Hiển thị các bài đăng có nhãn Y tế - Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Y tế - Giáo dục. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Đẩy mạnh xã hội hoá y tế giáo dục: Cần có cơ chế mới


Ngày 30.12.2007, 17:21 (GMT+7)
Đẩy mạnh xã hội hoá y tế giáo dục: Cần có cơ chế mới
Xã hội hoá y tế và giáo dục không còn là một chủ trương của nhà nước nữa, mà đã là một nhu cầu cấp bách của xã hội, bởi thực tế ngân sách ít ỏi, dù đang được cố gắng nâng lên, của nhà nước dành cho hai lĩnh vực này không đáp ứng nổi nhu cầu xã hội, cũng như việc chi trả lương để vận hành tốt hệ thống y tế và giáo dục công lập
Bệnh viện Chợ Rẫy quá tải và đang tìm được giải pháp tốt nhất để khắc phục. Ảnh: Trần Việt Đức
Những con số thực tế về sự tham gia của tư nhân vào hai lĩnh vực này cũng nói lên điều đó. Hiện nay, 75% nhà trẻ, 24% trường mẫu giáo, 30% trường trung học phổ thông và 13% trường cao đẳng đại học, không phải do nhà nước đầu tư.
Trong y tế, hiện có 30.000 cơ sở y tế tư nhân, mỗi năm khám cho 3 triệu lượt người và xét nghiệm cho 2,5 triệu lượt người. Đó là chưa nói đến tình trạng quá tải của các bệnh viện nhà nước, mà vụ dịch tiêu chảy cấp vừa rồi ở phía Bắc là minh chứng hùng hồn nhất.
Y tế: liên kết với tư nhân thay vì cổ phần hoá
Tại hội nghị sơ kết hai năm thực hiện nghị quyết 05 của Chính phủ về xã hội hoá, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng nhắc lại lời ông đã nói với lãnh đạo bộ Y tế là chưa cổ phần hoá bệnh viện, bởi, theo ông, tội gì định giá cho phức tạp. Trước đó, kế hoạch cổ phần hoá một bệnh viện nhà nước đã bất thành do có nhiều phản ứng về nguy cơ biến tài sản công thành của tư nhân.
Trong y tế, lĩnh vực mà thủ tướng trực tiếp phụ trách, quan điểm của ông là các bệnh viện lớn đã có thương hiệu như Bạch Mai (Hà Nội), hay Chợ Rẫy (TP.HCM), nên mở các bệnh viện cổ phần, như Bạch Mai B-C, Chợ Rẫy B-C. Như vậy, theo quan điểm của ông, vừa sử dụng được đội ngũ chuyên gia và nhân viên y tế giỏi tay nghề của mình, vừa thu hút được nguồn lực từ ngoài xã hội để mua sắm thiết bị hiện đại.
Tôi thấy bệnh viện Chợ Rẫy hiện đã hết chỗ, mà số người xin vào làm việc rất đông. Tại sao không mở Chợ Rẫy B, liên kết với tư nhân ở Cần Thơ, chẳng hạn, để phục vụ cho nhiều bệnh nhân vùng đồng bằng sông Cửu Long vẫn lên khám, chữa bệnh ở Chợ Rẫy?, thủ tướng gợi ý.
Một nguồn nhân lực quan trọng nữa cho những cơ sở y tế tư nhân, hay nhà nước liên kết với tư nhân, theo thủ tướng, là đội ngũ các chuyên gia, nhân viên y tế đã về hưu, và bản thân những người đang làm trong các bệnh viện nhà nước được phép làm thêm giờ.
Giáo dục: tăng ưu đãi cho xã hội hoá
Tuy phó thủ tướng Nguyễn Thiện Nhân, người cũng ngồi bàn chủ toạ, là người trực tiếp phụ trách mảng giáo dục đào tạo, nhưng khi đề cập tới vấn đề này, thủ tướng lại dành khá nhiều thời gian, giọng ông cũng trở nên bức xúc hơn. Đơn giản bởi vì ông là người thường xuyên phải tiếp các lãnh đạo tập đoàn nước ngoài muốn đầu tư, hay mở rộng đầu tư tại Việt Nam, và luôn phải nghe những phàn nàn của họ về sự thiếu hụt nguồn nhân lực được đào tạo, bên cạnh những bất lợi khác như hạ tầng yếu kém. Chúng ta đã hỗ trợ nhà đầu tư, hỗ trợ mỗi tỉnh 60 tỉ đồng để xây dựng một khu công nghiệp, tại sao lại không hỗ trợ xây dựng khu đại học?, thủ tướng đặt lại vấn đề.
Theo ông, đã đến lúc bộ Tài chính không được đặt mục đích thu thuế là cao nhất, và phải coi đào tạo nguồn nhân lực như một lĩnh vực đặc biệt ưu đãi, ít nhất là ngang với lĩnh vực công nghệ cao, bởi nếu người ta không làm, lấy đâu mà thu thuế, và có nguồn nhân lực tốt mới thu hút được đầu tư, và như vậy mới tạo ra được nguồn thu thuế lâu dài.
Tuy hội đồng giáo dục quốc gia chỉ đề xuất về một cơ chế thông thoáng khi thành lập các cơ sở giáo dục đào tạo ngoài công lập, còn vấn đề tài chính để nhà đầu tư tự lo, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng vẫn chưa cảm thấy yên tâm. Tôi nghĩ, chúng ta vẫn phải có chính sách ưu đãi sau đầu tư cho họ, bằng cách bù lãi suất tín dụng, ông tiếp tục gợi ý với hội nghị.
Muốn huy động nguồn lực xã hội vào xã hội hoá phải có cơ chế tốt để thu hút họ, bởi như Mác đã nói, lý tưởng tách rời lợi ích thì tự nó sỉ nhục nó, vị lãnh đạo, vốn hiếm khi trích dẫn các câu nói kinh điển, kết luận.
Huỳnh Phan

Nguy cơ bùng phát là có thật


Ngày 13.01.2008, 17:47 (GMT+7)
“Dịch tiêu chảy cấp nguy hiểm”:
Nguy cơ bùng phát là có thật
Những ca tiêu chảy cấp mà báo chí mới đưa cách nay vài hôm được ông cục trưởng Vệ sinh an toàn thực phẩm Trần Đáng nhận định chỉ là “cái đuôi” của dịch tiêu chảy cấp, được bộ Y tế “khai tử” cách nay hai tuần. Tuy nhiên, cũng theo ông Trần Đáng, nếu không có những biện pháp kiên quyết, nguy cơ bùng phát lại dịch này là rất lớn, chủ yếu là do tập quán ăn rau sống của người dân, nhất là người Hà Nội
Ăn rau bón bằng phân của chính mình
Ăn uống lề đường thiếu an toàn vệ sinh thực phẩm. Ảnh : Lê Quang Nhật
Rất lâu rồi, ở Hà Nội có câu vè: “Thanh niên Cổ Nhuế xin thề; không đầy hai sọt không về quê hương”. Nhiều năm nay, người dân Cổ Nhuế (huyện Từ Liêm, Hà Nội) đã chuyển hẳn sang sống bằng nghề may gia công xuất khẩu. Cùng với trào lưu đô thị hoá, công việc trồng rau, nhất là rau sống (xà lách và các loại rau thơm) được chuyển giao cho những huyện của tỉnh Hà Tây giáp ranh với Hà Nội.
“Ở Hà Tây, người ta hay vào Hà Nội lấy phân bằng hai sọt mang trở về hôi thối dọc các cửa ô, sau đó lại mang rau vào bán cho dân Hà Nội ăn thứ rau bón bằng phân của chính mình, và chu trình đó chưa xử lý được hoàn toàn, vẫn còn xảy ra ô nhiễm”, ông Đáng nói. Tuy nhiên, ông cũng thừa nhận rằng việc từ bỏ một tập quán ăn uống đã hình thành từ bao đời nay là hết sức khó khăn. “Các món bún như bún chả, bún riêu, bún ốc… đã thành những món đặc trưng của Hà thành từ bao đời rồi, bảo người ta thôi ăn kèm rau sống cũng khó”.
Cũng theo ông Đáng, việc sử dụng nguồn nước bị ô nhiễm để rửa rau tại nhiều nhà hàng, quán ăn bình dân, hay tại những hộ dân cư ở những khu vực không được cung cấp nguồn nước máy sạch, cũng là một trong những nguyên nhân lây truyền vi khuẩn tả. “Trong chiến dịch thanh kiểm tra của mình, một tuần qua, chúng tôi đã buộc tạm dừng kinh doanh đối với một loạt cơ sở dịch vụ ăn uống không đảm bảo điều kiện an toàn vệ sinh thực phẩm”, ông Đáng cho biết.
