Hiển thị các bài đăng có nhãn Mekong. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Mekong. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Với bên ngoài và bên trong đều lỏng lẻo


Ngày 26.05.2010, 09:58 (GMT+7)
Hợp tác sử dụng và bảo vệ nguồn nước
Với bên ngoài và bên trong đều lỏng lẻo
Hội thảo khoa học quốc tế “Đập và phát triển nguồn nước bền vững”, trong khuôn khổ hội nghị Uỷ hội đập lớn thế giới (ICOLD) lần thứ 78, khai mạc sáng hôm qua, 25.5 tại Hà Nội. Trước giờ khai mạc, GS.TS Phạm Hồng Giang (ảnh), chủ tịch hội Đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam (VNCOLD), trả lời phỏng vấn Sài Gòn Tiếp Thị.
Việt Nam, với tư cách Chủ tịch ASEAN 2010, đang cố gắng đưa vấn đề giải quyết tranh chấp ở Biển Đông vào nghị trình các diễn đàn khác nhau của ASEAN trong năm nay. Vậy, vấn đề gì được VNCOLD, với tư cách chủ nhà hội nghị ICOLD 78, ưu tiên đưa vào chương trình?
Vấn đề trọng tâm của hội nghị quốc tế lần này vừa là vấn đề thời sự trên thế giới, vừa là mối bức xúc của chúng ta. Đó chính là tiêu đề của hội nghị “Đập, nguồn nước và phát triển bền vững”.
Không nước nào có nguồn thuỷ năng mà lại bỏ phí cả. Vấn đề làm sao phải hài hoà các lợi ích.
Hội thảo này là hội nghị khoa học, nên mục đích chính không phải là phê phán, chỉ trích, mà chỉ đưa vấn đề ra phân tích một cách toàn diện và khoa học nhất. Chúng tôi không hy vọng có sự đồng thuận quan điểm, nhưng ít nhất có những khuyến cáo mang tính khoa học được chuyển tải tới các nhà hoạch định chính sách ở các nước. Theo quan điểm của Việt Nam, phải đạt được sự cộng tác, hợp tác về nguồn nước trong tổng thể hợp tác chung.
Hai hội đập lớn Việt Nam và Trung Quốc có cuộc gặp song phương bên lề hội nghị không?
Không. Tuy chúng tôi có quan hệ chính thức với nhau từ năm 2008, nhưng chủ yếu vẫn là trao đổi học thuật. Họ đã mời chúng tôi thăm đập Cảnh Hồng vào năm 2005. Đó là lần duy nhất cho tới nay.
Việc chia sẻ và đảm bảo hài hoà lợi ích trên các dòng sông quốc tế có được tập trung bàn kỹ không?
Tiểu ban bảo vệ và phát triển nguồn nước, một trong tám tiểu ban tại hội nghị, sẽ tập trung thảo luận sâu về chủ đề quy hoạch, trong đó có những tham luận đề cập tới lưu vực sông Mekong.
Việt Nam được cảnh báo là một trong năm nước bị ảnh hưởng nặng nề nhất do biến đổi khí hậu, nước biển dâng. Vì vậy, trong các báo cáo tại hội thảo có 7 – 8 báo cáo về sông Mekong, đặc biệt là về tác động của nước biển dâng với đồng bằng sông Cửu Long, của uỷ ban sông Mekong Việt Nam, và của các nhà khoa học.
Chủ tịch hội Đập lớn Hà Lan nói cách duy nhất để tìm kiếm sự hài hoà lợi ích giữa các nước thượng nguồn và hạ nguồn sông Mekong là uỷ hội Mekong quốc tế phải tìm cách mời bằng được Trung Quốc tham gia với tư cách thành viên. Việt Nam và các nước có nỗ lực mời Trung Quốc?
Tôi có thời gian khá dài, đến mười năm, làm phó chủ tịch uỷ ban sông Mekong Việt Nam, và uỷ viên hội đồng cấp cao uỷ hội Mekong quốc tế. Năm nào mà chúng tôi chẳng mời Trung Quốc tham gia. Họ không hề thể hiện sự quan tâm tới uỷ hội Mekong quốc tế, đặc biệt là liên quan tới chủ đề thể chế, bảo vệ môi trường lưu vực sông Mekong. Họ hầu như không hồi âm lời mời của chúng tôi.
Riêng đối với việc sử dụng nguồn nước hài hoà, hiệu quả, và hợp lý trên lãnh thổ Việt Nam, sự phối hợp giữa tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), với tư cách nhà sản xuất điện, bộ Công thương (MOIT), với tư cách nhà hoạch định chính sách phát triển thuỷ điện, và VNCOLD, với tư cách tổ chức điều hoà các lợi ích, có thường xuyên và chặt chẽ không?
Rất ít phối hợp chính thức. Có chăng chỉ là giữa các chuyên gia của EVN và MOIT với chúng tôi trong những vụ việc cụ thể.
Sự hợp tác giữa VNCOLD và bộ Nông nghiệp và phát triển nông thôn là chặt chẽ, bởi họ cần chúng tôi giúp đánh giá, phản biện, hay tìm những phương án sử dụng nguồn nước hợp lý nhất. Nói chung, họ tìm thấy lợi ích từ hội của chúng tôi, bởi mỗi cái đập được xây dựng lên ảnh hưởng trực tiếp tới chính họ. Còn EVN và MOIT chắc không thấy có lợi ích đó, thậm chí là ngược lại.
Đã có văn bản pháp quy nào quy định trước khi quyết định một dự án đầu tư thuỷ điện, cần có tham vấn với các nhà chuyên môn, như hội đập lớn không?
Có chứ, nhưng là ở nước ngoài. Còn ở Việt Nam thì chưa.
HUỲNH PHAN (THỰC HIỆN)

