Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

Kép chánh đột biến thành nhắc tuồng


Kép chánh đột biến thành nhắc tuồng

Đinh Tấn Lực - “Triển khai hiệu quả Lộ trình dân chủ, vì hòa giải và hòa hợp dân tộc, tổ chức bầu cử công bằng, dân chủ, với sự tham gia của tất cả các đảng phái. Qua đó, sớm ổn định và tập trung phát triển đất nước Myanmar” - Nguyễn Tấn Dũng

Nói theo tay tiền nhiệm của Tư Sang thì đúng là bầu bạn Myanmar đang …”tự sát” *. 

Mà đã vậy thì, suy ra, Ba Dũng có công lớn trong việc góp phần vừa “động viên” lại vừa “phân hóa nội bộ” để giật sập một thể chế hữu nghị **.

Tháng 4-2010, trong cuộc họp thượng đỉnh ASEAN tại Hà Nội, Ba Dũng ở cương vị chủ nhà kiêm chủ tịch luân phiên của Hiệp Hội này, đã có những phát biểu “chỉ đạo xử lý” tình hình Myanmar, rồi lặp lại lần nữa, rốt ráo và chi tiết hơn, khi sang thăm Myanmar sau đó. Nghe cứ như hồi 1987, ông Reagan đòi Gorbachev giật sập bức tường Bá Linh. 

Bức tường độc tài độc đảng ở Ngưỡng Quảng hiện đang hóa bùn từng mảng lớn. 

Còn ở đây, Ba Dũng đang ra sức chữa cháy trước các mồi lửa củi đậu nấu đậu của bọn Tư Sang. 

Sự thể thế nào? 


Sau Brunei-1984 và VN-1995, ASEAN kết nạp thêm 3 thành viên sau cùng là Lào-1997, Miến-1997, và Miên-1999. Cả 3 đều do phần lớn công sức vận động của VN, với ý đồ (có chỉ đạo từ đâu đó để) tạo dựng một cõi liên kết độc tài Đông Dương mở rộng ngay giữa lòng chảo Hiệp hội Các nước Đông Nam Á. Trong đó, Lào và Miến có chung biên giới ở vùng Tam giác vàng. Còn Lào và Miên thì đã có duyên (Pháp định) gắn kết hữu cơ với VN từ 1887, bằng tên gọi Union Indochinoise. 

Riêng Miến Điện, tức Burma, hay đương danh chính thức là Cộng hòa Liên bang Myanmar, bất kể từ lâu vẫn là thành viên khối Phi Liên Kết, đã kinh qua thực tiễn mồi chài lẫn thử thách để mối quan hệ với VN được “nâng lên một tầm cao mới”, dù chỉ là mức chạm sàn, tít mù bên dưới tầm cao quan hệ với TQ từ bấy đến nay. 

Myanmar có diện tích gấp đôi, tài nguyên gấp đôi, nhưng dân số chỉ hơn phân nửa của VN đôi chút, và từng là một trong các quốc gia giàu có hàng đầu Đông Nam Á vào thời còn là thuộc địa của Anh (1885-1948), với lượng gạo xuất khẩu đứng đầu thế giới bấy giờ. 

Trước đó nữa, vào thời 1100, vương quốc Pagan này còn được gọi là Đế chế Miến Điện, và kể từ thời 1364, vương quốc Ava này có một nền văn minh vang danh khu vực. 

Còn sau giai đoạn Anh thuộc, vào thời 1961, Đại biểu Thường trực U-Thant của Miến Điện là người đầu tiên của phương Đông được bầu làm Tổng thư ký Liên Hiệp Quốc, với một nữ nhân viên xuất chúng có tên là Daw Aung San Suu Kyi. 

Đến năm 1962, tướng Ne-Win đảo chính, lên cầm quyền, rồi đổi tên nước (nghe khá quen tai) là Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Liên bang Myanmar. Hệ quả 26 năm dưới triều đại độc tài độc đảng của Ne-Win là vào năm 1987, tương ứng với thời VN rã họng kêu gọi thế giới cứu đói, Myanmar được xếp vào thứ hạng các nước kém phát triển nhất hành tinh. 

Năm 2006, giới lãnh đạo quân nhân của Myanmar dời đô từ Ngưỡng Quảng (Rangoon) về một khu vực yên tĩnh ở gần Pyinmana, đặt tên chính thức cho thủ đô mới là Naypyidaw, có nghĩa là “vùng đất của những ông vua”. 

Trong suốt nửa thế kỷ, qua nhiều triều đại của các ông vua tập thể nhiều tiền lắm đạn này, Myanmar lâm vào cảnh đất nước bị cô lập thành ốc đảo, kinh tế bị cấm vận đến kiệt quệ, còn nhân dân bị cưỡng bức lao động/bóp nghẹt thông tin/hạn chế giáo dục/tràn ngập buôn người/thường trực đói cơm… và bao phen tắm máu, tiêu biểu là vụ đàn áp long trời lở đất 8-8-88, một khi lòng dân không như ý đảng. Đó là chưa kể các đạo luật “không được khoan dung” đối với các nhân vật bất đồng chính kiến. Không ai rõ chúng có được đánh thứ tự trong khoảng giữa các con số 79 tới 88 chăng, nhưng rõ ràng vị khôi nguyên Nobel Hòa Bình Daw Aung San Suu Kyi đã được nhân loại biết tới như một nạn nhân bi hùng của chế độ suốt nhiều chục năm qua. 

Khẩu hiệu đại trà đâu đâu cũng thấy trong suốt thời này là “đất nước chỉ mạnh khi nào quân đội mạnh”, với tỷ lệ ngân sách quốc phòng so với GDP đứng hàng top-15 của thế giới, hiện to gấp 4 lần ngân sách y tế và giáo dục gộp lại, nhưng vẫn không giúp cho Myanmar đủ mạnh để thoát khỏi móng vuốt của người anh em XHCN Trung Quốc. 

Bắc Kinh chi phối gần trọn nền kinh tế sản xuất của xứ này, xâm thực đều khắp các mặt văn hóa, nhân công, đất đai, tài nguyên và cả an ninh. Điển hình là hai đường ống dầu khí dài trên 1100 cây số nối liền từ biên giới TQ ra tận bờ biển Myanmar, với vô số đập thủy điện khắp nước, cùng một dự phóng tân trang thiết lộ và xây dựng 1 cảng nước sâu ngó ra vịnh Bengal. TQ có tổng vốn đầu tư lên tới 16 tỷ mỹ kim hiện nay, cộng thêm kim ngạch giao thương gần 5 tỷ mỹ kim trong năm 2010, nghiễm nhiên đã là bầu sữa “đối tác thương mại” lớn nhất của lãnh đạo Myanmar. 

Ngược lại, dàn lãnh đạo quân phiệt của Myanmar cũng nhìn về Bắc Kinh như một điểm tựa địa chính trị duy nhất, một mô hình cai trị mẫu mực cần noi… nên đã từng công khai thể hiện sự ủng hộ tuyệt đối, kể cả sự tán đồng quyết định tàn sát sinh viên Thiên An Môn 1989. 

Nói chung, Myanmar, dưới các triều độc tài quân phiệt, từng được coi là một chư hầu gương mẫu của TQ (trên trường đua, có chăng, đau đớn thay, chỉ là VN ta). Mà điều đó không nhất thiết chỉ là nhận định riêng của Bắc Kinh. 


Dưới tán lọng bảo bọc “tận tâm tận lực” đó của TQ, mấy ai dám nghĩ hội đồng quân nhân lãnh đạo Myanmar sẽ không còn cơ hội cưỡng lại lòng dân và các loại áp lực quốc tế? 

Thế mà, phép lạ chăng, lãnh đạo Myanmar đã có cách ngẩng mặt nói không với TQ và gật đầu với nhân dân Miến Điện: 

Tháng 10/2010, tên chính thức của nước này được cắt ngắn bớt mấy từ khóa: “Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Liên Bang Myanmar” trở thành “Cộng Hòa Liên Bang Myanmar”, chỉ 2 tuần trước khi xứ này tổ chức cuộc bầu cử đầu tiên sau 20 năm người dân không thấy mặt lá phiếu.

Tháng 3/2011, tân Tổng tư lệnh Quân đội Min Aung Hlaing đi thăm VN thay vì sang khấu đầu lãnh ấn ở Bắc Kinh.

Tháng 8/2011, tân Tổng thống Thein Sein đã gặp, trao đổi và nhất trí với lãnh tụ đối lập Aung San Suu Kyi bốn điểm: 1) Cùng nhau nỗ lực vì hoà bình, ổn định và phát triển của đất nước theo nguyện vọng của nhân dân; 2) Hợp tác vì phát triển kinh tế, xã hội và xây dựng hệ thống dân chủ; 3) Nỗ lực hợp tác trên cơ sở cùng có lợi; 4) Tiếp tục thúc đẩy mạnh đối thoại.

Tháng 9/2011, Tổng thống Thein Sein công bố ngưng xây đập thủy điện Myitsone trên sông Irrawaddy, một dự án đầu tư hàng chục tỷ mỹ kim của tập đoàn điện lực China Power Investment, mà nếu hoàn thành, sẽ dẫn 90% công suất về phục vụ mẫu quốc thiên triều.

Tháng 10/2011, tân chính phủ Myanmar quyết định trả tự do cho 6000 tù nhân, trong đó có hơn 200 tù nhân chính trị (trong tổng số 2000 người bị giam về tội bất đồng chính kiến).

Giữa tháng 11/2011, Hội nghị các Ngoại trưởng của ASEAN ra nghị quyết chuẩn thuận cho Myanmar giữ chức Chủ tịch Luân phiên của ASEAN vào năm 2014.

Cuối tháng 11/2011, Quốc hội Myanmar thông qua đạo luật bảo đảm quyền biểu tình thông thoáng cho người dân xứ này. Lãnh tụ đối lập Daw Aung San Suu Kyi cho biết sẽ ra tranh cử đại biểu quốc hội kỳ tới.

Đầu tháng 12/2011, Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton thực hiện chuyến thăm viếng kéo dài 3 ngày để trao đổi với chính giới Myanmar cùng Daw Aung San Suu Kyi, và cam kết rằng Hoa Kỳ sẵn sàng hỗ trợ tiến trình cải cách dân chủ nhiều hơn nữa ở xứ này.

Trong tuần đầu tháng 12/2011, hình ảnh và bài viết về Daw Aung San Suu Kyi, lần đầu tiên, đã xuất hiện trên dàn báo chính quy của Myanmar… 

Tiếp theo ba trái bon tấn cắt bỏ cụm từ chết tiệt “XHCN”, cất dẹp dự án mông muội Myitstone và chấp nhận Sinh Hoạt Chính Trị Đa Nguyên, hầu hết những nút thắt cổ dân đã lần lượt được tháo gỡ. Không ai chắc bao nhiêu phần trăm nỗ lực này đến từ lời phán hữu nghị ở mức chạm sàn dẫn trên của Nguyễn Tấn Dũng. 

Nếu còn nhớ đến vó câu của Hốt Tất Liệt và bốn lần quân Mãn Thanh từng hằn vết trên lãnh thổ Myanmar từ nhiều thế kỷ trước, cộng với hàng chục vạn công nhân TQ đang thi công khạc nhổ khắp nơi trên đất nước này hiện nay, mọi người đều rõ là chính cái bóng đè của TQ lên trên “những ông vua tập thể” xứ này là nguyên nhân của lụn bại mà nhân dân Myanmar muốn vượt qua. 

Nếu còn nhớ đến thông điệp nhậm chức của tân Tổng thống Thein Sein, người ta đều rõ là Myanmar cần hòa nhập vào sân chơi rộng thoáng và bình đẳng của thế giới trong trào lưu dân chủ hóa toàn cầu; cần giải tỏa các thứ lệnh cấm vận và áp lực quốc tế; và cần tự thân vượt thoát ra khỏi cái bóng đổ tàn khốc của TQ, như lòng dân nước này từ lâu mong mỏi, cùng một khối lớn sĩ quan trung niên thúc đẩy ngay trong quốc hội, để đất nước có cơ cất cánh. 

Cái gốc chuyển hóa vẫn là khát vọng nhân dân chứ không phải duy trì quyền bính. 

Chủ đích sau cùng vẫn là canh tân đất nước chứ không phải ổn định chính trị. 


Những cải cách êm thắm tại Myanmar đang dấy lên một triều sóng tại Á Châu, không khác gì hương hoa Nhài lan tỏa ở Bắc Phi & Trung Đông hồi đầu năm. 

Hình ảnh TQ hiện giờ là một bức tranh thu điếu đã bị đóng khung cô lập. 

Ngay cả Nhật Bản cũng hiển lộ mối quan tâm sâu sắc hơn về hiểm họa TQ trong khu vực.Hội Nghị Dân Chủ Hóa Á Châu đã được tổ chức hoành tráng tại Nhật Bản, trong bối cảnh thời sự thế giới đặc biệt của năm 2011: 1) Sự kiện Hoa Lài tại Bắc Phi; 2) Hoa Kỳ tích cực trở lại vùng Á Châu Thái Bình Dương; 3) Những chuyển hóa chính trị tại Miến Điện. 

Tham dự diễn đàn hội nghị là các các diễn giả Tin Win (Miến Điện); Lý Thái Hùng (Việt Nam); Pima Gyalpo (Tây Tạng); Ilhaqm Mahmut (Ngô Duy Nhĩ); Olhunud Daichin (Mông Cổ); Thừa Văn Lập (Hoa Lục). Họ đã cùng với 3 nhân vật khác trong ban tổ chức của Nhật Bản đồng thành lập một Hội Đồng Liên Đới Tự Do Dân Chủ Á Châu, và công bố bản Tuyên Ngôn Dân Chủ Hóa Á Châu 2011. 


Những cải cách êm thắm đó của Myanmar có ảnh hưởng gì tới VN ta? 

Đầy! 

Lời phán đóng khung ở đầu bài, quất ngược vào mặt phán quan, và trở thành cây thước đo mức độ tệ hại về tình hình nhân quyền, dân chủ, báo chí, quyền biểu tình và tù chính trị ở VN. 

Nó còn là cây thước đo chuẩn xác về độ ươn hèn của lãnh đạo xứ ta, một khi đảng viên các cấp từ thủ đô Hà Nội xuống tới vùng sâu vùng xa đều thấy như nhau là: Với một loạt ứng xử can trường của tân chính phủ Myanmar, Bắc Kinh chắc chắn là không thể kìm nén nỗi mày nhăn mặt nhó, nhưng rồi …làm gì nhau? Vậy thì, hà cớ chi Bắc bộ Phủ nhà ta cố bập bùng thắp đuốc mà vẫn ướt đũng …sợ ma? 

Nó khóa cổ ban Tuyên giáo Trung ương, khiến cho nỗ lực ngáng chân tiến trình dân chủ hóa VN bằng một loạt ngụy luận rổn rảng (vì ổn định chính trị/vìphát triển kinh tế/vì trình độ dân trí v.v…) bổng chốc trở thành giẻ rách. 

Nội bộ đảng viên, và cả quần chúng ngoài đảng, dạo này quên khuấy các bản tin lộ hàng hay nữ sinh lột áo nhau trên báo. Họ bận khoan nhặt kháo nhau về thông điệp cân bằng ở Úc của Tổng thống Mỹ Barack Obama, và các cam kết nức lòng ở Miến của Ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton. Cấn sườn hơn, họ thấy rõ, cũng như cả thế giới thấy rõ, VN ta lệt bệt sau lưng Miến Điện là nước mình đã cất công vận động ASEAN mấy năm trước, bởi lẽ, vở kịch đổi mới của ta vẫn quanh năm xài lại mớ tuồng tích cổ/đạo diễn xưa/đào kép cũ: 

Trong lúc Luật biểu tình Miến Điện đã được nhanh chóng thông qua thì Luật biểu tình Việt Nam chỉ được đưa ra quốc hội để tranh cãi có nên bàn trong khóa này hay bỏ ra vô thời hạn, với hàng loạt đại biểu được Ban Tuyên giáo Trung ương cho dựng rạp diễn hài. Đại biểu Hoàng Hữu Phước được giao và đã làm tốt vai hài chính.

Trong lúc Miến Điện thả hàng trăm tù chính trị, và đang chuẩn bị thả thêm hàng ngàn người bất đồng chính kiến khác, thì VN vận công bắt cóc hàng loạt người ở Vinh, ở Thái Hà, ở Sài Gòn… tự tiện đưa vào trại phục hồi nhân phẩm hoặc tù cải tạo… Rồi sau đó diễn màn thả đúng 1 người là anh Trương Quốc Huy, giảm án 1 người là thầy Phạm Minh Hoàng, và lục đục lên phương án trục xuất Ls. Lê Công Định. 

Nghĩa là, nói chung, bàn thắng đẹp của Myanmar đè bẹp bóng ma TQ hết đường cựa quậy đã quăng lưới giao thông vây khốn Bộ chính trị Hà Nội tứ bề. 

Ngay bên trong thượng tầng đảng, đám Tư Sang đang nhịp đùi nhắp rượu bất chiến tự nhiên thành, một khi Ba Dũng đang bị bọn Tử Cấm Thành tới tấp dí vào mặt một câu hỏi gây ngọng cấp tính: 

- Hà cớ gì lại tài khôn xúi dại Myanmar cho nó bứt rời thiên triều đế chế? Đang là Kép Chánh lại muốn rơi tòm xuống phường Nhắc Tuồng đấy phỏng? 

09-12-2011- Nhân mùa Quốc Tế Nhân Quyền 2011. 

Thứ Ba, 22 tháng 11, 2011

PNTR: "Việt Nam lại bị bắt làm con tin"


Thứ năm, 29 Tháng sáu 2006, 13:43 GMT+7
  • Cỡ chữ

PNTR: "Việt Nam lại bị bắt làm con tin"


PNTR Viet Nam lai bi bat lam con tin
Bà Susan Schwab, Đại diện Thương mại Mỹ phát biểu tại cuộc họp báo hoan nghênh việc chính thức trình lên Quốc hội Mỹ dự luật PNTR cho Việt Nam hôm 13/6 (ảnh: TTXVN)
Cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam Pete Peterson nói như thế khi đánh giá sự kiện Hiệp định thương mại song phương (BTA) giữa hai nước đã bị "bán kèm" tại Quốc hội cách đây 5 năm cùng với Hiệp định thương mại tự do (FTA) với Jordan. Và nay là dự luật PNTR
Dự luật bình thường hoá thương mại vĩnh viễn cho Việt Nam (PNTR) lại bị "bắt làm con tin" khi được đưa ra xem xét theo kiểu "cả gói" với hai FTA giữa Hoa Kỳ với Oman (lại một nước Vùng Vịnh) và Peru. Việc đưa ra một "package" (cả gói) như hiện nay rõ ràng làm chậm lại việc bỏ phiếu thông qua PNTR cho Việt Nam.
Ngay cả những người trước đây khá lạc quan vào triển vọng PNTR như Chủ tịch Hội đồng thương mại Việt - Mỹ (USVTC) Ginny Foote, hay Chủ tịch Amcham Việt Nam O"Dore, cũng biểu lộ "những thoáng nghi ngờ" khả năng thông qua PNTR cho Việt Nam có thể phải lùi đến sau kỳ nghỉ tháng tám của Quốc hội?!
Tại sao là Oman và Peru?
Theo những người ủng hộ cho phương án này, phía hành pháp Mỹ đã hoàn tất FTA với hai nước kể trên (với Oman ký vào 19.1.2006 và với Peru ngày 12.4.2006) trước khi kết thúc đàm phán với Việt Nam, và vì vậy, cần được xem xét trước.
Trong "Chương trình Chính sách thương mại của Tổng thống Bush", trong 3 ưu tiên chính thì việc thúc đẩy FTA đứng thứ hai sau ưu tiên kết thúc vòng đàm phán Doha trước cuối năm nay.
Theo một chuyên gia về Mỹ của Bộ Ngoại giao, Oman và Peru có những vị trí khá quan trọng trong chính sách của cường quốc này. Mỹ coi Peru là "sân sau", còn Oman là "đồng minh".
Trong quan hệ giữa Mỹ và Peru, Mỹ cần tranh thủ Peru vì khu vực Mỹ la tinh đang có xu hướng ngả theo cánh tả như Venezuela, Bolivia…. FTA với Peru một khi được Quốc hội phê chuẩn sẽ có tác dụng gây sức ép với Ecuador và Colombia nhanh chóng kết thúc đàm phán FTA với Mỹ.
Còn với Oman, từ năm 1980 đến nay Mỹ và quốc gia vùng Vịnh này vẫn giữ hiệp định cho phép Mỹ được tiếp cận các cơ sở quân sự của Oman, nhất là trong hai cuộc chiến vùng Vịnh vừa qua. Bên cạnh đó, Mỹ cần có Oman trong lộ trình thành lập khu vực mậu dịch tự do Trung Đông (UMEFTA) vào năm 2013.
UMEFTA nhằm tới mục tiêu cải cách kinh tế dưới ảnh hưởng của Mỹ, và, qua đó, ngăn chặn nguy cơ khủng bố. Về tầm quan trọng của mối quan hệ giữa Mỹ và Oman không thể không nhắc tới một chi tiết thú vị: Đại sứ Mỹ tại quốc gia này được coi là một thành viên trong nội các.
PNTR: Bất định?
Trên thực tế, FTA với Oman và với Peru đã được đưa ra xem xét tại Uỷ ban thương mại Thượng viện và Uỷ ban Tài chính và Thuế vụ Hạ viện trước cuối tháng 6/2006. Trong khi đó, theo thông tin mới nhất của bà Ginny Foote, chủ tịch USVTC, đến ngày 10/7 này mới đến lượt PNTR. Như vậy, lịch trình xem xét và thông qua dường như sẽ theo thứ tự: Oman, Peru và Việt Nam!
Một chuyên gia đàm phán BTA và WTO của Việt Nam nhận xét đây là thủ pháp "bán xương kèm với thịt", "ép" Quốc hội thông qua FTA với hai nước trên trước. Tuy nhiên, trên thực tế, cả hai nước này đều xuất khẩu dầu khí và khoáng sản là chủ yếu, ít tạo ra cạnh tranh và nguy cơ mất việc làm ở Mỹ.
Trong khi đó, đầu tư của Mỹ vào cả hai nước trên đều tăng mạnh từ những năm "90, và việc FTA với hai nước này có hiệu lực sẽ tạo điều kiện cho hàng hoá Mỹ thâm nhập mạnh hơn vào thị trường nội địa của họ. Như vậy, việc thông qua FTA với hai nước này không hẳn là khó khăn như người ta vẫn lo ngại.
Điều người ta lo ngại nhất là sức ép về thời gian. Lịch trình vốn dày đặc của Quốc hội Hoa Kỳ từ nay đến đầu tháng 8 đã "chật kín" nên, với "giải pháp cả gói" này, và cơ hội cho "người xếp chót" PNTR trở nên "mỏng manh" hơn nhiều.
Ngoài ra, Peru mới bầu cử vào 4.6 vừa rồi và đến ngày 28.7 sắp tới, chính phủ mới tuyên thệ nhậm chức để nhận "món quà FTA" từ Mỹ (theo thông lệ, rất ít khả năng Mỹ sẽ trao nó cho một chính phủ đang chờ mãn nhiệm). Kể từ thời điểm 28.7 đối với Peru cho đến 7/8 khi các nghị sĩ bước vào kỳ nghỉ, chỉ còn vỏn vẹn đúng 1 tuần cho việc thông qua PNTR.
Về lý thuyết vấn đề PNTR vẫn còn có cơ hội khi Quốc hội trở lại làm việc vào đầu tháng 9, nhưng trên thực tế kể từ đó đề tài "hot" nhất và gần như bao trùm lên toàn nước Mỹ là… chuyện bầu cử.
Những người ủng hộ quan hệ với Việt Nam về vấn đề PNTR nói riêng vẫn đang nỗ lực hết sức để làm nốt những phần công việc họ có thể làm, và vẫn… hy vọng. Nhưng thực sự Tổng thống Bush có mang đến Việt Nam "món quà WTO Membership" vào trung tuần tháng 11 như mong đợi hay không vẫn là một câu hỏi!
Theo Huỳnh Phan - Vũ Bình

Hồ Chí Minh với người Mỹ


Hồ Chí Minh với người Mỹ

Nhân trên mạng lưu hành một bức thư của Chủ tịch Hồ Chí Minh gửi Tổng thống Truman và những thắc mắc xung quanh sự kiện này [1], xin có đôi lời bàn về những mối liên hệ cũng như thái độ của HCM đối với Mỹ trước và sau khi giành chính quyền từ tay Pháp. Với những người cộng sản VN, đây là câu chuyện dài rất tế nhị và đầy éo le trong suốt hơn nửa thế kỷ qua, nhiều thế hệ đàn em-học trò của HCM thuộc phái “kiên định lập trường” không muốn nhắc tới (lý do quá dễ hiểu), nên ở đây chỉ xin tạm tóm lược, cũng là gợi mở cho độc giả tìm tòi, đánh giá.
Qua mục Tư liệu về đảng-Lịch sử đảng rất sơ sài trên trang điện tử của Đảng CSVN [2], ta chẳng có được thông tin gì liên quan, thậm chí bị bỏ bê từ năm 2009 không được ngó tới nên giờ không truy cập được. Thử đọc cuốn Chủ tịch Hồ Chí Minh-Tiểu sử và Sự nghiệp, NXB Sự thật 1976, cũng vậyCòn những người Việt ở hải ngoại không ưa cộng sản, rất có điều kiện thu thập thông tin, song dường như muốn kiếm những câu chuyện đời tư, “mặt trái” để đạt mục đích tuyên truyền trước mắt hơn là nghiên cứu sâu, có sức thuyết phục, giúp người dân, hậu thế hiểu bản chất sâu xa tấn bi kịch của dân tộc thời nay.
Nhưng may mắn, những công trình nghiên cứu, hồi ký của người nước ngoài, một số đã được dịch, xuất bản ở VN, đã dần dần cho thấy rõ. Chỉ căn cứ trên vài cuốn sách, như OSS và HỒ CHÍ MINH – đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật [3], Tại sao Việt Nam (Why Vietnam) [4],  Hồ Chí Minh-Một cuộc đời [5] và Paris-Sài Gòn-Hà Nội [6] là có thể có được thông tin kha khá. Dưới ngòi bút của các tác giả phương Tây, có lẽ mối quan hệ này được nhìn nhận như sau:
Là một người cộng sản, nhưng HCM cũng đồng thời mang tư tưởng dân tộc, lại hiểu giá trị và chịu ảnh hưởng của nền dân chủ văn minh phương Tây; ông tỏ ra là một ảo thuật gia tài ba tung hứng cả ba thứ đạo cụ này. Ngoài việc chịu sức ép, nhận trợ giúp từ nhiều phía như Pháp, Trung Hoa, Nhật, Quốc tế cộng sản, các đảng phái tại VN, các đồng chí “nóng đầu” ở trong nước, … HCM cũng đã tìm chỗ dựa đáng kể nơi người Mỹ, ngay từ khi còn ở Trung Quốc cho tới sau ngày giành độc lập.
Trớ trêu thay, vị tổng thống Hoa Kỳ đi đầu phản đối chủ nghĩa thực dân, muốn một quy chế độc lập dần cho Đông Dương là Franklin Roosevelt lại ra đi đột ngột đúng vào thời điểm sinh tử cho cách mạng VN. Tổng thống Truman kế nhiệm thì khác, thế cuộc cũng biến chuyển. Mối lo họa cộng sản ngày càng gia tăng. Bản chất cộng sản trong chính phủ mới của HCM ngày càng lộ rõ. Người Mỹ với hai quan điểm khác nhau trong giới ngoại giao cuối cùng đành chiều lòng nước Pháp thực dân già nua mà chầy bửa của Charles de Gaulle hơn là ủng hộ một chính quyền HCM non trẻ mang nhiều thiên hướng cộng sản. Vậy là những bức thư, những cố gắng của HCM muốn có nhiều hơn sự ủng hộ của Mỹ đã trở thành vô vọng.
Nước Việt Nam đã lỡ một chuyến tàu, những năm 1970’ cũng lại một lần nữa, và giờ đây dường như lịch sử sắp lặp lại.
Câu hỏi “nếu Truman giúp Hồ Chí Minh thì Việt Nam ngày nay sẽ ra sao” thật khó trả lời, cũng như lịch sử khó có thể nói chữ “nếu như”. Cũng tựa như câu hỏi giành cho hai phía chống và bảo vệ HCM, rằng nếu không có ông, Việt Nam liệu có thể trở thành một Thái Lan, Hàn Quốc khác? Hay sẽ như Bắc Triều Tiên, Campuchia của Khơ me Đỏ? Khó nhưng lại rất đáng bàn.
Ba Sàm
———
Ghi chú:
[1] Thư Hồ Chí Minh gửi cho Harry S. Truman (28 tháng 2, 1946).
Trong bức thư ngày 28 tháng 2 1946, Hồ Chí Minh gửi đến Tổng thống Hoa Kỳ, Harry S. Truman, yêu cầu xin sự hỗ trợ của Mỹ trong cuộc đấu tranh giành độc lập cho Việt Nam Dân chủ Cộng hòa.
” Chủ tịch Hồ Chí Minh – Việt Nam dân chủ cộng hòa – Hà Nội
Xin gửi tới ngài Tổng thống Hoa Kỳ , Washington DC
Thay mặt chính phủ và nhân dân Việt Nam, tôi xin trân trọng thông báo cho ngài rằng trong quá trình các cuộc hội thoại giữa Chính phủ Việt Nam và đại diện Pháp, Pháp đòi hỏi sự ly khai của Nam Bộ và sự trở lại của quân đội Pháp tại Hà Nội, trong khi đó dân và quân đội Pháp đang hoạt động chuẩn bị cho một cuộc đảo chính ở Hà Nội và xâm lược quân sự. Vì vậy, bản thân tôi đưa ra lời yêu cầu tha thiết tôn trọng nhất tới Ngài và những người dân Mỹ để can thiệp khẩn cấp và hỗ trợ độc lập cho chúng tôi và giúp làm cho các cuộc đàm phán phù hợp với các nguyên tắc của Điều lệ Đại Tây Dương và San Francisco.
Kính
Hochiminh “
Đâu là sự thật trong lịch sử Viêt Nam xảy ra vào năm 1946. Chúng ta có vài câu hỏi:
* Tại sao Chủ tịch HCM lại xin sự giúp đỡ từ Hoa Kỳ ? thay vì các nước khác ?
* Tại sao Mỹ không giúp đỡ Chủ tịch HCM ?
* Nếu Mỹ giúp đỡ Việt Nam qua sự yêu cầu của Chủ tịch HCM năm 1946 thì tương lai Việt Nam bây giờ ra sao ?
[3] Với chủ trương thay đổi hệ thống thuộc địa, Roosevelt tiếp tục đưa Pháp ra chỉ trích đồng thời đặc biệt nhấn mạnh đến tình hình Đông Dương. Theo quan điểm của ông, trong suốt thời kỳ chiếm đóng Việt Nam, Pháp đã thất bại trong cải thiện mức sống của người dân và, vì những thất bại của họ, đã từ bỏ quyền cai trị …
… Một số nhân viên trong chính phủ Mỹ cũng hy vọng rằng một quan điểm một quan điểm chống thực dân của Mỹ sẽ tiếp nối dưới chính quyền Truman. Nhưng sau khi Franklin Roosevelt mất vào tháng 4 và sau khi cuộc chiến Châu Âu và Thái Bình Dương kết thúc thắng lợi, thế giới đã thay đổi. Tình trạng khẩn cấp thời chiến dẫn đễn việc các phái đoàn OSS cộng tác với các nhóm cộng sản trên khắp thế giới không còn tồn tại nữa ; sự khinh bỉ đối với người Pháp bại trận phải đặt sang một bên khi họ được giải phóng và giành lại vai trò quốc tế nổi bật; và chủ nghĩa lý tưởng đối với tương lai thường đến cùng nối khiếp sợ chiến tranh được thay thế bởi tính thực tế thời bình.
Vào tháng 3 lần đầu tiên Charles de Gaulle đã “đe dọa’’ các nhà ngoại giao của Roosevelt rằng Pháp có thể bị “đẩy vào’’ tầm ảnh hưởng đang nổi lên của Liên xô nếu như chính sách của Mỹ làm Pháp xa lanh hơn với đề tài tước bỏ thuộc địa của Pháp. “Nếu công chúng ở đây nhận ra rằng các bạn chống lại chúng tôi tại Đông Dương’’, ông ta thẳng thừng tuyên bố, “thì sẽ là nối thất vọng khủng khiếp và không ai thực sự biết điều gì sẽ sảy ra’’. Sau đó ông ta nói thêm về hậu quả kèm theo. “Chúng tôi không muốn trở thành cộng sản ; chúng tôi không muốn rơi vào quý đạo của nước Nga nhưng tôi hi vọng các bạn không đẩy chúng tôi vào đó’’. Sự đe dọa của ngườ Pháp đã khuyến khích Roosevelt giữ kín giữa ông và các phụ tá gần gũi nhất những tham vọng ngày càng lớn đối với Đông Dương thuộc Pháp.
Đối với Truman, khả năng Pháp trở thành một phần “quỹ đạo của Nga” trong thế giới thời bình  mới này thậm chí còn đáng sợ hơn. “Trong suốt những tháng cuối năm 1945 và qua năm 1946’’, Joseph Siracusa viết:
“Chính sách của Franklin Rooseverlt đối với Đông Dương dần dần thay đổi trong tay Truman thành một chính sách cố gắng thực hiện đồng thời hai việc: thứ nhất  góp phần giải phóng và mang lại đôc lập cho nhân dân Đông Dương, dù là trong cơ cấu được quy định của Pháp; và thứ hai, phối hợp sự ủng hộ của Đồng Minh chống lại cái được cho là mối đe dọa của Liên Xô đối với Tây Châu, một sự nhật thức không hẳn vô lý dựa trên những hoạt động của Liên Xô tại Đông Âu và Trung Âu.’’ (OSS và HỒ CHÍ MINH – đồng minh bất ngờ trong cuộc chiến chống phát xít Nhật, Dixee R. Bartholomew-Feis, NXB Thế giới, 2007, tr. 448, 449).  
[4] Tổng thống Roosevelt từ lâu đã nêu lên chính sách cơ bản của ông đối với vai trò của Pháp sau chiến tranh Viễn Đông. Ông coi chủ nghĩa thực dân là nguyên nhân chính của chiến tranh Thế giới II. Khi thảo luận về nước pháp với con trai mình ở Casablanca, ông cho rằng Pháp phải chịu trách nhiệm một phần về cuộc tấn công của Nhật ở Pearl Harbor (Trân Châu Cảng) …
Hồi ức của Cordell Hull, công bố năm 1948, còn nhấn mạnh vấn đề này hơn nữa. Ông viết, tổng thống ấp ủ những quan điển mạnh mẽ về nền độc lập của Đông Dương thuộc Pháp. Ông lưu tâm đến sự lệ thuộc của Pháp vì đó là cái bàn đáp cho người Nhật tấn công Philipin, Malaixia và vùng Đông Ấn của Hà Lan. Ông không thể quên được cách cư xử của chính phủ Vichy, khi trao cho Nhật Bản quyền đóng quân ở đó, mà không hỏi ý kiến chúng ta nhưng lại cố làm cho thế giới tưởng rằng chúng ta đã đồng ý.
Về chế độ quản trị , Hull nói:
Thỉnh thoảng tổng thống nói thẳng với chúng tôi và những người khác, ý kiến của ông rằng Đông Dương thuộc Pháp sẽ phải đặt dưới một chế độ quản trị quốc tế ngay sau khi chiến tranh kết thúc, và để cho xứ này được độc lập càng sớm càng hay’’.
Hull cũng dẫn ra bản bị vong lục tháng giêng năm 1944 của tổng thống, trong đó nói rằng … “Đông Dương sẽ không bị trao trở lại cho nước Pháp mà sẽ được cai quản bởi một chế độ quản trị quốc tế…’’ Tuy tổng thống có những ý kiến mạnh mẽ như vậy nhưng không có một tuyên bố chính thức nào về chính sách của Mỹ hay một sự thỏa thuận nào của Đồng minh được chính phủ Mỹ hoặc Bộ Tổng tư lệnh Đồng minh công bốn cả.” (Tại sao Việt Nam, Archimedes L.A. Patti, NXB Đà Nẵng, 2000, tr.65, 65).
[5] Đối với HCM, Mỹ qua tổng thống Roosevelt là người lớn tiếng đòi phục hồi độc lập cho các dân tộc bị áp bức ở châu á. Nhưng HCM cũng hiểu rằng, với tình hình thế giới phân cực, kiểu gì Mỹ cũng sẽ trở thành thành trì của chủ nghĩa tư bản, chống lại cách mạng thế giới. Tháng 4, Truman lên thay Roosevelt chết vì bệnh, đã lờ đi không nhắc đến vấn đề độc lập ở Đông dương nữa. Tháng 5, tại hội nghị San Francisco, phái đoàn Mỹ cho thấy rằng sẽ không phản đối nếu Pháp trở lại Đông dương. Sự thay đổi chính sách này là kết quả cuộc tranh luận giữa Vụ châu á và Vụ châu Âu của Bộ Ngoại giao Mỹ. Vụ châu Âu cho rằng trong tình hình sự đối đầu ngày càng căng thẳng giữa Mỹ và Liên xô tại châu Âu, Mỹ phải ủng hộ Pháp. Tuy nhiên Mỹ cũng yêu cầu “bảo đảm những điều kiện tự trị tiến bộ hoặc hình thức liên hiệp cho các dân tộc mong muốn độc lập, tương ứng với các điều kiện bên ngoài cũng như khả năng thực tế của dân tộc đó”. Tướng De Gaul cũng hứa Đông dương “sẽ nhận được những hình thức tự trị tương xứng”. Vào cuối tháng 8, khi Việt minh đang bận củng cố quyền lực, Truman đã gặp De Gaul ở Nhà Trắng. De Gaul đã từ chối yêu cầu của Nhà trắng hứa hẹn về tương lai của Đông dương, cho rằng nói bây giờ chỉ là những lời “nói suông”. Mấy ngày sau, Mỹ tuyên bố không phản đối việc Pháp trở lại Đông dương. (HCM-Một cuộc đời-Những ngày tháng 8).
[6] … Washington rất dè dặt về vấn đề duy trì một chính quyền Pháp tại Đông Dương (ai cũng rõ) những tư tưởng và ý đồ của tổng thống Roosevelt … (tr.55).  … Cơ quan OSS (Cục Chiến lược) thấm nhuần tư tưởng chống thực dân của Roosevelt. Nhưng Roosevelt vừa qua đời (12/4/1945) và mối lo sợ của Paris về các phương án “bảo hộ quốc tế” (trusteeship) của Mỹ đối với Đông Dương được xóa bỏ dần (tr.73, Paris-Sài Gòn-Hà Nội, Philippe Devillers, NXB Tổng hợp TPHCM, 2003).

Thứ Hai, 21 tháng 11, 2011

Bản lĩnh Việt Nam từ cổ đại đến suốt đời phong kiến


TẠP CHÍ XƯA & NAY

Bản lĩnh Việt Nam từ cổ đại đến suốt đời phong kiến

SỐ 390 THÁNG 10-2011
 Đào Duy Anh

Bài này do học giả Đào Duy Anh viết xong vào mùa hè 1979, ngay sau khi cuộc tấn công của Trung Quốc vào các tỉnh biên giới phía Bắc nước ta vừa kết thúc. Trước sự hưng vong của đất nước, nhà sử học già đã phải nói lên những “lo nghĩ của kẻ thất phu”, là tên đặt lúc đầu cho bài viết này. Tài liệu này nằm trong di cảo của nhà sử học đã quá cố, chưa được công bố. Chúng tôi xin giới thiệu với bạn đọc để tham khảo.
Sau khi thống nhất Trung Quốc, Tần Thuỷ Hoàng có thể tận dụng nhân lực và tài lực cả “thiên hạ” nghĩ ngay đến mưu đồ đem lực lượng hùng hậu của dân tộc Trung Hoa là dân tộc đông đúc và văn minh nhất ở giữa các ngoại tộc mà người Hán cho là dã man hết cả, để bành trướng thế lực ra bốn phương. Về phía Tây Bắc thì Tần sai tướng quân Mông Điềm đem 30 vạn binh đánh đuổi bộ tộc Hung Nô gọi chung là rợ Hồ, chiếm cứ các đất ở phía nam Hoàng Hà (các tỉnh Ninh Hạ, Tuy Viễn đời sau) mở thêm 44 huyện và dời đến những người phạm tội cho cư trú và khai thác, về phía Đông Nam thì Tần sai Hiệu uý Đồ Thư đem 50 vạn binh gồm những kẻ lưu vong, những người rể thừa và những người lái buôn, chia làm 5 đạo đi đánh chiếm các miền Bách Việt, mở đặt ba quận Nam Hải, Quế Lâm và Tượng (đất Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu ngày sau), cho bọn quân lính ấy đóng đồn giữ đất và ở lẫn với người Việt, do đó mà khai thác miền đất phía Nam Ngũ Lĩnh làm lãnh thổ của Trung Quốc. Nhưng khi quân Tần tiến sâu vào miền đất tương đương với nước Việt Nam ta ngày sau thì chúng vấp phải sự kháng chiến quyết liệt, do đó quân Tần không  thể tiến sâu hơn vào đất miền Nam. Việc ấy được sử sách Trung Quốc chép rõ.
Sử ký của Tư Mã Thiên (2.112) chép rằng: “Nhà Tần lại sai Hiệu đô úy Đồ Thư đem quân Lâu Thuyền đi đánh Bách Việt ở phương Nam, sai Giám Lộc đào cừ vận lương để vào sâu đất Việt. Người Việt bỏ trốn. Quân Tần cầm giữ lâu ngày, lương thực thiếu hụt. Người Việt ra đánh, quân Tần thua to. Nhà Tần lại sai Uý Đà đem quân đóng giữ đất Việt Đương. Bấy giờ nhà Tần ở phía Bắc thì bị hoạ với người Hồ, ở phía Nam thì mắc với người Việt, đóng binh ở đất vô dụng, tiến không được, thoái không được. Hơn mười năm con trai mặc giáp, con gái chuyên chở, khổ không sống nổi, tự treo cổ ở cây dọc đường xác chết nhìn nhau. Đến khi hoàng đế Tần mất thì thiên hạ cả phản”. Trước Tư Mã Thiên thì Lưu An tác giả sách Hoài Nam Tử đã chép chi tiết hơn rằng: “Nhà Tần tham cái lợi sừng tê, ngà voi, long chả, ngọc châu ngọc cơ, lại sai quan uý là Đồ Thư phái 50 vạn binh, chia làm 5 đạo quân. Một đạo đóng ở Đào Đàm Thành, một đạo giữ ải Cửu Nghi, một đạo đóng ở Đô Phiên Ngung, một đạo giữ cõi Nam Dã, một đạo đóng ở sông Dư Can, ba năm không cởi giáp giãn nỏ. Giám Lộc không có đường để chờ lương, lại lấy quân đào kênh mà thông đường lương, để đánh người Việt, giết được quần trưởng Tây Âu là Địch Hu Tống. Nhưng người Việt đều vào rừng rú, cùng ở với cầm thú, không chịu để cho nhà Tần bắt rồi cùng nhau đặt người kiệt tuấn làm tướng, ban đêm ra đánh cả phá quân Tần, giết được uý Đồ Thư. Quân Tần chết thương mấy chục vạn. Bèn phái những người bị đày đến đóng giữ”.
Cuộc kháng chiến trường kỳ của người Việt chống quân Tần đó là do một bộ phận người Tây Âu liên hiệp với người Lạc Việt tiến hành, dựng lên nước Âu Lạc chặn đứng không cho người Hán tộc tiến xuống đất Ấn Độ Chi Na và miền Đông Nam Á.
Thế là cái mưu đồ bành trướng xuống Đông Nam Á của nhà Tần bị cuộc kháng chiến ngoan cường của tổ tiên dân tộc ta làm thất bị từ tận thế kỷ III trước Công nguyên.
Tiếp theo Tần Thuỷ Hoàng là thuỷ tổ của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán, các triều đại phong kiến Trung Quốc kế thừa chế độ quân chủ chuyên chế của nhà Tần, không triều đại nào là không kế thừa luôn chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của Tần Doanh Chính.
Sau khi nhà Hán thống nhất Trung Quốc, chấm dứt cuộc đại loạn tiếp sau khi nhà Tần sụp đổ, Hán Võ đế lại dốc toàn lực lượng của Trung Quốc mới được phục hồi để tiến hành ngoại xâm đại quy mô phía Bắc. Hán Võ Đế phái đến 120 vạn binh đánh đuổi bộ tộc Hung Nô khiến họ phải lui về miền Mạc Bắc và một bộ phận là Nam Hung Nô phải đầu hàng và triều phục nhà Hán, sang thời Đông Hán thì tướng quân Đậu Hiến lại mấy lần đánh phá Bắc Hung Nô, khiến di tộc của họ phải sang phương Tây để sau này tham gia cuộc đánh phá Tây đế chế La Mã. Về phía Tây Trung Quốc là các nước gọi chung là Tây Vực, vốn là những nước phụ thuộc của Hung Nô, nhà Hán đương đánh phá Hung Nô thì phái Trương Khiên, rồi nhà Đông Hán lại phái Ban Siêu sang sứ các nước ấy, vừa dùng  quân sự để uy hiếp doạ nạt vừa dùng mưu mô để dụ dỗ mua chuộc, khiến uy thanh của Trung Quốc đạt đến tận bờ phía Đông Địa Trung Hải. Về phía Tây Nam thì nhà Hán kiêm tính các nước nhỏ Tây Nam Di trước kia nhà Tần chưa chinh phục được, đặc biệt là ba nước Dạ Lang, Điền, Cùng Đô, đặt làm châu quận, còn ở phía nam thì Triệu Đà là một huyện lệnh của nhà Tần ở quận Nam Hải đã thừa cơ cuộc loạn khoảng Tần Hán mà dựng nước Nam Việt, Hán Võ Đế đã dùng mánh khoé kết hợp với quân sự diệt nước Nam Việt, rồi dùng gián điệp và mưu gian mà chiếm luôn nước Âu Lạc cũ, chia đất này làm ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân và Nhật Nam. Thế là cái mục tiêu nhà Tần dùng bạo lực đơn thuần không thể đạt được, nhà Hán không mưu gian quỷ quyệt đã đạt được dễ hơn. Nhưng nhân dân Âu Lạc vốn tha thiết tự do độc lập không thể cam tâm làm nô lệ cho người phương Bắc sai khiến, nên chỉ sau khoảng một thế kỷ họ đã theo lời hiệu triệu của hai vị nữ anh hùng Trưng Trắc, Trưng Nhị dòng dõi của Lạc tướng Mê Linh, tức dòng dõi Hùng Vương của nước Văn Lang xưa, mà nổi lên đánh đuổi bọn thống trị ngoại tộc, nhà Đông Hán phải phái viên lão tướng đầy kinh nghiệm Mã Viện sang mới chinh phục lại được ba quận Giao Chỉ, Cửu Chân, Nhật Nam và áp đặt hẳn chính sách trực trị để xúc tiến công cuộc đồng hoá dân Âu Lạc bằng sự di thực ồ ạt những phần tử mạo hiểm và xấu xa trong dân gian Hán tộc và bằng sự thâm nhập ào ạt của văn hóa Hán tộc. Nhưng trong suốt thời kỳ Bắc thuộc thứ hai này nhân dân Âu Lạc vẫn bền bỉ chống đối, cuộc đấu tranh lâu dài ấy mở đầu bằng những cuộc nổi dậy của quân lính Giao Chỉ và Cửu Chân không chịu để cho bon quan lại Hán tộc điều động đi xâm lược lại nước Lâm Ấp mới được thành lập ở quận Nhật Nam. Rồi sau đó cứ khoảng vài ba chục năm một lần, nhân dân Giao Chỉ và Cửu Chân lại nổi lên đánh giết bọn quan lại Hán tộc tàn bạo tham nhũng.
Sang thời Tam Quốc, anh em cha con Sĩ Nhiếp dùng thủ đoạn khôn khéo trấn an nhân dân Giao Chỉ, Cửu Chân nên giữ vững được cục diện hơn hai chục năm, nhưng sau khi Sĩ Nhiếp chết thì bọn quan lại địa phương cướp giết lẫn nhau, nhân dân lầm than, một vị tù trưởng ở Cửu Chân là Triệu Quốc Đạt và em gái tục danh là Triệu Ẩu nổi lên chống bọn quan lại nước Ngô trong cả nửa năm trời. Qua sự ghi chép vắn tắt và thiếu sót của chính sử Trung Quốc, chúng ta cũng có thể thấy rằng sự chống đối của nhân dân Âu Lạc trong suốt năm thế kỷ của thời kỳ Bắc thuộc thứ hai từ sau Mã Viện không bao giờ ngớt. Đến thời Nam Bắc triều nhân cuộc suy đốn của Trung Quốc bị các bộ tộc phương Bắc chèn ép và xâu xé, nhân dân Âu Lạc cũ đã cử hành một cuộc khởi nghĩa đại quy mô dưới sự lãnh đạo của Lý Bôn, muốn xây dựng một triều đại tự chủ chỉ tồn tại hơn nửa thế kỷ, rồi đến khi nhà Tuỳ thống nhất được Trung Quốc thì ách thống trị của phong kiến Hán tộc lại được đặt trở lại trên toàn cõi đất Âu Lạc xưa, tới thời kỳ Bắc thuộc thứ ba.
Sau khi nhà Đường thay nhà Tuỳ mà thống nhất hoàn toàn Trung Quốc, Đường Thái Tôn nghĩ ngay đến chuyện bành trướng về phương Bắc và phía Tây. Lý Thế Dân kiêm dùng cả hai chính sách quân sự và thông hôn, dùng quân sự để diệt bộ tộc Đột Quyết mà chiếm tất cả vùng phía Nam Đại Mạc, lại dùng quân sự kết hợp với thông hôn mà diệt luôn bộ tộc Thiết Lặc mà chiếm luôn cả miền Mạc Bắc, rồi lần lượt diệt cả các nước Tây Đột Quyết, Qui Tư, Cao Xương, Thổ Phồn, Thổ Cốc Phồn ở miền Tây Vực. Sau lại kết hợp quân sự và chiêu dụ mà thần phục được cả các nước Thiên Trúc (tức Ấn Độ), mở mang bờ cõi đến sát Ấn Độ Dương và Địa Trung Hải. Về phía Đông thì Đường Thái tôn không thể để yên nước Cao Ly là một nước mạnh ở miền biển chưa chịu thần phục. Sau một cuộc chiến tranh xâm lược tàn khốc kéo dài 25 năm, nhà Đường chiếm được toàn bộ Cao Ly, cho Tiết Nhân Quí làm An Đông đô hộ đóng quân ở Bình Nhưỡng để trấn thủ. Ở phía Nam thì nước Vạn Xuân bị nhà Tuỳ diệt Lý Phật Tử mà chiếm lại, nhà Đường thừa thế đặt An Nam đô hộ phủ ở Giao Chaâ (trung tâm là miền Hà Nội) làm một chính quyền quân phiệt để trấn áp thuộc quốc. Nhưng dưới ách thống trị quân phiệt tàn ngược nổi lên, đặc biệt họ liên kết với người Nam Chiếu ở Tây Bắc và người Chiêm Thành ở Nam làm cho chính quyền đô hộ của nhà Đường suy yếu dần mà cuối cùng đến khi nhà Đường suy vong, họ Khúc thừa cơ tự cường để cho Ngô Quyền lật đổ hẳn ách thống trị của phong kiến Hán tộc mà xây dựng nền tự chủ dân tộc.
Như thế là sau hơn một nghìn năm của nạn thống trị ngoại tộc luôn luôn bị cắt quãng bằng những thời khởi nghĩa, hoặc hỗn loạn, hoặc giải phóng ngắn ngủi, tổ tiên chúng ta từ cuộc kháng chiến bất khuất của Liên hiệp Tây Âu – Lạc Việt đến cuộc quật cường của họ Ngô, là thành phần duy nhất trong các nhóm Bách Việt ở miền Nam Trung Quốc giữ trọn khí phách và bản lãnh của mình mà chống lại sự đồng hoá, sự tiêu hoá của cái khối khổng lồ Hán tộc đã từng đồng hoá và tiêu diệt bao nhiêu tộc loại sừng sỏ ở xung  quanh.
Từ sau khi các họ Ngô, Đinh và Lý, Trần kế tiếp nhau xây dựng những triều đại tự chủ và theo hình mẫu của chế độ chính trị mà các triều đại phong kiến Trung Quốc trước kia đã đế lại ấn tích qua hơn nghìn năm của mưu đồ đồng hoá trường kỳ, các triều đại phong kiến Trung Quốc tương đương các nhà Tống, Nguyên, Minh, Thanh vẫn không bao giờ từ bỏ ý đồ ăn sống nuốt tươi cái dân tộc nhỏ bé hơn dân tộc chúng nhiều mà luôn luôn làm vật chướng ngại duy nhất chặn đường không để cho chúng thả sức thực hiện tham vọng bành trướng Đại Hán của chúng xuống miền Đông Nam.
Sau khi nhà Tống thống nhất và ổn định tình hình của Trung Quốc bị xâu xé bởi cuộc diện Ngũ đại thập quốc, Tống Thái Tổ mưu đồ xây dựng một chế độ trung ương tập quyền hùng hậu với một lực lượng quân sự rất lớn nhằm đề phòng những cuộc nổi loạn chống mình, nhưng mưu đồ ấy dẫn đến cái tình hình chính trị hủ bại, tướng kiêu, binh nhác, phú thuế không hai, vét hết của cải của cả nước mà nuôi nấng binh lính ăn không, binh càng nhiều mà thế lực càng yếu. Nhà Tống suy yếu, không thể đối phó với sự uy hiếp của bộ tộc Nữ Chân, phải nhường cắt cho nhà Kim nửa nước phía Bắc, mới nghĩ đến mưu chước bành trước sang nước ta để mong cứu vãn nguy cơ ở trong, nhưng quân Tống hai lần bị Lý Thường Kiệt đánh đuổi vào đến tận nội địa Trung Quốc.
Nhà Tống đã bị con cháu Thành Cát tư Hãn tiêu diệt, bộ tộc Mông Cổ chiếm cứ toàn bộ lãnh thổ và thuộc quốc của Trung Quốc trong phạm vi rộng hơn các thời Hán, Đường. Trên đà phát triển ghê gớm của quân Mông Cổ ra tứ phương, người Mông Cổ bị văn hoá ưu việt của Hán tộc đồng hóa, các vua Mông Nguyên không thể không kế thừa luôn cái chủ nghĩa bành trướng Đại Hán của các triều đại Trung Hoa, cho nên đã ba lần xua quân mạnh nhất thế giới đương thời để xâm lược An Nam (tên người Trung Quốc gọi nước ta từ thời Đường) mà cả ba lần đều bị quân ta dưới sự lãnh đạo của Trần Quốc Tuấn đánh bại xiểng liểng không thể bén mảng được xuống miền Đông Nam Á.
Chu Nguyên Chương, Thái tổ nhà Minh khôi phục chủ quyền dân tộc và xây dựng chế độ quân chủ chuyên chế cực đoan, tàn sát công thần, tàn sát văn nhân, giết hại nhân mạng không sao kể xiết. Con thứ của Nguyên Chương là Chu Đệ nổi loạn, đánh giết anh để cướp ngôi, lại một phen giết người như rạ, để trấn áp nhân tâm, rồi phát động ngoại xâm để đề cao uy vọng của mình, do đó sai hoạn quan Trịnh Hoà đem binh thuyền chở 2 vạn người đi sứ các nước Đông Dương quần đảo và sai Trương Phụ đem 80 vạn binh xâm lược nước ta, kế tục thực hiện cái ý đồ bành trướng xuống Đông Nam Á mà lực lượng quân sự mạnh nhất thế giới bọn thống trị Mông Nguyên cũng không thực hiện nổi. Nhưng không vượt nổi bức tường thành vĩ đại là cuộc kháng chiến trường kỳ của thầy trò Lê Lợi, Minh Thanh Tổ đành phải dùng chính sách thông thương quốc doanh, bảy lần sai Trịnh Hoà dùng binh thuyền vượt biển xuống các đảo quốc miền Đông Nam Á để thoả mãn yêu cầu mậu dịch mà sự phát triển kinh tế của xã hội Trung Quốc từ thời nhà Nguyên mở rộng quan hệ với người Tây dương đặt ra.
Lại một lần nữa mưu đồ bành trướng Đại Hán của Trung Hoa bị chặn đứng. Nhưng do sự yêu cầu thông thương hải ngoại đó của xã hội Trung Hoa mà một số lớn tư nhân trốn tránh cấm chế vượt biên doanh thương đã hình thành những tập thể Hoa Kiều ở các nước Đông Nam Á mà thư tịch Trung Quốc gọi là Trải Oa (Java), Tam phật tề hay Cựu Cang, Ma Lục Giáp (Malacca), Tô-môn-đáp-lạp (Sumatra), Lữ căn cứ đắc lực cho chủ nghĩa bành trướng Đại Hán.
Cuộc kháng chiến ngoan cường của Lê Lợi đã dồn nhà Minh đến thế suy vi, khiến cuối cùng Trung Quốc bị bộ tộc Mãn Thanh chinh phục. Nhưng cũng như các rợ Hồ và Mông Cổ trước kia, bộ tộc Mãn Thanh văn hoá thấp kém dùng võ lực mà đánh bại được Trung Quốc suy đốn bạc nhược, nhưng họ đã bị hấp thu vào văn hoá cao hơn của Hán tộc; mà cái sức hấp thu văn hoá và xã hội Hán tộc mạnh mẽ cho đến nỗi, cũng như trường hợp người Mông Cổ trước kia, các hoàng đế Mãn Thanh sau khi bị đồng hoá theo Hán tộc đã bị tinh thần Đại Hán chinh phục luôn mà lại xem mình là những kẻ kế thừa đích phái của chủ nghĩa bành trướng Đại Hán. Trên tinh thần ấy, nhà Mãn Thanh đã dùng binh lực áp đảo cả bộ tộc Nội Mông và Ngoại Mông và các bộ tộc theo Hồi giáo ở phía Nam và phía Bắc Thiên Sơn (Tân Cương) lấn chiếm các đất Tây Tạng (trước là Thổ Phồn), Thanh Hải, Miêu Cương (khu Miêu tộc ở miền Đông Vân Nam, Quí Châu), cả nước nhỏ Nê Bạc Nhi (Nepal) ở sát Ấn Độ và buộc cả các nước Miến Điện, Xiêm La đều phải xưng thần triều cống. Trên dải đất Ấn Độ Chi Na, lại cũng chỉ có dân tộc Việt Nam, dưới sự lãnh đạo của vị anh hùng áo vải Nguyễn Huệ là quét phăng được mấy chục vạn binh Mãn Hán, do cái tội rước voi về giày mồ của vua Lê Chiêu Thống mà kéo vào giày xéo thành Thăng Long một thời gian ngắn, do đó mà quân lực hùng hậu của Mãn Thanh đã gãy mất đầ tiến xuống các nước miền Nam Dương, một lần cuối cùng cái mộng làm bá chủ nghĩa Đại Hán lại bị đập tan. Mãi đến giữa thế kỷ XIX từ khi chính Trung Quốc bị các nước đế quốc chủ nghĩa Tây Phương xâu xé, bọn vua chúa Hán tộc mới phải tạm ngưng cái tham vọng thôn tính nước ta, nhưng bấy giờ thì nước ta lại bước vào một giai đoạn đấu tranh gian khổ mới là giai đoạn chống chủ nghĩa thực dân Pháp.
(Còn tiếp)