Đọc “kinh an toàn vệ sinh thực phẩm” trước bữa ăn tối
Đối với nguy cơ lây lan bệnh tả từ Hà Nội, cho đến nay vẫn được coi là “ổ” khi một số lượng lớn sinh viên, người làm thuê, hay thậm chí các “cư dân có hộ khẩu”, về quê ăn tết. Ông Trần Đáng cho biết: “Với nguy cơ cao như vậy, chúng tôi phải đẩy mạnh kiểm tra và xử lý tận gốc. Thứ nhất, trong giai đoạn này, những bệnh nhân có dấu hiệu tiêu chảy phải được điều trị bằng một phác đồ kháng sinh như là bệnh nhân bị tiêu chảy cấp nguy hiểm. Thứ hai, chúng tôi cho uống thuốc phòng đối với những người lành tiếp xúc với bệnh nhân đó. Thứ ba, là cách nay hai hôm, bộ trưởng y tế đã phát lệnh cho sử dụng vaccine ở một số quận huyện nguy cơ cao ở Hà Nội”.
Đối với các hộ gia đình, nhất là những người ở những vùng ven, nơi không được cung cấp nguồn nước sạch mà vẫn phải sử dụng nguồn nước giếng khoan hay ao hồ bị ô nhiễm, biện pháp hữu hiệu nhất vẫn là đẩy mạnh tuyên truyền, thông qua kênh truyền hình trung ương và Hà Nội, qua hệ thống loa phường, hay phát tờ rơi…
Một trong những nét mới trong chiến dịch tuyên truyền lần này là “mỗi học sinh được phát một tờ gấp về nhà đọc cho bố mẹ, ông bà, cả nhà cùng nghe trước mỗi bữa ăn tối”. Để chính những đứa con, đứa cháu “giáo dục lại” bố mẹ, ông bà, qua đó cũng tự hình thành ý thức an toàn vệ sinh thực phẩm, âu cũng là một sáng kiến hay. Nhưng trên thực tế, liệu sau một ngày làm việc vất vả, đói mờ mắt, nhiều ông bố, bà mẹ trẻ có đủ kiên nhẫn nghe những đứa bé mới biết đánh vần bập bẹ đọc hết “bài kinh” này rồi mới được cầm đũa hay không?
Mắm tôm: vẫn trong tầm ngắm
Dù chưa có mẫu xét nghiệm mắm tôm nào dương tính với phẩy khuẩn tả, nhưng mắm tôm vẫn bị coi là “nghi phạm”. “Xét nghiệm không thấy không có nghĩa là không có, bởi nó chỉ tồn tại trong một thời gian rồi chết. Thế giới có cách điều tra về dịch tễ học gọi là phương pháp chẩn đoán, và đã được ban hành thành quy chế số 39 của bộ Y tế. Không phải bàn cãi gì nữa”, ông Đáng kết luận.
Khác với cách xử lý “vội vàng” lần trước, khi tạm dừng việc lưu thông, buôn bán và sử dụng mắm tôm, lần này viện An toàn vệ sinh thực phẩm phối hợp với cơ quan quản lý ngành thuỷ sản và chính quyền các địa phương cho thanh kiểm tra tất cả các cơ sở sản xuất mắm tôm, và chỉ cấm những cơ sở không đạt tiêu chuẩn. “Lần này chúng tôi triệt tận gốc, chứ không đánh phần ngọn như lần trước”, ông Đáng khẳng định.
Huỳnh Phan

Lúng túng nhìn nhau


Ngày 24.01.2008, 14:19 (GMT+7)
Đào tạo cán bộ y tế:
Lúng túng nhìn nhau
“Bàn đến nhân sự, cả bộ lẫn tỉnh đều lúng túng nhìn nhau”, bộ trưởng bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu kể
Đến năm 2010 hệ thống y tế công lập phải đạt được 20 giường/vạn dân, so với con số 17 giường/vạn dân như hiện nay. Tức là trong vòng ba năm nữa ngành y tế phải đào tạo thêm được khoảng 25–26 ngàn cán bộ y tế cho các bệnh viện. Ảnh: N.Th
Ông Triệu bắt đầu bài phát biểu khai mạc hội nghị “Tăng cường chất lượng đào tạo nguồn nhân lực y tế”, diễn ra ngày hôm qua, 22.1 tại Hà Nội bằng vấn đề “số lượng” như thế, khi kể lại câu chuyện về kế hoạch đầu tư hai bệnh viện tầm cỡ khu vực và quốc tế tại Vĩnh Phúc, với tổng vốn chừng 200 triệu USD.
Thiếu hụt trầm trọng
Theo GS.TS Trương Việt Dũng, vụ trưởng vụ Khoa học – đào tạo (bộ Y tế), xét về góc độ phát triển, chỉ số cán bộ y tế/vạn dân chỉ tăng được ba người trong suốt 15 năm vừa qua cho thấy số lượng cán bộ y tế chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển mạng lưới y tế. “Nếu trong tương lai, định mức cán bộ y tế tăng lên khoảng 1,5 – 2 lần do thực hiện làm việc ca kíp ở bệnh viện, tình trạng thiếu cán bộ y tế sẽ trầm trọng hơn rất nhiều”, ông Dũng nhận xét.
Bộ trưởng Triệu lại cho biết theo nhiệm vụ quốc hội giao, ngành y tế phải đảm bảo làm sao có 25 giường/vạn dân, bộ này đã đặt ra lộ trình đến năm 2010 hệ thống y tế công lập phải đạt được 20 giường/vạn dân, so với con số 17 giường/vạn dân như hiện nay. Tức là trong vòng 3 năm nữa ngành y tế phải đào tạo thêm được khoảng 25 – 26 ngàn cán bộ y tế cho các bệnh viện. Đó là chưa kể tới lực lượng cán bộ y tế dự phòng tại cơ sở và số lượng cán bộ cần đào tạo lại cho theo kịp yêu cầu.
Hơn nữa, theo chủ trương xã hội hoá ngành y tế, từ nay đến năm 2010, khu vực bệnh viện tư nhân sẽ phát triển với chừng 13 ngàn giường, tức là khu vực này cũng cần thêm 13 ngàn nhân viên y tế được đào tạo.
Mất cân đối
Sự mất cân đối thứ nhất thể hiện trong việc phân bổ nhân lực y tế theo trình độ đào tạo. Chẳng hạn, vùng Đông Bắc có tỷ lệ bác sĩ/vạn dân cao hơn đồng bằng sông Hồng, tuy nhiên số thạc sĩ, tiến sĩ lại thấp hơn nhiều. Theo GS.TS Trương Việt Dũng, đây là một trong những nguyên nhân của tình trạng quá tải hiện nay ở tuyến trên, khi các thầy thuốc giỏi tập trung nhiều hơn ở các tỉnh thành có điều kiện kinh tế - xã hội tốt hơn. Trong khi đó người bệnh ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa ít có cơ hội tiếp cận với các thầy thuốc có trình độ cao, và, ngược lại, các bác sĩ ở những vùng này gặp nhiều khó khăn trong điều trị những bệnh nặng, phức tạp do hạn chế về tay nghề và thiếu thốn trang thiết bị.
Sự mất cân đối thứ hai, theo GS.TS Dũng, được thể hiện trong quá trình đào tạo, khi những trường có điều kiện khó khăn hơn về cơ sở vật chất và trình độ giảng viên lại phải thực hiện nhiệm vụ đào tạo lớn hơn. Ví dụ như trong năm học 2005 – 2006 trường đại học Y Thái Nguyên đã đào tạo 3.700 sinh viên, đại học Huế đào tạo 4.100, với số lượng giáo viên lần lượt là 128 và 279, trong khi đại học Y Hà Nội với 528 giáo viên lại chỉ đào tạo hơn 2.500 sinh viên.
Luẩn quẩn lối ra
Hai triệu ca tiêm chủng mới dính 1–2 ca, tỷ lệ sản phẩm sai sót cực kỳ thấp so với các ngành khác, mà phải chịu số bài báo phê phán cân lên tới hàng tấn!
(Bộ trưởng bộ Y tế Nguyễn Quốc Triệu)
PGS.TS Nguyễn Thị Kim Tiến, thứ trưởng bộ Y tế, cho biết tỷ số học viên/giảng viên quy đổi đối với các trường y dược là 10 ở bậc đại học và 20 ở ở bậc cao đẳng và trung cấp, trong khi đó hiện trong các trường y dược các cấp, tỷ số này mới dừng ở mức bình quân 6,75, tức là đào tạo dưới tải.
Nguyên nhân chính là do ngân sách được cấp thấp, bình quân 7,5 triệu đồng/sinh viên/năm, nên không khuyến khích các trường tăng số tuyển sinh mới hàng năm. Chẳng hạn, trong năm học 2007 – 2008 chỉ có một trường y dược tuyển đủ số sinh viên theo chỉ tiêu. Những nguyên nhân khác, theo bà Tiến, là cơ sở vật chất chưa đảm bảo tiêu chuẩn, trang bị cho các phòng thực tập, phòng thí nghiệm thiếu, cũ kỹ, thiếu các trung tâm học liệu, cũng như những phương pháp học tập tiên tiến, rất phổ biến ở nước ngoài, như e-learning…
Bà Tiến đã nêu ra sự mâu thuẫn giữa nhu cầu về cán bộ y tế ngày càng tăng của xã hội và việc xiết lại chất lượng đào tạo thông qua chương trình “hai không” của bộ Giáo dục – đào tạo (nói không với bệnh thành tích, nói không với đào tạo chất lượng kém). “Ngay cả các đồng chí ủy viên trung ương đang bàn về y tế cũng có ý kiến khác nhau về chuyện này. Người thì yêu cầu phải đào tạo cán bộ y tế nhằm đáp ứng nhu cầu xã hội, người khác lại bảo sao đến tận bây giờ vẫn còn duy trì hình thức đào tạo chuyên tu từ thời bao cấp”, bà Tiến kể lại.
Để “chương trình hai mục tiêu” này có thể thực hiện được, xem ra không thể tìm lời giải từ một cuộc hội nghị. Đúng như lời ông bộ trưởng Y tế Nguyễn Quốc Triệu đã nói lúc khai mạc: “Y tế là một nghề nghiệt ngã, như vừa rồi trong hai triệu ca tiêm chủng mới dính 1–2 ca, tỷ lệ sản phẩm sai sót là cực kỳ thấp so với các ngành khác, mà phải chịu số bài báo phê phán cân lên tới hàng tấn!”
Huỳnh Phan

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Thách thức với ngành y tế


Ngày 06.10.2009, 08:00 (GMT+7)
Dân số già hoá
Thách thức với ngành y tế
SGTT - “Trong rất nhiều năm, các phương tiện thông tin đại chúng đều nói Việt Nam là đất nước có dân số trẻ. Nhưng, thực ra, chúng ta đã kết thúc giai đoạn này vào năm 2005, khi tuổi trung vị của dân số vượt qua ngưỡng 25 tuổi, và đã bước vào giai đoạn già hoá dân số chỉ sau có ba năm, khi số người từ 65 tuổi trở lên vượt qua mức 7% tổng dân số”, quyền tổng cục trưởng tổng cục Dân số và kế hoạch hoá gia đình Dương Quốc Trọng, nói.
Ông Trọng, người chủ trì cuộc hội thảo “Thách thức về già hoá dân số ở Việt Nam”, diễn ra vào cuối tuần trước ở Hà Nội, khẳng định rằng việc tuổi thọ của người Việt Nam tăng, từ 68,6 năm 1999 lên 72,2 năm 2005, chứng tỏ việc chăm sóc cho người cao tuổi trong mấy chục năm qua ở Việt Nam đã được cải thiện rất nhiều.
Tuy nhiên, cũng theo ông Trọng, giai đoạn chuyển tiếp quá ngắn của Việt Nam đặt ra những thách thức to lớn bởi Việt Nam hoàn toàn chưa chuẩn bị, chưa sẵn sàng ứng phó với thực tế dân số bị già hoá. Mọi dự báo trước đó đều cho rằng khoảng năm 2015 Việt Nam mới bước vào giai đoạn này, tức là có giai đoạn chuyển tiếp khoảng một thập kỷ, so với nhiều thập kỷ ở những nước khác.
“Tôi nói chẳng hạn, cách đây không lâu chúng ta có một uỷ ban bảo vệ và chăm sóc trẻ em tương đương cấp bộ. Vậy bây giờ liệu có cần một uỷ ban tương tự để bảo vệ và chăm sóc người già không?”, ông Trọng đặt vấn đề, và nhận xét rằng ngành y tế phải nhanh chóng có kế hoạch đưa lão khoa thành một chuyên khoa chính, bên cạnh nội, ngoại, sản, nhi.
Yêu cầu trên càng trở nên cấp thiết hơn khi tỷ lệ người cao tuổi (từ 60 tuổi trở lên) ở Việt Nam sẽ chiếm 11,4% dân số vào năm 2020, theo dự báo của tổng cục Dân số, và 26% dân số vào năm 2050, theo dự báo của Liên hiệp quốc, so với con số 9,9% năm 2008. Các con số tuyệt đối về người cao tuổi sẽ lần lượt là 11,35 triệu (2020) và 29,77 triệu (2050), so với 8,59 triệu năm 2008.
Theo kết quả một cuộc khảo sát điều tra năm 2006 của viện Lão khoa quốc gia đối với các cơ sở y tế trên toàn quốc, chỉ 22,4% số tỉnh có bệnh viện có chuyên khoa lão khoa, với tổng số 139 bác sĩ nghiên cứu viên và 237 điều dưỡng viên, và cả nước chỉ có năm cơ sở chăm sóc y tế lâu dài cho người cao tuổi. Cả nước cũng mới chỉ có hai cơ sở đào tạo có bộ môn lão khoa. “Tình hình hiện nay cũng chưa khá hơn là bao. Ngay cả việc kết hợp đào tạo điều dưỡng viên cho người cao tuổi của chúng tôi với trường cao đẳng Y tế Hà Nội cũng mới chỉ nằm trên giấy”, TS Đỗ Thị Khánh Hỷ, phó viện trưởng viện Lão khoa, cho biết.
“Ở nông thôn, các cụ đóng góp rất nhiều cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong công cuộc xây dựng hoà bình, các cụ lại tiếp tục đóng góp bằng thuế cho Nhà nước. Thế mà về già lại không có chế độ bảo hiểm là quá vô lý”.
Ông Dương Quốc Trọng, quyền tổng cục trưởng tổng cục Dân số và kế hoạch hoá gia đình
Một điều tra khác của viện Lão khoa tại Phương Mai (Hà Nội), Phú Xuân (Thừa Thiên – Huế) và Hoà Long (Bà Rịa – Vũng Tàu) đã cho thấy khả năng tiếp cận dịch vụ y tế tại nhà của người cao tuổi là khó khăn. Trong số những người cao tuổi được hỏi thì 51% ở Phương Mai, 83,6% ở Phú Xuân và 78,3% ở Hoà Long trả lời rằng không được nhân viên y tế tới nhà khám. Và 45,3% những người cao tuổi được hỏi thừa nhận rằng họ không có đủ điều kiện kinh tế để khám chữa bệnh.
Hiện nay, tuy tổng chi cho y tế ở Việt Nam chiếm 5 – 6% GDP và tính theo đầu người là 45 USD/người/năm, bằng khoảng một nửa so với mức trung bình của các quốc gia đang phát triển, nhưng chỉ 30% nguồn chi này đến từ ngân sách nhà nước.
“Đây là một tỷ lệ thấp so với các nước có thu nhập thấp và trung bình trên thế giới”, TS Hỷ nói. Bà cho biết thêm rằng việc dành ngân sách chăm sóc cho người cao tuổi sẽ là một thách thức lớn cho Chính phủ, bởi chi phí chăm sóc cho người cao tuổi gấp 7 – 8 cho trẻ em.
Theo PGS.TS Nguyễn Đình Cử, viện trưởng viện Dân số và các vấn đề xã hội, chỉ có khoảng 16 – 17% người cao tuổi được hưởng lương hưu, hơn 10% được hưởng trợ cấp có công với nước, hơn 70% còn lại sống bằng lao động của mình và bằng nguồn hỗ trợ của gia đình. “Với hơn 80% người cao tuổi sống ở nông thôn, ruộng đất ít, thu nhập thấp, ít có tiết kiệm thì bất trắc ở tuổi già là cao”, ông nhận xét.
Ông Dương Quốc Trọng cũng chia sẻ quan điểm rằng chế độ an sinh tuổi già ở Việt Nam, đặc biệt đối với người cao tuổi ở nông thôn, là chưa tốt, nếu không nói là quá bất cập. “Ở nông thôn, các cụ đóng góp rất nhiều cho hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Trong công cuộc xây dựng hoà bình, các cụ lại tiếp tục đóng góp bằng thuế cho Nhà nước. Thế mà về già lại không có chế độ bảo hiểm là quá vô lý”, ông Trọng bức xúc.
Ông Trọng cho biết, bảo hiểm tuổi già là kiến nghị chính của tổng cục khi Quốc hội thông qua luật về người cao tuổi vào kỳ họp sắp tới, cũng như khi Chính phủ xây dựng chiến lược quốc gia về người cao tuổi.
Huỳnh Phan