều công ty khác cũng sẽ đi theo phương châm "thương mại trước, đầu tư sau".
Nhưng quan trọng nhất, theo tôi, là làn sóng đầu tư của các quỹ, thành lập ở nước ngoài, đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam trước khi chúng lên sàn. Cho đến thời điểm này có chừng khoảng 3 tỉ USD đầu tư vào các doanh nghiệp Việt Nam.
Chẳng hạn Quỹ Hưu trí giáo viên ở California lên tới cả ngàn tỉ USD, và khoảng 2-3% tổng số tiền của quỹ này dành để đầu tư vào một thị trường mới nổi lên. Tôi rất hy vọng là với những hiệu ứng APEC và WTO, cộng với triển vọng của một nền kinh tế ngày càng mở cửa và điều kiện đầu tư được cải thiện, Việt Nam trong mắt họ sẽ chính là thị trường mới nổi lên.
Tuy nhiên, quy định của Luật Đầu tư mới là "các doanh nghiệp tư nhân với số vốn trên 18 triệu USD (300 tỉ đồng) cần phải được sự phê chuẩn của cơ quan quản lý đầu tư" sẽ là một trở ngại không nhỏ trong việc thu hút dòng đầu tư này. Bởi lẽ sự phân biệt đối xử về quy mô vốn giữa doanh nghiệp nhà nước và doanh nghiệp tư nhân mặc nhiên dẫn đến sự bất bình đẳng trong khả năng tiếp cận nguồn tài nguyên.
Cách đây ít năm đã có một đoàn rất lớn các nhà đầu tư về năng lượng điện đã đến tìm hiểu ở Việt Nam. Ông có nghĩ rằng, với nhu cầu rất lớn về điện của Việt Nam và Chính phủ đã quyết định điều chỉnh dần giá điện theo mức của khu vực, đây chính là lúc họ bỏ tiền vào Việt Nam?
Đúng vậy, và hiện nay có hai dự án đang được đàm phán, trong đó có dự án 1,4 tỉ USD giữa AES Transpower và Vinacomin xây dựng nhà máy nhiệt điện đốt than ở Mông Dương, và một dự án nhiệt điện đốt khí của Gannon ở phía Nam.
Việt Nam đã có những dự án BOT như Phú Mỹ 2.2, Phú Mỹ 3 rất thành công với tiến độ thực hiện đúng thời gian, chi phí đúng như dự toán. Tuy nhiên, các nhà đầu tư Mỹ đã tỏ ra thất vọng khi dường như với những thành công kể trên Chính phủ lại muốn nâng thêm các điều kiện có lợi cho mình trong hợp đồng, và điều này khiến quá trình thương thảo bị chậm lại.
Kể từ 11.1 này, hạn ngạch dệt may xuất sang Mỹ sẽ được bãi bỏ. Nhưng Bộ Thương mại Mỹ lại áp dụng "cơ chế theo dõi tự động" và có thể chủ động áp thuế chống phá giá. Ông đánh giá thế nào về tác động của nó?
Động thái này của Bộ Thương mại Mỹ khiến cho các doanh nghiệp Mỹ đặt hàng ở Việt Nam sẽ lo ngại là đến một lúc nào đó hàng nhập khẩu của họ sẽ bị coi là phá giá, và dẫn đến việc giảm đơn đặt hàng từ Việt Nam.
Nếu đó chỉ là "một sự thoả hiệp cần thiết" của Chính phủ Mỹ với hai nghị sĩ của Bắc và Nam Carolina thì không có vấn đề gì lớn lắm. Nhưng nếu họ nhắm xa hơn tới Trung Quốc, nhằm đòi hỏi áp dụng một điều tương tự với nhà xuất khẩu dệt may lớn nhất vào thị trường Mỹ, thì tình hình phức tạp hơn gấp bội.
Nhưng trước mắt, Việt Nam phải đối mặt với một nguy cơ còn lớn hơn: Đó là phải huỷ bỏ ngay lập tức ưu đãi thuế cho các nhà xuất khẩu trong ngành dệt may, chiếm tới phân nửa trong kim ngạch xuất khẩu hơn 6 tỉ USD sang thị trường Mỹ. Chi phí kinh doanh quan trọng là thuế thu nhập doanh nghiệp sẽ tăng 280%, bởi thay vì được hưởng mức thuế ưu đãi 10% doanh nghiệp xuất khẩu sẽ phải chịu mức thuế chung là 28%.
Chính phủ phải có chính sách gì đó để bù lại phần thiếu hụt này, chẳng hạn như giảm thuế suất chung, hay mở rộng phạm vi các chi phí kinh doanh được phép khấu trừ bao gồm chi phí nghiên cứu & phát triển, chi phí quảng cáo và nhà ở, nhằm đảm bảo tính cạnh tranh cho hàng dệt may xuất từ Việt Nam.
Huỳnh Phan thực hiện

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét