Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư vấn - Phản biện. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Tư vấn - Phản biện. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Giới nghiên cứu khoa học không sợ bị quy chụp


 Quy chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học: Giới nghiên cứu khoa học không sợ bị quy chụp

"Đối với trí thức, vấn đề nhận thức chỉ có thể hình thành thông qua cùng trao đổi bình đẳng, chứ không thể áp đặt. Bất cứ đảng cầm quyền nào cũng cần sử dụng những tư duy vượt trước của trí thức để thúc đẩy xã hội và cộng đồng đi lên". Đây là ý kiến của Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng xung quanh Qui chế dân chủ trong nghiên cứu khoa học được Viện Khoa học Xã hội Việt Nam soạn thảo và đang chờ Thủ tướng ký ban hành. 

Không phải lúc nào cũng thực hiện tốt mục tiêu dân chủ 
Ông quan niệm thế nào là dân chủ trong nghiên cứu khoa học? 
 Phó Trưởng ban Tuyên giáo Trung ương Vũ Ngọc Hoàng: "Tư duy của con người chủ yếu sẽ phát triển hơn lên khi nó được tiếp cận, cọ xát với những ý kiến mới, khác với mình". 
Theo tôi hiểu, không chỉ trong lĩnh vực nghiên cứu khoa học, mà cả trong đời sống cộng đồng, rất cần sự phát huy dân chủ, cũng có nghĩa là cần trí tuệ tập thể, có thông tin tiếp cận nhiều chiều, tiếp cận được nhiều chân lý tương đối, có nhiều phương án để so sánh lựa chọn. 

Điều quan trọng thứ nhất đối với sự phát triển của một cộng đồng là sự phát triển của tư duy. Phát huy dân chủ, phát huy tự do tư tưởng trong hoạt động khoa học thì sẽ và mới phát triển được tư duy. Xét cho cùng thì tư duy của con người chủ yếu sẽ phát triển hơn lên khi nó được tiếp cận, cọ xát với những ý kiến mới, khác với mình, ở mình chưa có. 
Điều quan trọng thứ hai là thông tin nhiều chiều, nếu biết lựa chọn đúng sẽ giúp hoàn thiện con người về mặt văn hóa, bởi con người lúc sinh ra thì mới là một sản phẩm của tự nhiên, họ trở thành con người nhờ tác động qua lại của cộng đồng, với cộng đồng.
Đối với sự phát triển tư duy của giới nghiên cứu khoa học, hay trí thức nói chung, điều đó càng quan trọng. Thực ra, ở Việt Nam từ trước đến nay tôi chưa nghe thấy ai bảo rằng trí thức không được tự do tư tưởng (hay là hạn chế tự do tư tưởng) trong hoạt động khoa học. 
Tuy nhiên, tâm lý chung của mọi người vẫn ngại đụng đến những vấn đề thuộc lĩnh vực khoa học xã hội mà nhạy cảm, liên quan đến chính trị. Họ sợ nói không chuẩn, từ đó bị phê phán và có khi bị quy chụp. Không phải chỉ có cấp dưới sợ cấp trên quy chụp, mà ngay cả cấp dưới cũng không ít trường hợp quy chụp ngược lại đối với cấp trên. 
Từ khi thành lập Đảng Cộng sản và thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hòa (nay là CHXHCN Việt Nam), Đảng và nhà nước ta đã nhiều lần nêu mục tiêu tự do và dân chủ, và trên thực tế cũng luôn phấn đấu cho mục tiêu ấy, chứ đó không phải là chuyện mới lạ, càng không phải là chuyện xa lạ.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng đã từng đi tiên phong để cùng với nhân dân giành lại tự do và dân chủ cho cả một dân tộc trước đó đã bị mất nước phải chịu nô lệ, tiếp đó là những cuộc kháng chiến để giữ độc lập tự do, rồi giải phóng con người khỏi các tàn dư phong kiến. Tuy nhiên, cũng có một thực tế rằng, không phải lúc nào và ở đâu cũng làm tốt, chúng ta đang còn không ít những điều chưa tốt về thực hiện mục tiêu tự do, dân chủ. 

Người thiệt thòi nhất là người chỉ nói mà không nghe
Nhưng mặt khác, tự do và dân chủ vẫn luôn có những giới hạn vốn có của chính nó, vì không phải là tự do của một cá thể giữa trời, không liên quan gì đến ai cả. Quan điểm của ông?
Đúng là như vậy. Anh tự do nhưng anh không được động đến tự do của người khác, anh vẫn phải sống trong mối quan hệ với cộng đồng, không được gây hại cho cộng đồng, phù hợp với văn hóa và trình độ phát triển chung… Tức là cái tự do của anh phải đi kèm với lợi ích của cộng đồng, vì một đất nước ổn định và phát triển.
Trí thức rất cần có một đảng lãnh đạo sáng suốt, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất được ý chí và hành động, để họ có thể nhân lên những tư duy đúng của mình, phát huy những trí tuệ đơn lẻ thành một khối sức mạnh tổng hợp phục vụ cho đất nước và xã hội
Mục đích của nghiên cứu khoa học là để áp dụng trong thực tế, và sự thống nhất thông qua, sau khi đã có tranh luận và phản biện khoa học, mới là sự thống nhất thật sự, thống nhất có căn cứ, cũng như sẽ vững chắc và có giá trị thực tiễn cao. 

Ông Einstein có lần đã viết một đoạn dài nói về tự do tư tưởng, mà tôi có thể khái quát lại như sau: Nhờ có phản biện nhiều chiều, mà anh nghe được nhiều chân lý tương đối để từ đó anh tìm ra một chân lý sát hơn, gần hơn, tiếp cận với lẽ đúng nhiều hơn. 
Còn khi anh chỉ nói và không được nghe, người khác chỉ nghe và không nói, anh sẽ là người thiệt thòi nhất bởi trong tư duy của anh chỉ có độc nhất mỗi ý kiến của mình, không có sự bổ sung đa dạng từ ý kiến của người khác, cuối cùng thì tư duy của anh sẽ chậm phát triển hơn người ta. 
Khi bàn về Xây dựng đội ngũ trí thức Việt Nam trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất nước, Hội nghị Trung ương 7 vừa qua đã đề cập đến vấn đề phát huy dân chủ, phát huy tự do tư tưởng trong nghiên cứu và hoạt động khoa học, vì dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Theo tôi, đó là điều rất cần thiết, tốt cho mục tiêu phát triển chung, và tốt cho việc xây dựng đội ngũ trí thức.
Ông có tham dự hội thảo về nhà Nguyễn được tổ chức cách đây hơn 1 tháng ở Thanh Hóa. Ông nhận xét gì về sự dân chủ trong nghiên cứu khoa học thông qua hội thảo này?
Tôi thấy không khí của hội thảo là dân chủ và tự do tư tưởng. Người nói ngược, người nói xuôi, ngay trong ý kiến của những người cùng quan điểm cũng có cả cái giống và cái khác nhau. Qua đó, mỗi người cũng thu nhặt được những thông tin bổ ích để bổ sung và điều chỉnh tư duy, tiếp tục suy nghĩ sâu hơn, đầy đủ hơn ở những hội thảo khoa học sau. 
Chỉ có điều là, từ kết quả hoạt động khoa học ấy, tìm ra những những kết luận khách quan, công bằng, trung thực; nhưng để tuyên truyền phổ biến ra cho cả cộng đồng thì cần tiếp tục xử lý tốt các mối quan hệ, tức là giữa vấn đề đó với các vấn đề khác liên quan, sao cho có lợi nhất trên nhiều mặt. 
Tôi muốn nhấn mạnh đến những mối quan hệ rất phức tạp do sự đan xen giữa những công lao và sai lầm, mối quan hệ giữa nhà Nguyễn và nhà Tây Sơn, sự tiếp biến và hội nhập giữa văn hóa Đông Sơn và Sa Huỳnh, Óc-Eo, mối quan hệ giữa Đại Việt và Chămpa, Phù Nam, và giữa việc tuyên truyền hôm nay (trong hoàn cảnh đã có độc lập) với trước đây (trong hoàn cảnh phải chiến đấu để giành độc lập và chống phong kiến)… 
Tóm lại, bây giờ khi nói về vấn đề nhà Nguyễn, đòi hỏi phải có cái nhìn toàn diện nhiều mặt và cách nghĩ có trách nhiệm cao với lịch sử và đất nước. 

Quan trọng là khả năng tự đề kháng
Theo như ông vừa nói, đã không ai cấm phát huy dân chủ trong nghiên cứu khoa học. Đã có luật qui định chuyện này, không làm trái luật là được. Vậy cần cái qui chế này làm gì nữa? Liệu đây có phải là một bước lùi không? 
Tự do tư tưởng chẳng những không phải là cái bên ngoài, xa lạ đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, như ai đó có dụng ý không tốt muốn xuyên tạc, hoặc hiểu sai vấn đề này, mà còn là cái khởi nguồn, cái vốn có từ đầu, nguồn sinh lực bên trong của Đảng, đồng thời cũng là phương pháp lãnh đạo
Tôi chưa được biết nội dung cụ thể của dự thảo qui chế. Nhưng tôi nghĩ về nguyên tắc, một bản quy chế cụ thể thì có thể rất cần và có thể không cần. Không cần nếu nó chẳng những không phát huy mà còn làm hạn chế tự do dân chủ, hoặc làm rối thêm vì loạn ngôn, ai muốn nói thế nào cũng được, xúc phạm ai cũng được... 

Nhưng nếu nó là hành lang pháp lý để bảo vệ cho các nhà khoa học không phải sợ bị quy chụp, tích cực tham gia được nhiều ý kiến có giá trị trên tinh thần xây dựng thì lại rất cần. Tôi hy vọng chúng ta sẽ có một bản qui chế tốt. Với tinh thần ấy, tôi tán thành và ủng hộ có một quy chế tiến bộ.
Tuy nhiên, về lâu dài, xét cho cùng, khả năng tự đề kháng (như một chất kháng thể tự nhiên) của những người tham gia hoạt động khoa học vẫn là quan trọng nhất. Tức là nếu họ có tinh thần khoa học nghiêm túc, tinh thần xây dựng, tâm huyết với sự nghiệp chung của đất nước và dân tộc thì đó là sức mạnh vững vàng nhất; còn qui chế chỉ là hổ trợ thêm, mặc dù cũng rất cần.
Được biết, tại Hội nghị Trung ương 7, khi bàn về trí thức, ông đã có phát biểu về mối quan hệ hữu cơ giữa trí thức và đảng cầm quyền. Xin ông cho biết cụ thể hơn về mối quan hệ này theo quan điểm của ông.
Theo tôi, trong các đặc điểm của trí thức, có vấn đề tư duy độc lập và một phần tư duy vượt trước, so với tư duy chung phổ biến trong xã hội. Nhờ có tư duy độc lập mà có tư duy vượt trước, và nhờ có vượt trước mà có sự độc lập hơn. 
Do đó đối với trí thức, vấn đề nhận thức chỉ có thể hình thành thông qua cùng trao đổi bình đẳng, chứ không thể áp đặt. Bất cứ đảng cầm quyền nào cũng cần sử dụng những tư duy vượt trước của trí thức để thúc đẩy xã hội và cộng đồng đi lên. Nếu trí thức không có chính kiến riêng, không có tư duy độc lập, sáng tạo, vượt trước, tất nhiên là theo nghĩa cái đúng, thì không hiểu xã hội cần ở họ cái gì. 
Tôi hiểu một cách đơn giản, cái vượt trước cũng chính là cái chưa có, hay nói cách khác, là cái mới so với những gì đang hiện có. Cùng với tự do tư tưởng, chủ nghĩa Marx đã xuất hiện hàng trăm năm trước mà tới nay người ta vẫn còn tìm thấy và thừa nhận những giá trị bền lâu, mặc dù cần tiếp tục bổ sung và phát triển các tư tưởng ấy do điều kiện lịch sử đã có những yếu tố mà ở thời của Marx chưa có. 
Cùng với tự do tư tưởng, Hồ Chí Minh vĩ đại đã xuất hiện và để lại cho chúng ta di sản vô cùng quý báu là tư tưởng của người. Marx, Hồ Chí Minh là những trí thức lớn của thời đại, đồng thời là những người mang tư tưởng giai cấp công nhân. 
Cùng với tự do tư tưởng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã ra đời để chiến đấu cho sự tiến bộ xã hội. Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, đã có những lần khi phong trào gặp khó khăn, Đảng đã kêu gọi phát huy dân chủ, “nói thật, nói thẳng” và từ đó, Đảng đã ra những nghị quyết đổi mới, đưa sự nghiệp cách mạng tiếp tục tiến lên. 
Tôi nói những điều trên đây để một lần nữa muốn khẳng định rằng, tự do tư tưởng chẳng những không phải là cái bên ngoài, xa lạ đối với sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, như ai đó có dụng ý không tốt muốn xuyên tạc, hoặc hiểu sai vấn đề này, mà còn là cái khởi nguồn, cái vốn có từ đầu, nguồn sinh lực bên trong của Đảng, đồng thời cũng là phương pháp lãnh đạo. 
Các sự kiện, như chủ nghĩa Marx, tư tưởng Hồ Chí Minh hay sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam, trong lịch sử phát triển đều do tư duy vượt trước của những nhà cách mạng rất tâm huyết mà hình thành. 
Trí thức là những người rất tự do, tư duy độc lập, mỗi người mỗi kiểu. Đặc điểm này vừa là mặt mạnh, vừa là mặt yếu. Có những trí thức làm công tác nghiên cứu có ý kiến khác nhau, tranh luận hàng chục năm trời vẫn không thống nhất được, chưa ai chịu ai, và mỗi người vẫn hành động theo cách nghĩ của riêng mình. 
Với đặc điểm như vậy, trí thức khó có thể tự mình trở thành một đảng cách mạng có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động được. Do đó, trí thức rất cần có một đảng lãnh đạo sáng suốt, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất được ý chí và hành động, để họ có thể nhân lên những tư duy đúng của mình, phát huy những trí tuệ đơn lẻ thành một khối sức mạnh tổng hợp phục vụ cho đất nước và xã hội. 
Đảng có bản chất của giai cấp công nhân, đồng thời là của nhân dân lao động và dân tộc nữa, có tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động (ý tôi muốn nói đến Đảng Cộng sản Việt Nam) là đảng lãnh đạo mà trí thức cần. Còn Đảng thì cần ở trí thức những tư duy mới, vượt trước, tất nhiên là tư duy đúng, để Đảng bổ sung vào và làm giàu thêm tư duy của mình, để lãnh đạo và phục vụ nhân dân tốt hơn. 
Đồng thời Đảng cũng cần trí thức như những người cộng tác tâm huyết và xây dựng, gắn bó với nhau, như tấm gương phản chiếu để Đảng thường xuyên tự kiểm tra lại mình. Nếu Đảng đúng thì tất nhiên sẽ thuyết phục được trí thức, và qua họ là cộng đồng, còn nếu Đảng có việc gì chưa đúng, chưa sát với tinh hình thì nhờ những ý kiến chân thành xây dựng của trí thức, và của nhân dân nói chung, mà sớm phát hiện, bổ sung, điều chỉnh, và qua đó Đảng lại tiếp tục trưởng thành hơn, chắc chắn hơn. 
Tôi nghĩ, Đảng và trí thức bao giờ cũng cần có nhau, như một tất yếu khách quan, như không thể thiếu được, vì nhân dân và đất nước.
  • Huỳnh Phan - Thiên Lam thực hiện
__________________

Đừng để gỡ chân này lại mắc chân kia


Tạp chí Nhịp Cầu Đầu Tư - Tạp chí Kinh doanh Uy tín hàng đầu, số: Cuộc chiến trên những chiếc LCD, ra ngày 12-07-2010
Kiện chống bán phá giá: Đừng để gỡ chân này lại mắc chân kia
Tác giả: Lưu Hương    NCĐT 12/07/2010
Thay vì cứ phải chạy theo giải quyết từng vụ kiện chống bán phá giá, tốt hơn Việt Nam nên có một bước tiến dài để được công nhận là nền kinh tế thị trường.
Trong những năm gần đây, cùng với sự gia tăng xuất khẩu của Việt Nam đi các thị trường lớn như Mỹ, Liên minh châu Âu (EU) hay Nhật, số vụ kiện chống phá giá cũng ngày càng tăng. Ngoài việc khởi kiện lên Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) về việc Mỹ áp thuế chống phá giá đối với tôm là không công bằng, Việt Nam, cho đến nay, vẫn chỉ dừng ở mức lên tiếng hoặc tìm cách vận động sự ủng hộ của những nhóm cùng chia sẻ lợi ích. Nhưng trên thực tế, trong nhiều trường hợp, Việt Nam vẫn thất bại.
Những người đang trợ giúp Việt Nam trong dự án hỗ trợ thương mại đa phương (Muntrap) của EU lại có cách tiếp cận vấn đề rộng và xa hơn. Trong một buổi hội thảo gần đây về rào cản trong thương mại quốc tế, ông Claudio Dordi, trưởng nhóm Muntrap, đã gợi ý: “Cách tốt nhất cho Việt Nam là hãy chủ động bước một bước tiến dài hơn như đạt được một hiệp định thương mại tự do với EU chẳng hạn, trong đó phải có điều kiện công nhận là nền kinh tế thị trường, thay vì cứ “gỡ chân này, rồi lại mắc chân kia” trong cái đám bùng nhùng các vụ kiện chống phá giá. NCĐT đã gặp ông để trao đổi kỹ hơn về ý tưởng này.
Cơ sở nào khiến ông đưa ra gợi ý như vậy?
Hàng nhập khẩu từ Việt Nam luôn là đối tượng để những khu vực phát triển như EU, Mỹ, hay Nhật áp thuế chống phá giá, bởi Việt Nam chưa có quy chế của nền kinh tế thị trường. Các nước nhập khẩu luôn tìm ra những lý do kỹ thuật, dựa vào những tính toán theo các tiêu chí của mình, để cho rằng các nhà xuất khẩu Việt Nam đã bán phá giá. Mặc dù trong những trường hợp cụ thể, điều đó đã không diễn ra.
EU luôn có sự đánh giá hằng năm về quy chế kinh tế thị trường đối với Việt Nam. Lời khuyên của tôi là hãy gắn sự công nhận nền kinh tế thị trường như một điều kiện đi kèm, khi đàm phán hiệp định thương mại tự do song phương. Quy chế kinh tế thị trường còn có ý nghĩa quan trọng khi vào năm 2016, Trung Quốc sẽ được công nhận là nền kinh tế thị trường. Trong khi theo thỏa thuận với WTO, Việt Nam có quy chế này chậm hơn 2 năm. Do Việt Nam và Trung Quốc có nhiều sản phẩm xuất khẩu giống nhau nên trong 2 năm đó, hầu hết các vụ kiện chống phá giá sẽ nhằm vào hàng hóa nhập từ Việt Nam, khiến cho hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam càng kém cạnh tranh so với hàng Trung Quốc.
Vì vậy, sẽ có 2 sách lược cho Việt Nam. Thứ nhất, cố gắng mặc cả để có quy chế nền kinh tế thị trường càng sớm càng tốt. Thứ hai, trong trường hợp xấu hơn, mặc cả để có quy chế này không muộn hơn Trung Quốc.
Nhưng, một khi đã được công nhận là nền kinh tế thị trường, Việt Nam có thoát được các vụ kiện chống phá giá?
Điều này là không tránh khỏi trong thương mại quốc tế. Nhưng, trong trường hợp đó, việc áp thuế sẽ không dựa trên cơ sở so sánh với giá xuất khẩu của nước thứ ba. Nước khởi kiện sẽ điều tra trực tiếp việc liệu có sự bán phá giá khi xuất khẩu so với giá bán ở thị trường trong nước hay không. Còn nếu so sánh với nước thứ ba thì sẽ rất khó để Việt Nam chứng minh được rằng đã không bán phá giá, bởi rất khó so sánh điều kiện sản xuất kinh doanh và chi phí liên quan của 2 nước.
Ít nhất, trên thực tế, trong trường hợp vẫn bị áp thuế chống phá giá, mức thuế khi có quy chế kinh tế thị trường vẫn thấp hơn nhiều khi chưa có.
Theo ông, về phần mình, Việt Nam phải làm gì để sớm có sự công nhận này?
Trong 5 tiêu chí để được công nhận là nền kinh tế thị trường, có 2 tiêu chí khá quan trọng. Đó là nhà xuất khẩu phải áp dụng chế độ kế toán theo chuẩn mực quốc tế và không được có sự can thiệp hành chính của Nhà nước, hay ưu đãi của Nhà nước đối với doanh nghiệp. EU không quan tâm đến việc Việt Nam có bao nhiêu doanh nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước, mà chỉ quan tâm đến việc thị trường không bị méo mó do sự can thiệp của Nhà nước. Quy định về cơ chế quản lý giá cũng được coi là một tác động làm méo mó thị trường.
Xin ông giải thích cụ thể hơn?
Theo tôi, cơ chế quản lý giá sẽ đặt Việt Nam vào nguy cơ kéo dài việc được công nhận là nền kinh tế thị trường. Bởi điều này phá vỡ nguyên tắc về tự do cạnh tranh theo luật cạnh tranh. Luật cạnh tranh đã có và Việt Nam cứ sử dụng công cụ này cho tốt, thay vì hãy cứ cố nghĩ ra một cái gì đó mới mẻ hơn so với những quy định đang được hầu hết thế giới công nhận.
Chẳng hạn, khi giá cả tự nhiên tăng đột ngột, Việt Nam cần phải sử dụng công cụ chống độc quyền trong luật cạnh tranh để xử lý. Bởi sự tăng giá khác thường chắc chắn đến từ sự độc quyền của một doanh nghiệp lớn nào đó, hay sự câu kết để độc quyền của một nhóm doanh nghiệp.
Hay, luật bảo vệ người tiêu dùng ở nhiều nước khác cũng là một công cụ hữu hiệu để quản lý giá. Nhưng hình như ở Việt Nam, công cụ này vẫn chưa được sử dụng cho đúng thực chất.
Qua những hội thảo về rào cản trong thương mại quốc tế như vừa rồi, ông thấy nhận thức của các quan chức điều hành thương mại và các nhà xuất khẩu Việt Nam đã có những chuyển biến gì chưa?
Các quan chức chính phủ tuy đã nhận thức được vấn đề, nhưng chưa thuyết phục được cấp trên của mình. Còn các doanh nghiệp xuất khẩu thì chưa có hành động cụ thể để giải quyết triệt để tình hình. Họ dường như có xu hướng tìm những thị trường khác dễ tính hơn để tránh bị kiện bán phá giá.
Nhưng có 2 doanh nghiệp đã được EU công nhận có quy chế kinh tế thị trường và được lợi hơn hẳn trong các vụ kiện chống phá giá.
Ông có thể kể cụ thể hơn về hai trường hợp này?
Trường hợp thứ nhất là một doanh nghiệp sản xuất xe đạp ở TP.HCM, đã nhận được quy chế kinh tế thị trường năm 2005, sau khi họ bị dính vào một vụ kiện chống phá giá đối với các nhà xuất khẩu xe đạp Trung Quốc và Việt Nam. Kết quả, mức áp thuế họ phải chịu thấp hơn hẳn so với các doanh nghiệp bị kiện khác.
Năm ngoái, trong vụ kiện chống phá giá đối với móc khóa inox, một doanh nghiệp ở Biên Hòa đã đạt được quy chế trên và thậm chí còn được miễn thuế chống phá giá. Họ đã đề nghị được kiểm tra để xem xét lại và kết quả là họ đã đạt được đầy đủ 5 tiêu chí của EU.
Trong khá nhiều vụ kiện chống phá giá, đối tượng bị kiện thường là Trung Quốc và Việt Nam. Ông có lời khuyên gì với các nhà xuất khẩu Việt Nam?
Cố gắng đừng bán sang các thị trường phát triển những sản phẩm cùng chủng loại và phẩm cấp với hàng Trung Quốc. Thứ hai, cẩn thận với các nhà đầu tư từ Trung Quốc muốn sang Việt Nam sản xuất những mặt hàng mà Việt Nam đang xuất khẩu, bởi họ muốn tránh xuất xứ hàng Trung Quốc, đối tượng bị kiện chống phá giá ở EU hay Mỹ.

Việt Nam nên HỌC Ethiopia


Tạp chí Nhịp Cầu Đầu Tư - Tạp chí Kinh doanh Uy tín hàng đầu, số: 10 cổ phiếu tiềm năng, ra ngày 16-02-2009
Việt Nam nên HỌC Ethiopia
Tác giả: HUỲNH PHAN    NCĐT 16/02/2009
Có nhiều điều Việt Nam có thể học từ Ethiopia, nhất là về tư duy chính sách.
Giáo sư Kenichi Ohno, Giám đốc Diễn đàn Phát triển Việt Nam (trụ sở tại Hà Nội), sang Việt Nam từ năm 1995. Kể từ đó, ông đã tham gia rất nhiều hội thảo về chính sách công nghiệp tại Việt Nam. Sau gần 15 năm kiên nhẫn đối thoại và thuyết phục các nhà hoạch định chính sách công nghiệp ở Việt Nam, ông đã thốt lên: “Hà Nội đã thay đổi rất nhiều với nhiều khách sạn mọc lên và xe hơi chạy đầy đường, nhưng tư duy các nhà hoạch định chính sách công nghiệp vẫn vậy. Hơn một thập kỷ qua, cứ dự hội thảo nào về phát triển công nghiệp phụ trợ là tôi nghe đi nghe lại điệp khúc là phải đưa công nghệ vào hay kích cỡ thị trường Việt Nam còn quá nhỏ…”.
Dưới đây là những ý kiến của Giáo sư Ohno sau 2 chuyến đi Ethiopia, mà ông coi là có tác dụng hâm nóng lại nhiệt tình đã bị nguội lạnh đi nhiều sau gần 15 năm ở Việt Nam.
Người Việt Nam có thể cho rằng Ethiopia là một nước nghèo ở châu Phi. Tổng thu nhập nội địa tính trên đầu người của họ chỉ khoảng 160 USD/năm, còn Việt Nam sắp đạt được mức 1.000 USD/năm. Theo Ngân hàng Phát triển châu Á, năm 1990, Việt Nam chỉ đạt khoảng 100 USD/người. Theo tiêu chí này, Ethiopia giống hệt Việt Nam trước khi mở cửa thị trường. Như vậy, về trình độ phát triển, Ethiopia tương tự như Việt Nam cách đây 20 năm. Nhưng, về tư duy chính sách, theo Giáo sư Ohno, họ vượt Việt Nam hiện nay rất nhiều.

TƯ DUY CHÍNH SÁCH
Lần đầu tiên ông đến Ethiopia là để dự hội nghị “Sáng kiến về đối thoại chính sách về châu Phi”, do Giáo sư Stiglitz, Đại học Colombia (Mỹ), chủ trì. Thủ tướng Ethiopia, người đã ngồi dự cả 2 ngày Hội nghị, nói với đại sứ Nhật tại nước này rằng, ông cũng muốn Tổ chức Hợp tác Quốc tế Nhật Bản (JICA) vạch ra ở Ethiopia một đề án hỗ trợ công nghiệp và vốn viện trợ phát triển (ODA) tương tự ở Đông Á như phía Nhật đã trình bày.
Lần thứ hai Giáo sư Ohno sang Ethiopia là tháng 3 năm ngoái và được gặp lại Thủ tướng Ethiopia. Thủ tướng cho biết, ông muốn JICA triển khai một đề án công nghiệp mới cho Ethiopia. Sau đó, Giáo sư tới gặp Bộ Thương mại và Công nghiệp. “Qua trao đổi, chúng tôi hiểu rằng họ nắm rất vững ý tưởng của Thủ tướng nên quá trình triển khai rất nhanh chóng và hiệu quả”, Giáo sư nói.
Chẳng hạn, chiến lược phát triển công nghiệp của Ethiopia chỉ ra rất rõ những ngành công nghiệp mũi nhọn là da giày, dệt may, thịt và chế biến thực phẩm, xây dựng. Gần đây, họ bổ sung thêm ngành sản xuất hoa tươi để xuất khẩu. Chiến lược này đã được vạch ra từ năm 2003 và hiện nay vẫn thực hiện.
Việt Nam cũng có một loạt lĩnh vực mũi nhọn, có điều danh sách này không nhận được sự nhất trí hay chia sẻ bởi khu vực doanh nghiệp, hay thậm chí giữa các bộ và chính quyền địa phương. Có quá nhiều lĩnh vực ưu tiên, nào là hi-tech, nào là phần mềm, nào là hóa chất, rồi hóa dầu, rồi khai khoáng, rồi đóng tàu, rồi đủ thứ nữa. Nhiều lĩnh vực ưu tiên quá tức là chẳng ưu tiên lĩnh vực nào cả, Giáo sư nói.
Một điều đáng nói nữa là chương trình hợp tác giữa 2 khu vực công và tư của Ethiopia rất tốt. Các hiệp hội ngành nghề luôn có các cuộc đối thoại định kỳ hằng quý với Bộ Thương mại và Công nghiệp, hoặc bất thường khi có vấn đề nảy sinh. Chẳng hạn, khi phát hiện trong cà phê xuất khẩu của Ethiopia có dư lượng hóa chất, họ tổ chức ngay hội thảo với sự tham dự của Thủ tướng, Bộ trưởng Thương mại và Công nghiệp, giới doanh nghiệp và các chuyên gia để tìm ra giải pháp. Và họ đã cứu được ngành cà phê.
Trong khi đó, theo Giáo sư Ohno, Việt Nam đã tồn tại căn bệnh kinh niên là phản ứng quá chậm đối với những thay đổi. Chính vì vậy, việc Việt Nam đã bỏ lỡ rất nhiều cơ hội hoàn toàn không có gì đáng ngạc nhiên.
Ở Việt Nam, công cuộc công nghiệp hóa một cách ồ ạt đã gây ảnh hưởng nặng tới nông nghiệp. Trong khi Ethiopia xác định cần phát triển công nghiệp trên cơ sở nông nghiệp, tức nông nghiệp không bị co lại khi công nghiệp phát triển, mà 2 ngành cùng phát triển. Nông nghiệp phát triển để tăng đầu vào cho công nghiệp, đồng thời là nơi tiêu thụ những sản phẩm công nghiệp, đóng vai trò là động lực cho công nghiệp phát triển.

CHÍNH SÁCH CỦA NHẬT BẢN


ODA của Nhật dành cho các nước đang phát triển có chiều hướng co lại do suy giảm kinh tế. Nhưng theo Giáo sư Ohno, đa số các chính khách Nhật đều muốn tăng ODA cho châu Phi, có những người thậm chí còn muốn tăng ngay lên gấp đôi. Vì vậy, ODA dành cho các nước Đông Á, trong đó có Việt Nam, có thể bị co lại.
Thứ nhất, về chính trị, Nhật Bản vẫn theo đuổi tham vọng trở thành thành viên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hiệp Quốc. Và châu Phi có thể cung cấp hơn 50 phiếu ủng hộ. Thứ hai, Trung Quốc đang mở rộng ảnh hưởng ở châu lục này thông qua hỗ trợ ODA, thương mại và đầu tư, để có thể khai thác nguồn tài nguyên khổng lồ ở châu Phi. Nhật Bản không muốn bị tụt lại trong cuộc đua này. Như vậy, vì cả lý do chính trị và kỳ vọng về kinh tế, Nhật sẽ dành một phần đáng kể nguồn lực của mình cho châu Phi.
Mặt khác, Việt Nam và Nhật Bản đang xây dựng quan hệ đối tác chiến lược và người Nhật đặt rất nhiều kỳ vọng ở quốc gia này. Nhưng nếu phía Việt Nam vẫn cứ cố thử thách sự kiên nhẫn của họ, không loại trừ khả năng người Nhật sẽ phải đi tìm mặt trận mới. Những nước châu Phi như Ethiopia đã tạo dựng được niềm tin ban đầu đối với đất nước mặt trời mọc.

Việt kiều và những rào cản


Tạp chí Nhịp Cầu Đầu Tư - Tạp chí Kinh doanh Uy tín hàng đầu, số: Ngân hàng trước cột mốc 3.000 tỉ đồng, ra ngày 30-11-2009
Việt kiều và những rào cản
Tác giả: Lưu Hương    NCĐT 30/11/2009
Rào cản thủ tục và thiếu cơ chế theo dõi xử lý kiến nghị là những nguyên nhân chính khiến kiều bào không thể đóng góp tích cực vào công cuộc phát triển đất nước.
Tại Đại hội Việt kiều toàn thế giới tổ chức ở Hà Nội vào ngày 21-23.11, Thứ trưởng Khoa học - Công nghệ Lê Đình Tiến đặc biệt nhấn mạnh tới vai trò cầu nối khoa học của các chuyên gia Việt kiều trong thời kỳ hội nhập. “Họ tham gia đóng góp tại các hội nghị về chính sách kinh tế, giáo dục, khoa học - công nghệ, tại các hội nghị chuyên đề, đưa các nhà khoa học trẻ Việt Nam đi đào tạo ở nước ngoài và đưa các chuyên gia quốc tế vào Việt Nam để tăng cơ hội giao lưu tiếp xúc”, ông nói.
Cần đơn giản hóa thủ tục
Giáo sư Vật lý Trần Thanh Vân, Việt kiều Pháp, là một trong những người như vậy. Ông đã giúp Việt Nam tổ chức 6 hội thảo quốc tế về vật lý với sự góp mặt của nhiều tên tuổi hàng đầu thế giới, trong đó có cả những nhà vật lý đoạt giải Nobel. Ông kể: “Có những người tham dự hội thảo lần đầu năm 1993, khi trở lại hội thảo lần thứ 6 vào năm 2006, đã thốt lên rằng diện mạo Việt Nam thay đổi đến ngỡ ngàng.” Dù rất vui và tự hào khi nghe lời nhận xét như vậy, GS. Vân không dám nói với các vị đồng nghiệp nước ngoài là thủ tục để mời họ vào giao lưu, trao đổi với giới vật lý Việt Nam qua ngần ấy năm vẫn không thay đổi là mấy.
“Vẫn khó khăn, phức tạp và kéo dài”, ông nhận xét. Ông cho biết thêm, nếu không có mối quan hệ cá nhân với Giáo sư Nguyễn Văn Hiệu, chắc ông đã chẳng thể tổ chức được cuộc hội thảo nào ở Việt Nam.
Ông cho biết, đối với kiều bào về nước, thủ tục cũng chẳng dễ dàng hơn là mấy, mặc dù về nguyên tắc, kiều bào được kêu gọi về đóng góp cho đất nước trên nhiều lĩnh vực. Vì vậy, tại hội nghị Việt kiều được tổ chức cách đây 4 năm với khoảng 100 đại biểu kiều bào, ông đã kiến nghị đơn giản hóa thủ tục nhập cảnh. Sau 4 năm, tại đại hội lần này với gấp 10 lần số kiều bào được mời tham dự, ông lại phải nêu lại chính cái kiến nghị ấy.
Kiến nghị thứ hai của ông là làm sao để Việt kiều mua nhà tại Việt Nam dễ dàng hơn. “Đã 8 năm kể từ khi Luật Đất đai cho phép Việt Kiều có công được mua nhà, mà đến này chỉ có khoảng 40-50 người có nhà”, ông nói.
Bản thân GS. Vân cho đến thời điểm đại hội diễn ra vẫn chưa nhận được căn hộ ông đăng ký mua tại TP.HCM. Cách đây 6 tháng, mặc dù ông đã nộp tiền và hoàn tất các thủ tục khác, nhưng cán bộ phường vẫn nhất định bắt nhà khoa học đã 75 tuổi phải chứng minh rằng mình có gốc gác Việt Nam thì mới cho đăng ký. “Bí quá, tôi thuê một công ty luật lo giúp và bây giờ mới xong được phần thủ tục”, ông nói.
“Cho Việt kiều mua nhà rất có lợi cho đất nước, vì nó góp phần thúc đẩy thị trường địa ốc phát triển. Bản thân họ thì thấy quê hương thực sự là nhà của mình”, ông nhận xét.
Còn bà Gia Hòa Ryan, làm cho Hội Từ thiện Việt - Mỹ và có mặt tại Việt Nam suốt 17 năm qua, lại có niềm ưu tư khác. Một trong những công việc của Hội là đưa người Việt Nam sang Mỹ đào tạo, thời hạn ngắn thì một tuần, dài thì hai năm. “Bên trên thì phê duyệt rồi, nhưng ở cấp phường xã luôn đòi chúng tôi phải chi thêm khoản này, nộp thêm khoản kia, mới chịu hoàn tất thủ tục cho các em đi. Làm từ thiện ở Việt Nam mà cực hơn kiếm tiền bên Mỹ”, bà nhận xét.
Cần có cơ chế theo dõi xử lý kiến nghị
Mặc dù vậy, nhiều Việt kiều tham dự đại hội vẫn mong muốn được đóng góp cho đất nước. Hàng loạt các đề xuất được các chuyên gia Việt kiều đưa ra, đặc biệt là trong lĩnh vực Việt Nam rất cần là chuyển giao công nghệ.
Chẳng hạn, ông Đỗ Hữu Mười, cựu Tổng đại diện Tập đoàn Hàng không Snecma/Safran (Pháp) tại Việt Nam, đã đề xuất ngành hàng không Việt Nam nên nâng cấp 2 xưởng bảo dưỡng máy bay ở Hà Nội và TP.HCM, nắm bắt nhu cầu bảo dưỡng máy bay trên thế giới lên tới 45 tỉ USD mỗi năm. Hay Giáo sư Phan Văn Trường, Cố vấn Chính phủ Pháp về thương mại quốc tế, lại gợi ý Việt Nam nên phát triển lĩnh vực chế tạo turbin phục vụ cho ngành năng lượng và vận tải.
Tuy nhiên, theo Tiến sĩ Nguyễn Chánh Khê, Phó Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu và Phát triển Khu Công nghệ cao TP.HCM, việc chuyển giao công nghệ không được như mong đợi. Từ kinh nghiệm sau 7 năm về nước làm việc, ông đã chỉ ra những khó khăn cũng như những mâu thuẫn về lợi ích.
Thứ nhất, theo ông, chuyển giao công nghệ về nước rất khó khi Việt kiều còn ở nước ngoài. Thứ hai, làm khoa học công nghệ ngay trong nước sẽ đối đầu với các tập đoàn nghiên cứu khoa học công nghệ trong nước sử dụng nguồn ngân sách. Thứ ba là khó tránh được sự đố kỵ trong quan hệ với các nhà khoa học trong nước. Và cuối cùng là các chuyên gia Việt kiều khó tìm được sự hỗ trợ về tài chính của Bộ Khoa học - Công nghệ, cũng như ở cấp sở.
“Phải có tinh thần hợp tác, kiên trì và đoàn kết trên cơ sở tinh thần thi đua yêu nước mới có thể vượt qua được mâu thuẫn kể trên”, ông Khê nói. Ông cũng cho biết thêm, điều ông kỳ vọng nhiều nhất là sự quan tâm của các nhà đầu tư tư nhân.
Ngoài việc kiến nghị Nhà nước nên có sự đối xử bình đẳng giữa chuyên gia trong nước và Việt kiều và bảo đảm cho họ được tự do trong hoạt động nghiên cứu, ông đề xuất rằng đề tài nghiên cứu nhà nước không nên chỉ giới hạn đối với các chuyên gia trong nước.
Về vấn đề này, một quan chức Bộ Ngoại giao (xin được giấu tên) có nhiều năm làm công tác Việt kiều nhận xét: “Ai cũng biết để đăng ký được một đề tài nghiên cứu khoa học cấp nhà nước và được cấp kinh phí từ ngân sách, các chuyên gia trong nước phải chạy qua bao nhiêu cửa với khoản nọ khoản kia. Chúng ta để các nhà khoa học Việt kiều cũng phải làm điều tương tự thì còn ra thể thống gì!”.
GS. Vân, cũng như một số chuyên gia Việt kiều khác, đều cho rằng để những kiến nghị của Việt Kiều có thể được xem xét và tiếp thu một cách nghiêm túc, rất cần có một cơ chế theo dõi xem những kiến nghị đó được xử lý ra sao, theo tiến trình nào. “Các chuyên gia khác cũng đồng ý với tôi rằng cần phải nâng cao vị thế và tiếng nói thực sự của Ủy ban Nhà nước về người Việt Nam ở nước ngoài. Nếu họ chỉ là một đầu mối tiếp nhận ý kiến thì không có ý nghĩa gì cả”, GS. Vân nói. Và ông nói thêm, ông mong khi đến Đại hội Việt kiều toàn thế giới lần 2, ông không phải một lần nữa lặp lại những kiến nghị lần này
Vai trò cầu nối khoa học của các chuyên gia Việt kiều được nhấn mạnh tại Đại hội Việt kiều tổ chức ở Hà Nội tuần qua.

Doanh nghiệp nói, ai nghe?


Tạp chí Nhịp Cầu Đầu Tư - Tạp chí Kinh doanh Uy tín hàng đầu, số: Sáng - tối thị trường bảo hiểm, ra ngày 19-04-2010
Doanh nghiệp nói, ai nghe?
Tác giả: Lưu Hương    NCĐT 19/04/2010
Để tiếng nói của doanh nghiệp được lắng nghe tại các cuộc họp ASEAN, các hiệp hội nên được chọn là người đại diện, chứ không phải những tập đoàn lớn của Nhà nước.
Trong cuộc họp của Hội đồng Kinh tế ASEAN, diễn ra trước thềm Hội nghị Cấp cao ASEAN 16 tại Hà Nội, khi bàn về các biện pháp thúc đẩy sự liên kết kinh tế trong khối, có một kết luận quan trọng được rút ra. Đó là thúc đẩy hơn nữa đối thoại giữa Chính phủ và doanh nghiệp để những cam kết liên kết về kinh tế trong khối này trở nên khả thi hơn. NCĐT đã trao đổi về vấn đề này với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan, người đã có nhiều năm theo dõi tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế của doanh nghiệp Việt Nam.
Bà đánh giá gì về kết luận trên, nhất là đối với trường hợp của Việt Nam?
Lẽ ra, điều đó phải được đưa ra từ lâu rồi. Chẳng hạn, quá trình đàm phán thương mại của Việt Nam với Trung Quốc, trong khuôn khổ Hiệp định Thương mại Tự do ASEAN - Trung Quốc, hầu như giới doanh nghiệp không được mời tham vấn là nên mở cửa đến đâu và với những sản phẩm nào. Các cơ quan xem đó là công việc riêng của mình. Thậm chí, khi đã cam kết rồi lại coi đó là tài liệu mật. Tôi còn nhớ mãi chuyện Việt Nam và Mỹ hoàn tất hiệp định thương mại song phương. Trong khi Mỹ đã công bố hết những cam kết lên mạng thì ở Việt Nam, các văn bản của các bộ liên quan vẫn còn đóng dấu mật.
Nếu có được mời tham vấn thì Chính phủ chỉ mời các doanh nghiệp lớn của Nhà nước. Trong nhiều trường hợp, lợi ích của họ không phản ánh lợi ích của cộng đồng doanh nghiệp nói chung.
Tức quy trình của Việt Nam vẫn là từ trên xuống?
Đúng vậy. Chưa nói đến chuyện quan hệ giữa Chính phủ và doanh nghiệp, ngay giữa các cơ quan liên quan, sự phối hợp với nhau cũng rất yếu, ngành nào biết việc ngành đó. Chẳng hạn, thương mại nông sản thì liên quan đến cả Bộ Công Thương và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Tuy nhiên, hai cơ quan này phối hợp không ăn ý, khiến cho hàng nông sản Việt Nam chưa bao giờ đạt được giá trị xuất khẩu cao nhất.
Hoặc hệ thống thuế quan vẫn thể hiện tư tưởng là tận thu cho ngân sách, thay vì có cả chức năng hỗ trợ phát triển. Ở đây, có sự mâu thuẫn giữa mục tiêu ngắn hạn và dài hạn, liên quan đến cải tiến công nghệ để gia tăng sức cạnh tranh về lâu dài. Xi-măng là ví dụ rõ nhất. Trong một thời gian dài, Việt Nam đã duy trì mức thuế cao, để ngành xây dựng, giao thông phải chịu giá xi-măng trong nước rất cao, thay vì có thể mua xi-măng Thái Lan với giá cạnh tranh. Đó là chưa kể đến vấn đề chất lượng. Các địa phương coi như đã được bật đèn xanh để nhập công nghệ sản xuất xi-măng lạc hậu (công nghệ lò đứng) do Trung Quốc thải ra. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng vì thế mà chỉ lao vào những ngành được Nhà nước bảo hộ như ôtô.
Sau nhiều năm kiến nghị, Hội đồng Doanh nghiệp ASEAN, kể từ năm 2007, đã được phép đối thoại với lãnh đạo trước mỗi Hội nghị Cấp cao ASEAN hay Hội nghị Bộ trưởng Kinh tế ASEAN. Đại diện Việt Nam trong hội đồng này là một lãnh đạo Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), đại diện của Ngân hàng Đông Nam Á và Ngân hàng BIDV. Theo bà, họ có đại diện một cách đầy đủ cho lợi ích của doanh nghiệp?
Kể từ lần đầu tiên được mời tham dự cuộc họp của Liên đoàn Các phòng Thương mại và Công nghiệp ASEAN vào năm 1994, tôi nhận thấy, ngoài đại diện của phòng thương mại và công nghiệp các nước, luôn có sự hiện diện của đại diện hiệp hội công nghiệp, đại diện cho các nhà sản xuất.
Ở Việt Nam, tuy VCCI đại diện cho cả các hiệp hội ngành nghề và cộng đồng doanh nghiệp, nhưng tiếng nói lớn nhất chỉ đến từ các tổng công ty lớn của Nhà nước. Vì vậy, nhiều khi kiến nghị của họ mang lợi ích cục bộ nhiều hơn là lợi ích chung của cộng đồng doanh nghiệp. Đáng mừng là xu hướng này đang giảm dần, do các doanh nghiệp vừa và nhỏ đang ngày càng mạnh dạn phản ứng lại.
Hơn nữa, không như phòng thương mại và công nghiệp ở nhiều nước ASEAN, VCCI là một tổ chức bán chính phủ, nên vai trò đối thoại và phản biện những chính sách của Chính phủ có lẽ vẫn chưa thật quyết liệt. Vì vậy, theo tôi, các hiệp hội ngành nghề mới thực sự là đại diện của doanh nghiệp.
Không như nhiều nước ASEAN khác, các hiệp hội ở Việt Nam được thành lập theo kiểu hành chính, nhiều khi chỉ là danh nghĩa. Lãnh đạo nhiều hiệp hội lại là những quan chức đã về hưu. Như vậy, liệu họ có dám nói lên tiếng nói của doanh nghiệp, nhất là khi quyền lợi của doanh nghiệp mâu thuẫn với lợi ích của Chính phủ?
Nếu nói nhiều hiệp hội doanh nghiệp là cánh tay nối dài của Nhà nước cũng chẳng oan gì. Tình trạng hành chính hóa hoạt động của các hiệp hội này quá nặng nề. Đó là chưa kể đến việc nhiều hiệp hội do các doanh nghiệp lớn, đa phần là quốc doanh, cầm trịch. Tiếng nói lợi ích của họ át đi tiếng nói lợi ích của các doanh nghiệp nhỏ và vừa.
Việc các quan chức về hưu được bổ nhiệm làm chủ tịch các hiệp hội, ít hay nhiều, cũng mang phong cách hành chính của họ vào hiệp hội. Rồi do mối quan hệ quen biết với những người đương nhiệm, nên nhiều khi họ khó ăn khó nói.
Theo tôi, ngoài việc chấn chỉnh lại quy chế của các hiệp hội theo đúng chức năng, Việt Nam cũng nên học hỏi các nước phát triển hơn trong ASEAN. Theo quan sát của tôi từ nhiều năm qua, trước khi họ đến họp ASEAN, những vấn đề của doanh nghiệp đã được đưa ra bàn thảo trước với chính phủ nước họ. Họ đến với ASEAN chỉ là để góp thêm tiếng nói cho những ý tưởng, chính sách đã được thống nhất giữa chính phủ và cộng đồng doanh nghiệp.
Một trong 4 mục tiêu của năm Việt Nam làm chủ tịch ASEAN là tăng cường kết nối ASEAN về kinh tế. Bà có nghĩ rằng điều này là hơi khó, khi ngay tại Việt Nam, việc phối hợp giữa doanh nghiệp với Chính phủ và giữa các cơ quan với nhau lại có vấn đề?
Đúng vậy. Sự liên kết đầu tiên phải xuất phát từ lợi ích của đất nước mình, sau đó mới vì sự liên kết trong hội nhập. Ý thức được việc này, Chính phủ Việt Nam đã thành lập Ủy ban Quốc gia về Hội nhập Kinh tế Quốc tế. Có điều, vai trò của cơ quan liên ngành này lại không như mong muốn vì những vị trí chủ chốt hầu như đều được kiêm nhiệm.

Xây dựng khu kinh tế mở: Lệch lạc cách làm



Tạp chí Nhịp Cầu Đầu Tư - Tạp chí Kinh doanh Uy tín hàng đầu, số: Học Trung Quốc quy hoạch đô thị, ra ngày 06-09-2010
Xây dựng khu kinh tế mở: Lệch lạc cách làm
Tác giả: Lưu Hương    NCĐT 06/09/2010
Sau 6 năm xây dựng Chu Lai, khu kinh tế mở đầu tiên ở Việt Nam, kết quả thu hút đầu tư hầu như vẫn giẫm chân tại chỗ.
Trong hội thảo “Việt Nam trong thập kỷ tới và sau đó”, tổ chức tại Hà Nội cách đây hơn nửa tháng, một số chuyên gia trong và ngoài nước khẳng định rằng, để tạo ra đột phá trong 10 năm tới, Việt Nam cần có sự đột phá về thể chế thông qua việc phát triển các khu kinh tế tự do. “Đó cũng là sự chuẩn bị cần thiết về thể chế cho giai đoạn sau năm 2020 để Việt Nam có thể tránh mắc vào bẫy thu nhập trung bình”, ông Homi Kharas, chuyên gia kinh tế cao cấp của Viện Nghiên cứu Brookings (Mỹ), nhận định.
Tuy nhiên, kết quả hoạt động của khu kinh tế mở (KTM) đầu tiên của Việt Nam Chu Lai sau 6 năm thành lập cho thấy một kết quả không mấy khả quan. Tổng vốn đầu tư cam kết đến nay đạt 1,4 tỉ USD, bằng đúng con số mà Ban Quản lý khu này đưa ra trong lễ kỷ niệm 2 năm thành lập (2005). Và nhà đầu tư lớn nhất tại Chu Lai lại là một doanh nghiệp trong nước: Công ty Ôtô Trường Hải.
Giải thích lý do Khu Kinh tế mở Chu Lai thất bại trong việc thu hút các nhà đầu tư lớn từ nước ngoài, Tiến sĩ Võ Đại Lược, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, cho rằng, các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam đã có sự nhầm lẫn về khái niệm của các khu kinh tế. “Bản chất kinh tế mở là tự do về thể chế chứ không phải cơ chế. Thực chất Chu Lai vẫn là một khu công nghiệp, với ưu đãi ngang bằng với vùng khó khăn nhất và độ mở cửa ngang với khu cửa khẩu Lao Bảo. Tức là chẳng có gì đặc biệt cả”, ông Lược, Chủ nhiệm Đề tài nghiên cứu cấp quốc gia về phát triển khu kinh tế tự do, nhận xét.
Đột phá về thể chế để phát triển
Theo Tiến sĩ Lược, mục đích thành lập ra các khu kinh tế tự do ở các nước trên thế giới, bất kể là ở những nước phát triển như Mỹ, các thành viên Liên minh châu Âu, Hàn Quốc, hay đang phát triển như Trung Quốc và Malaysia, là tạo ra những đột phá về thể chế. Bởi vì, rất khó có thể tiến hành cải cách thể chế một cách đồng loạt trên bình diện quốc gia. Nhật là một trường hợp hiếm hoi đã cải cách thể chế trên cả nước thành công vào thời Minh Trị, đưa Nhật tiến thẳng từ một nền kinh tế nông nghiệp vào hàng ngũ các nước phát triển.
Nhà lãnh đạo Đặng Tiểu Bình của Trung Quốc đã từng đến Thâm Quyến (Quảng Đông) và nói với những người thành lập đặc khu kinh tế này rằng, Chính phủ Trung ương không thể cho họ tiền, mà chỉ cho thể chế thôi. “Các anh phải từ thể chế đó mà tìm ra tiền”, ông đã phát biểu.
Thể chế hiện đại và quốc tế là yếu tố quyết định thu hút đầu tư. Kế đến mới là các tiêu chí khác như vị trí địa lý thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại, nguồn nhân lực chất lượng cao và sự liên kết trong một tuyến tăng trưởng. “Họ đã áp dụng ở Thâm Quyến mô hình tự chủ của Hồng Kông, và thể chế này sau đó đã được áp dụng cho các đặc khu kinh tế ven biển khác của Trung Quốc. Kết quả là 80% đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc đã được tập trung ở vùng ven biển”, ông Lược dẫn chứng.
Thể chế của các đặc khu kinh tế ở Trung Quốc là thể chế phát sinh từ mô hình thể chế của Hồng Kông, với quyền tự chủ thể hiện qua những tư tưởng chung là “chính phủ nhỏ, xã hội lớn”, "phê duyệt ít, dịch vụ nhiều”, “hiệu quả cao, pháp chế hoá” và “tinh giản thống nhất và hiệu quả”.
Chính phủ Trung Quốc cho phép các đặc khu kinh tế có thể chế ưu tiên khác với thể chế trong nước, theo mô hình hướng ngoại, tới mức “một quốc gia trong một quốc gia”, để có thể thu hút được vốn, kỹ thuật, phương pháp quản lý của nước ngoài.
“Chẳng hạn, về tư tưởng “nhà nước nhỏ, xã hội lớn”, nếu như ở các tỉnh thành ở Trung Quốc có tới 65 cơ quan đầu mối quản lý thì ở những đặc khu kinh tế như Thâm Quyến, các cơ quan hành chính cấp đặc khu chỉ còn 4 đơn vị. Đó là các cục phát triển kinh tế, phát triển thương mại, vận tải và nông nghiệp”, ông Lược đưa ra ví dụ.
Phải lắng nghe nhà đầu tư nước ngoài
Trong khi đó, ở Việt Nam, mặc dù Bộ Kế hoạch - Đầu tư đã hoạch định ra 15 khu kinh tế suốt dọc chiều dài của đất nước nhưng không có một khu nào có thể chế đúng với tiêu chuẩn của một khu kinh tế tự do, tức là có quy chế tự quản và quốc tế hóa cao. “Việt Nam cần tiến tới cấp quản lý hành chính riêng cho các khu kinh tế. Chứ một khu kinh tế mở như Chu Lai không thể đặt dưới sự quản lý hành chính của một tỉnh thuộc loại nghèo nhất Việt Nam. Điều này dẫn đến việc trình độ quản lý khó mà hiện đại được”, ông Lược nhận xét.
Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng, trong giai đoạn đầu xây dựng các khu kinh tế tự do ở Việt Nam, các khu này có thể vẫn trực thuộc một tỉnh, hay thành phố. Và những tỉnh hay thành phố này cần được hưởng cơ chế tỉnh hoặc thành phố mở. Theo cách làm của Trung Quốc, những khu kinh tế mở được hưởng những ưu đãi về thuế, một số ưu đãi về thể chế hành chính và kinh tế, về đầu tư cơ sở hạ tầng. Tuy ưu đãi này thấp hơn các đặc khu kinh tế, nhưng cao hơn so với cả nước. “Những tỉnh, thành phố mở (mở cửa) có thể là Quảng Ninh, Hải Phòng, Huế, Đà Nẵng, Phú Yên, Khánh Hòa, Bà Rịa – Vũng Tàu, hay TP.HCM”, ông Lược gợi ý dựa trên những điều tra về nguyện vọng của các nhà đầu tư nước ngoài.
Nguyện vọng của các nhà đầu tư nước ngoài là một điểm mà ông Lược cho rằng cần hết sức lưu ý trong việc chọn lựa địa điểm xây dựng các khu kinh tế tự do. Theo ông, đặc điểm của các nhà đầu tư nước ngoài là tận dụng được lợi thế so sánh và cạnh tranh. Theo đó, họ sẽ chọn những nơi nào có tiềm năng lớn mà chưa được khai thác. Bên cạnh đó, họ sẽ đóng góp thêm một số ý tưởng, một ít tiền và xin thêm những cải cách về thể chế. Khi đó, tiềm năng lợi thế sẽ trở thành tài nguyên lợi thế.
Ông Lược cho biết, khi tiếp xúc với lãnh đạo tỉnh Quảng Ninh, ông được biết rằng ở khu kinh tế Vân Đồn, ngoài ông trưởng ban quản lý lo giữ đất, chẳng có nhà đầu tư nước ngoài nào ngó ngàng đến nơi này cả. “Họ đến đây để kiếm tiền, chứ không phải làm từ thiện, giúp Việt Nam phát triển các vùng nghèo khó”, ông Lược nhận xét.

Thay cái bình đã hết đát


 Chuyển đổi doanh nghiệp nhà nước: Thay cái bình đã hết đát (15/09/2010)
 
Chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan

Từ 01/07/2010, hơn 1.000 doanh nghiệp nhà nước (DNNN) đã được chuyển đổi thành công ty TNHH một thành viên để họat động theo luật Doanh nghiệp chung. Liệu việc chuyển đổi này có khiến cho môi trường kinh doanh của Việt Nam trở nên bình đẳng hơn, và giúp nâng cao năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam, để Việt Nam thực sự có một nền kinh tế thị trường theo đúng nghĩa, cũng như sớm được các đối tác trong WTO công nhận? ĐTNN đã trao đổi với chuyên gia kinh tế Phạm Chi Lan xung quanh các nội dung này.
ĐTNN: Xin bà cho biết việc giữ quá nhiều doanh nghiệp 100% vốn nhà nước có ảnh hưởng gì tới việc các đối tác trong WTO sớm công nhận Việt Nam có qui chế kinh tế thị trường, như mong muốn của Việt Nam, hay không?
Bà Phạm Chi Lan: Thực ra Mỹ, hay Liên minh châu Âu, không đưa ra yêu cầu là bắt Việt Nam phải cắt giảm DNNN. Họ chỉ yêu cầu các DNNN đó phải hoạt động như các doanh nghiệp khác trên một sân chơi bình đẳng.
Điều đó có nghĩa là những ưu đãi phải bị cắt bỏ đi. Nhà nước không được cấp tín dụng đặc biệt, cho thuê đất với giá đặc biệt (thực ra là giao đất), không được trao quyền kinh doanh riêng cho những doanh nghiệp này, như xưa nay vẫn làm. Hoặc, doanh nghiệp 100% vốn nhà nước cũng không có đặc quyền tiếp cận các dự án của Nhà nước mà các doanh nghiệp tư nhân không được tham gia. 
Thứ hai, mua sắm của doanh nghiệp 100% vốn nhà nước không được coi là mua sắm nhà nước, tức là không được dùng vốn ngân sách. Chẳng hạn, việc Quốc hội vẫn thông qua đề nghị của Chính phủ cho Petro Vietnam giữ lại 40% doanh số để tái đầu tư là không được nữa, vì điều đó vi phạm nguyên tắc thị trường. 
Theo tôi được biết qua trao đổi với các chuyên gia nước ngoài, WTO và các đối tác khác sẽ tiếp tục giám sát chặt chẽ, và sẽ có những đòi hỏi mạnh mẽ để Việt Nam phải thực hiện theo đúng những tiêu chí của WTO, mới quyết định có công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường hay không.
Nói tóm lại, Việt Nam ngay từ bây giờ phải có kế hoạch và lộ trình cổ phần hóa các công ty TNHH một thành viên (nhà nước) này, sau khi đã buộc phải làm cái chuyện bất đắc dĩ là “đổ rượu cũ qua bình mới” vì bình cũ (luật Doanh nghiệp nhà nước) đã hết đát.
Theo bà, việc chậm trễ cổ phần hóa các DNNN có tác động gì đến câu chuyện tăng năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp Việt Nam nói chung, khi nền kinh tế phải mở cửa để hội nhập? Bởi, họ hầu như chiếm hết những ngành then chốt, và được hưởng đầy đủ những ưu đãi, từ đó có thể chèn ép sự phát triển của khu vực doanh nghiệp tư nhân?
Việc dành ưu đãi, đặc biệt là quyền kinh doanh cho DNNN sẽ để lại một hậu quả lớn, là một số ngành then chốt, khi phải mở cửa ra bên ngoài rộng hơn theo lộ trình cam kết WTO, có thể sẽ rơi vào tay nước ngoài vì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp trong nước yếu. Chẳng hạn về hạ tầng, với một nhu cầu quá lớn như thế này, làm sao Nhà nước một mình tiếp tục đầu tư được nữa, mà doanh nghiệp nước ngoài lại cạnh tranh tốt hơn DNNN. Tôi e rằng đến một lúc nào đó giật mình tỉnh lại, sẽ thấy các ngành thiết yếu rơi hết vào các đại gia bên ngoài, và trong nền kinh tế sẽ nảy sinh nguy cơ mới là sự mất tự chủ ở mức độ nhất định.
Còn đối với khu vực doanh nghiệp tư nhân trong nước, sẽ xảy ra hai câu chuyện. Thứ nhất, các doanh nghiệp nhỏ và vừa bị DNNN chèn ép khó ngóc đầu lên, và không thể đóng góp có hiệu quả cho nền kinh tế, trong đó có việc tăng cường tính tự chủ, như được kỳ vọng. Thứ hai, xu hướng này lái một số doanh nghiệp tư nhân chạy theo, bắt chước các DNNN. Tức là họ không tiếp tục kinh doanh bằng năng lực thực sự, có khi đã thành danh của mình, mà cũng đi vận động hành lang, đi bằng con đường của chủ nghĩa thân hữu, và dần biến nền kinh tế này phát triển dựa trên quan hệ thân hữu.
Câu chuyện về cái tập đoàn tư nhân chuyên về xây dựng khu công nghiệp là một dẫn chứng tốt, khi họ nhờ mỗi quan hệ nọ quan hệ kia đầu tư vào bất động sản, và phất lên từ đó. Hay cái tập đoàn mà ở Hà Nội, TP. HCM, hay bất cứ đâu có mảnh đất vàng để làm văn phòng, siêu thị cho thuê… là có mặt họ, cũng là câu chuyện thành công trên quan hệ với những người có quyền chức cả.
Lúc đầu họ có thể có năng lực thật, có ước mơ hoài bão thật, nhưng rồi thấy con đường đó vất vả quá, trong khi con đường của các đàn anh DNNN lớn ngon lành bao nhiêu. Thứ hai, họ đã nhận thấy rằng sự ưu ái trên cơ sở có đi có lại không nhất thiết phải bó gọn trong khu vực DNNN nữa, nên tận dụng thời cơ luôn.
Nguy hiểm hơn nữa, điều này không chỉ xảy ra với tư nhân trong nước, mà cả tư nhân nước ngoài, và một số nhà đầu tư nước ngoài đã thắng ở Việt Nam bằng con đường thân hữu. Họ khống chế được chính sách thuế, cũng như một số qui định pháp lý khác. Công nghiệp ô tô là một ngành điển hình, hay công nghiệp thép cũng tương đối rõ.
Bà có thấy sự liên quan gì giữa sự lần lữa trong tiến trình cổ phần hóa tới  nguy cơ phá sản của đề án tái cấu trúc nền kinh tế? Bởi cốt lõi của đề án tái cơ cấu là phân bổ lại nguồn lực cho hiệu quả hơn, trong khi việc chuyển đổi DNNN thành công ty TNHH một thành viên (nhà nước) được nhận xét là cơ bản không thể hiện sự thay đổi tư duy về vai trò của khu vực kinh tế nhà nước?
Ban đầu Nhà nước có vẻ rất hào hứng với tái cấu trúc nền kinh tế. Khi khủng hoảng xảy ra, các vị lãnh đạo đều thúc giục các ngành phải làm đề án tái cấu trúc ngành mình, đồng thời giao bộ Kế hoạch và đầu tư lập một đề án chung, tìm kiếm thúc đẩy các hướng đi. Thậm chí, họ đã từng tuyên bố rằng Việt Nam phải đi theo mô hình tăng trưởng khác, bởi mô hình tăng trưởng cũ là bất ổn…
Nhưng khi đề án chung hoàn thành và trình lên lãnh đạo Chính phủ, thì sự tiếp nhận dường như rất hờ hững. Trong kế hoạch 5 năm tới, không thấy bóng dáng của tái cấu trúc nữa. Ngay cả ngôn từ cũng có sự thay đổi. Các anh ở viện Quản lý kinh tế Trung ương có nói với tôi rằng họ được giải thích từ bên trên rằng nói tái cấu trúc tức là cấu trúc hiện nay hóa ra lại sai à. Tức là, theo quan điểm của họ, với tư duy “sai đâu sửa đó”, lâu nay Việt Nam liên tục có sự chuyển đổi cơ cấu.
Theo quan điểm của giới chuyên gia chúng tôi, cái cao nhất của tái cấu trúc không phải là bớt làm nông nghiệp đi, tăng công nghiệp – dịch vụ thêm, mà thay đổi cách phân bổ sử dụng nguồn lực, nhất là thay đổi mô hình tăng trưởng chỉ tính theo tốc độ mà không tính theo hiệu quả. Vì vậy, yêu cầu cao nhất của tái cấu trúc là lấy hiệu quả làm thước đo chính, từ đó kéo theo sự phân bổ lại nguồn lực để phục vụ cho cái hiệu quả đó.
Từ đó phải xem lại các ngành, qui hoạch các vùng, và xem lại vai trò nhà nước đến đâu, vai trò doanh nghiệp tới đâu. Trong đó, ở khu vực doanh nghiệp ai là người chơi thực sự và mang lại hiệu quả cao hơn. Hay, những ngành làm ăn không hiệu quả buộc phải dẹp đi, hoặc thu gọn lại, tạo ra những ngành mới…
Tuy nhiên, ngay cả với nội dung đã được viết lại rất ngắn và sơ lược so với bản thảo ban đầu, đề án này đã được chỉ đạo đưa sang bộ phận soạn thảo chiến lược như một tài liệu tham khảo, chứ không còn vai trò độc lập như ban đầu.

Huỳnh Phan (thực hiện)

Tăng lương có giải quyết được đình công?


Ngày 24.10.2007, 12:56 (GMT+7)
Tăng lương có giải quyết được đình công?
Mức điều chỉnh “sàn” lương vào đầu năm 2008, theo thông báo của Bộ Lao động – thương binh – xã hội, đối với doanh nghiệp trong nước dự kiến tăng khoảng 20 – 38%, còn với doanh nghiệp FDI khoảng 13 – 15%, tuỳ theo từng vùng. Liệu mức nâng lương này có giúp “xoa dịu” làn sóng đình công ngày càng lan nhanh trong các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và tư nhân, do giá cả sinh hoạt leo thang mạnh
Với những ngành thâm dụng lao động như may mặc, da giày, việc tăng lương khoảng 15% sẽ khiến chi phí đầu vào của doanh nghiệp tăng lên khoảng 10%. Vì vậy để bảo đảm cho sức cạnh tranh của doanh nghiệp, họ cần phải có lộ trình... Ảnh: Thanh Tòng
Vẫn cần thời gian để doanh nghiệp điều chỉnh
Trả lời câu hỏi liệu nghị định sắp tới của Chính phủ có khiến cho chi phí đầu vào của doanh nghiệp tăng vọt lên và ảnh hưởng tới sức cạnh tranh của hàng hoá hay không, vụ trưởng Nguyễn Mạnh Cường, Uỷ ban Quan hệ lao động, khẳng định điều này không mấy ảnh hưởng bởi nhiều doanh nghiệp đã trả mức lương cao hơn “sàn” dự kiến sắp tới, chủ yếu chỉ tăng ở phần phí chi trả bảo hiểm xã hội và y tế.
Vậy tại sao đình công tăng cao? Vụ trưởng Vụ Tiền lương – tiền công Phạm Minh Huân cho biết rằng các cuộc đình công nói trên chủ yếu chỉ diễn ra trong những doanh nghiệp như dệt may, da giày và chế biến. Có thể ngầm hiểu rằng, người lao động làm việc ở những ngành này hiện có mức thu nhập thấp nhất, và có hy vọng được tăng lương một khi quy định mới của Chính phủ có hiệu lực.
Tuy nhiên, ông Nguyễn Mạnh Cường cũng lưu ý rằng, theo quy định của Tổ chức Thương mại thế giới, bất kể khi đưa ra một chính sách mới nào, bao gồm cả chính sách tiền lương, Chính phủ phải để doanh nghiệp có đủ thời gian điều chỉnh để không ảnh hưởng tới kế hoạch kinh doanh của họ.
Theo ông Takeuchi, một chuyên gia tài chính Nhật Bản, với những doanh nghiệp thâm dụng lao động và có tỷ suất lợi nhuận thấp như những ngành kể trên, việc tăng lương khoảng 15%, chẳng hạn, sẽ khiến chi phí đầu vào của doanh nghiệp tăng lên khoảng 10%, so với những doanh nghiệp thiểu dụng lao động chỉ tăng chừng 1,5%.
Kể từ đầu năm tới nay số lượng các cuộc đình công đòi tăng lương đã lên gần tới con số 100, và có nguy cơ sẽ tiếp tục tăng theo phản ứng dây chuyền.
Cũng theo ông Phạm Minh Huân, các cuộc đình công chủ yếu diễn ra tại những khu vực có tỷ lệ lao động nhập cư cao như TP.HCM, Bình Dương, hay Đồng Nai. Ngoài việc phải chi trả mức sinh hoạt cao hơn các khu vực khác, người lao động ngoại tỉnh ở những tỉnh thành này còn phải trả thêm tiền nhà trọ, khiến cho mức thu nhập thực tế của họ càng thấp hơn.
Theo thông tin mới nhất từ Bộ Tài chính, sắp tới trong thông tư hướng dẫn thi hành Nghị định 24 về việc thực hiện Luật Thuế thu nhập doanh nghiệp, sẽ có quy định cụ thể về tính khấu hao chi phí xây nhà ở công nhân vào chi phí sản xuất trong một số năm nhất định, áp dụng từ năm tài chính 2007.
Chuyên nghiệp hoá công đoàn
Dự kiến đầu năm tới, sẽ có 30 doanh nghiệp được chọn để làm thí điểm thương lượng và ký thoả ước lao động tập thể thông qua công đoàn.
Tuy nhiên, các đại diện của Uỷ ban Quan hệ lao động, bao gồm cả Tổng Liên đoàn lao động, đều thừa nhận sự yếu kém, thụ động của cấp công đoàn cơ sở – pháp nhân đại diện cho quyền lợi người lao động và đối tác đàm phán với giới chủ. Không ít các chủ tịch công đoàn trong các doanh nghiệp ngoài quốc doanh lại là người phụ trách nhân sự, có lợi ích từ việc ăn lương của chủ doanh nghiệp, nên khó có thể đại diện cho người lao động được.
Chủ tịch Hiệp hội Công thương Hà Nội Vũ Duy Thái “hiến kế” rằng, ngoài tiền công đoàn phí do người lao động đóng, Tổng Liên đoàn lao động nên thương mại hoá tất cả các nhà nghỉ của mình ở những vị trí đẹp nhất tại các khu nghỉ mát khắp đất nước, thừa gây quỹ hoạt động và trả lương.
Huỳnh Phan

Nồi cơm điện, niêu cơm đất


Ngày 29.12.2007, 11:01 (GMT+7)
Nồi cơm điện, niêu cơm đất
Phó thủ tướng Nguyễn Sinh Hùng, trong cuộc họp báo ngày 26.12 vừa rồi, đã nêu quyết tâm của Chính phủ không để giá cả tăng đột biến, ảnh hưởng đến cái tết nguyên đán của người dân
Du khách thích thú ngồi xe lôi du lịch. Ảnh: H.T
Nhưng đối với những người đạp xích lô, lái xe lôi, đẩy xe ba gác, hay lái xe lam ở thành thị, giá chưa tăng mà cuộc sống thường ngày, chứ chưa nói đến cái tết, của họ có thể sẽ bị ảnh hưởng ngay từ đầu năm 2008 này, bởi lệnh cấm lưu hành những phương tiện hành nghề của họ.
Trưởng phòng kiểm định xe cơ giới thuộc cục Đăng kiểm Nguyễn Hữu Tiến đã phủ nhận khả năng lệnh cấm lưu hành xe ba bánh tự tạo, theo tinh thần nghị quyết 32 của Chính phủ, có thể được lùi lại một thời gian, do những người bị ảnh hưởng của chính sách mới này chưa tìm được phương thức sinh sống khác.
Khả năng về việc thay thế những loại xe ba bánh này bằng loại xe do nước ngoài chế tạo, để duy trì niêu cơm cho những đối tượng trên trong khu vực nội thành, nội thị cũng chính thức bị loại bỏ, trong khi số phận những đồng nghiệp của họ ở khu vực ngoại thành, ngoại thị, hay nông thôn có thể trông chờ vào sự cởi mở và thông cảm của chính quyền địa phương (SGTT đã đưa tin trên số báo trước).
Bộ trưởng Lao động thương binh xã hội Nguyễn Thị Kim Ngân, người rất có thể phải điền thêm nhiều người đạp xích lô, kéo xe lôi, đẩy xe ba gác, hay lái xe lam, ở nội thành, nội thị, những người có thể nuôi cả gia đình nhờ vào những chiếc xe đó như nhận xét của chính bà, vào danh sách những đối tượng cần xoá đói giảm nghèo trong năm 2008 tới, cho biết việc tạo việc làm mới cũng là trách nhiệm của chính quyền địa phương.
Tôi nghĩ rằng chắc chắn chính quyền địa phương sẽ có những giải pháp cụ thể, còn bộ sẽ đưa ra chính sách chung trên cơ sở tham khảo với các địa phương, chứ tôi không thể nói rằng khi cấm xe bộ sẽ làm gì cho người bị mất việc làm có phương tiện hay nghề mới để làm ngay, bà Ngân nói.
Họ (chính quyền địa phương) phải chủ động phân loại những người bị ảnh hưởng, để có giải pháp cụ thể đối với từng loại đối tượng, vụ phó vụ Lao động việc làm Nguyễn Thị Hải Vân, giải thích, và cho biết thêm vụ của bà chưa hề nhận được yêu cầu nào liên quan đến tạo việc làm mới cho những đối tượng trên, mà chỉ được biết qua báo chí.
Cũng khó có thể trách bà Ngân, người trong cuộc họp báo tất niên của văn phòng Chính phủ chiều 26.12 vừa rồi đã vui mừng thông báo rằng năm 2007 Việt Nam đã giảm được 3% hộ nghèo, là né tránh trách nhiệm, hay đá quả bóng xuống địa phương.
Chính nghị quyết 32 của Chính phủ, ban hành cách đây hơn sáu tháng, cũng không hề nhắc tới số phận của những người chịu ảnh hưởng bởi giải pháp này, ngoài một dòng chữ lạnh lùng: Từ ngày 1.1.2008, đình chỉ lưu hành ô tô đã hết niên hạn sử dụng, xe công nông, xe tự chế ba, bốn bánh (chưa nói tới việc giao nhiệm vụ cho cơ quan nào đó giải quyết chính sách an sinh cho những người bị ảnh hưởng).
Trong khi đó, ở bộ Giao thông vận tải, cơ quan được coi là tham mưu cho Chính phủ trong việc ban hành nghị quyết này, các đầu mối như cục Đường bộ, cục Đăng kiểm, hay vụ Vận tải, khi được hỏi đều chuyền qua chuyền lại quả bóng cho nhau, trước khi tung cú sút phân cấp về địa phương.
Thiển nghĩ, có lẽ do quá bận tâm về việc thực hiện quy định bắt buộc đội mũ bảo hiểm, hay như người dân thường gọi là nồi cơm điện, những người ta đã quên mất niêu cơm đất của những người đạp xích lô, lái xe lôi, đẩy xe ba gác, hay lái xe lam, chí ít ở những khu vực nội thành, nội thị.
Chủ nhân của những chiếc nồi cơm điện và niêu cơm đất kia, chắc chắn đều hiểu được mong muốn tốt đẹp của Chính phủ trong việc giảm ùn tắc và tai nạn giao thông, và có lẽ họ cũng chấp nhận trả giá.
Ai cũng biết giá một cái nồi cơm điện cao nhất cũng chỉ khoảng triệu bạc. Nhưng giá cái niêu cơm đất là bao nhiêu nhỉ?
Hoàng Ngọc

Phòng chống tham nhũng và bộ tiêu chí Việt


Ngày 24.06.2010, 18:40 (GMT+7)
Phòng chống tham nhũng và bộ tiêu chí Việt
Thế là thấm thoát đã hơn ba năm kể từ khi văn phòng Ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng trung ương (ban chỉ đạo) ra mắt. Kể từ đó đến nay, Việt Nam đã thông qua luật phòng chống tham nhũng (sửa đổi), phê chuẩn công ước liên hợp quốc về phòng chống tham nhũng và đề ra chiến lược phòng chống tham nhũng đến năm 2020.
Nguyên chủ tịch UBND quận Gò Vấp (đúng) trả lời thẩm vấn trong vụ Gò Môn. Ảnh: T.L
Đó là chưa kể Nghị quyết của Ban Chấp hành Trung ương về Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác phòng, chống tham nhũng ban cũng đã được ban hành trước khi ban chỉ đạo ra mắt nửa năm.
“So với nhiều nước thể chế phòng chống tham nhũng của chúng ta là tốt, và được quốc tế đánh giá cao”, Chánh văn phòng ban chỉ đạo Vũ Tiến Chiến nhận xét bên lề cuộc hội thảo quốc tế với chủ đề “Tiêu chí nhận định tình hình tham nhũng và đánh giá công tác phòng chống tham nhũng ở cấp quốc gia”, diễn ra tại Hà Nội vào ngày hôm qua 23.6.
Trước khi chủ trì cuộc hội thảo này, ông Chiến đã có dịp đi trao đổi kinh nghiệm với Hàn Quốc, Trung Quốc và Mỹ, cũng như lần dự hội nghị phòng chống tham nhũng của 50 nước châu Á và Trung Đông tại Cairo (Ai cập). “Họ chỉ nhắc nhở chúng ta có mỗi một điều rằng quan trọng nhất là hiệu quả của thể chế đó khi đưa vào cuộc sống”, ông Chiến nói tiếp.
Bói quả
Hiệu quả sau ba năm vừa rồi, theo ông Chiến, là “giữa quyết tâm chính trị và hành động còn có khoảng cách đáng kể, chưa đạt được mục tiêu ngăn chặn và từng bước đẩy lùi tham nhũng”. Kết quả cuộc điều tra xã hội do Ban Tuyên giáo trung ương vào cuối năm ngoái cũng khẳng định đánh giá của ông Chiến. “Khi được hỏi về tham nhũng so với năm trước, người dân nói cũng không tăng mà cũng không giảm”, ông Chiến dẫn kết quả điều tra.
Tổ chức minh bạch quốc tế (TI), với những tiêu chí riêng của mình, cũng chia sẻ nhận định này. Thứ bậc của Việt Nam trong bảng xếp hạng của tổ chức này chỉ tăng được ba bậc sau ba năm, và vẫn thuộc nhóm kém minh bạch nhất (từ 123 lên 120 trong số 180 quốc gia).
Chính phủ Việt Nam lại không đồng tình với nhận định trên. Trong báo cáo về công tác phòng chống tham nhũng năm 2009, chính phủ cho rằng số vụ việc tham nhũng giảm dần, năm sau ít hơn năm trước, và nhiều địa phương đánh giá công tác phòng chốn tham nhũng có chuyển biến tích cực.
Đại diện của cục chống tham nhũng, thuộc Thanh tra chính phủ, khẳng định rằng, cho đến nay, trong các báo cáo công tác phòng chống tham nhũng trước quốc hội, chính phủ không sử dụng kết quả đánh giá, xếp loại của các tổ chức quốc tế làm căn cứ đánh giá. “Đây chỉ là một kênh thông tin tham khảo”, vị đại diện cục chống tham nhũng nói.
Bộ tiêu chí Việt cho người Việt
“Do chế độ chính trị khác nhau, tổ chức nhà nước khác nhau, trình độ kinh tế khác nhau, và trình độ quản lý khác nhau, các quốc gia có cách tiếp cận để đánh giá khác nhau. Mục đích của cuộc hội thảo này là tranh thủ kinh nghiệm quốc tế về nhận định tham nhũng và đánh giá công tác phòng chống tham nhũng”, ông Chiến nói, hàm ý về một bộ tiêu chí Việt, gồm sáu tiêu chí.
Tuy vậy, ông Chiến vẫn thấy băn khoăn về mô hình và tính thực quyền của cơ quan chống tham nhũng. Ông cho biết: “Những nước như Indonesia, hay Hàn Quốc, có ủy ban chống tham nhũng quốc gia. Còn ở Trung Quốc cục phòng ngừa tham nhũng quốc gia nằm trong ủy ban kiểm tra – giám sát.”
Còn Việt Nam có một mô hình rất riêng là ban chỉ đạo phòng chống tham nhũng. “Ban chỉ đạo chỉ có chức năng chỉ đạo, phối hợp, kiểm tra, hay đôn đốc các cơ quan chuyên môn thôi. Ban chỉ đạo là ông nhạc trưởng, chứ không phải anh đánh trống, hay anh thổi kèn”, ông Chiến giải thích.
Có điều, ông Chiến cũng phải thừa nhận rằng đôi khi “chiếc gậy nhạc trưởng” không đủ “uy” để ngăn cái cảnh “trống đánh xuôi, kèn thổi ngược”. Ông dẫn ra ví dụ trong khi bộ công an đang soạn thảo qui chế bảo vệ người tố cáo tham nhũng, thì bộ nội vụ lại đi soạn thảo qui chế khen thưởng cho họ.
“Qua kinh nghiệm ở nhiều nước thì một trong những biện pháp bảo vệ tốt nhất là bảo vệ bí mật cho người tố cáo, mà đã khen thưởng thì khó giữ bí mật. Ở Việt Nam nếu đối tượng bị tố cáo là người có quyền hành, anh ta có thể dùng tổ chức, hay nhiều hình thức khác để trả thù, chứ không cần dùng vũ lực.”, ông Chiến lý giải, và nhận xét thêm rằng phần thưởng lớn nhất đối với người tố cáo không phải là tiền, mà quan trọng là công bằng xã hội và vi phạm được xử lý cho nghiêm.
Khi được hỏi về sự tham gia của ban chỉ đạo vào việc phòng ngừa tham nhũng, cụ thể là trong quá trình hoạch định chính sách và xây dựng pháp luật, ông Chiến đã im lặng. Mặc dù, trong báo cáo đề dẫn của văn phòng ban chỉ đạo nhấn mạnh rằng “hệ thống pháp luật điều chỉnh các lĩnh vực nhạy cảm dễ xảy ra tham nhũng, như đất đai, xây dựng, ngân hàng, thuế, hải quan, khai thác khoáng sản…, có đủ khả năng là công cụ hữu hiệu để phòng ngừa, kiểm soát và chống tham nhũng một cách hiệu quả hay không”, như một tiểu tiêu chí đánh giá quan trọng.
Nhưng giới doanh nghiệp – những người hàng ngày phải đối mặt với vấn đề này – có thể trả lời thay ông Chiến. Ông Lương Văn Lý, chủ tịch kiêm tổng giám đốc hãng tư vấn luật DNL Partners kể rằng, các khách hàng là nhà đầu tư nước ngoài thường nói với tôi rằng mỗi văn bản pháp qui ra đời đều thấy có những khe hở, hay lỗ hổng. Điều đó, chứng tỏ văn phòng ban chỉ đạo của ông Chiến chưa có đủ thời gian và nguồn lực để theo dõi và kiểm soát quá trình này.
“Nhưng quan trọng hơn, họ đặt câu hỏi rằng những khe hở, lỗ hổng đó ai cũng dễ dàng thấy, mà những người soạn thảo và rà soát để thông qua lại không thấy nhỉ?”, ông Lý hỏi lại người viết bài này.
HUỲNH PHAN