Sự thay đổi thái độ và nhận thức


Ngày 25.05.2010, 21:01 (GMT+7)
Hội nghị ICOLD lần thứ 78
Sự thay đổi thái độ và nhận thức
Hội thảo khoa học quốc tế “Đập và phát triển nguồn nước bền vững”, trong khuôn khổ hội nghị ủy hội đập lớn thế giới (ICOLD) lần thứ 78, đã khai mạc sáng 25.5.2010. tại Hà Nội.
Trong hai ngày hội thảo, hơn 600 đại biểu từ 63 quốc gia thành viên ICOLD sẽ thảo luận về thủy văn, quy hoạch quản lý nguồn nước bền vững, tác động biến đổi khi hậu với vùng ven biển, giảm nhẹ lũ và hạn, cũng như những yếu tố kỹ thuật và tài chính trong việc xây dựng đập.
Sau hội nghị, các đại biểu cũng được mời đi thăm các đập Hòa Bình, Sơn La, Hàm Thuận – Đa Mi, Trị An…
 Vẫn không biết lãnh đạo Trung Quốc có quan tâm hay vẫn im lặng?
Ông Jia Jinsheng (Trung Quốc), Chủ tịch hội đập lớn thế giới (ICOLD) khẳng định, uỷ hội Mekong quốc tế đã thảo luận với chính phủ Trung Quốc để giải quyết những vấn đề liên quan đến những tác động đến môi trường và đời sống cư dân vùng hạ du con sông này. “Chính phủ Trung Quốc rất quan tâm tới những gì liên quan tới đời sống của cư dân hạ du sông Mekong”, ông Jinsheng nói.
Thái độ hợp tác của Trung Quốc tại thời điểm hiện tại đã được hội đập lớn Việt Nam (VNCOLD) xác nhận phần nào. Theo ông Nguyễn Hồng Toàn, thành viên VNCOLD, hiện nay, Trung Quốc đã cung cấp thông tin thủy văn vào mùa lũ, và đã đồng ý cung cấp thông tin thủy văn vào mùa kiệt tại hai trạm gần biên giới các nước hạ du. Nhưng ông Toàn cũng giải thích thêm rằng, loại thông tin thứ hai chỉ được phía Trung Quốc mới đây đồng ý cung cấp trước yêu cầu rất mạnh mẽ của các nước hạ du sông Mekong.
Tuy nhiên, theo kinh nghiệm của đại biểu từ Hà Lan, nơi có hai con sông quốc tế chảy qua. sự hợp tác này chỉ thực sự phát huy hiệu quả, khi tất cả những quốc gia có con sông nào đó chảy qua, cùng nằm trong một hiệp hội. “Phải bằng mọi cách mời được Trung Quốc tham gia ủy hội Mekong quốc tế, với tư cách một thành viên chính thức. Lúc đó, trách nhiệm hợp tác mới được đặt ra một cách nghiêm túc, thay vì thiện chí nhất thời”, chủ tịch hội đập lớn Hà Lan Johannes Van Duivenduk gợi ý.
Tại hội nghị cấp cao Hua Hin, Thủ tướng Việt Nam Nguyễn Tấn Dũng đã chính thức mời Trung Quốc và Myanmar tham gia uỷ hội Mekong quốc tế. Cũng theo ông Toàn, đó là tín hiệu hết sức khẩn thiết của chính phủ Việt Nam để Trung Quốc tham gia hợp tác với các nước hạ du sông Mekong. Nhưng cả ông Toàn, ông Jinsheng đều không biết liệu lãnh đạo Trung Quốc có cân nhắc lời mời ở cấp cao này không, hay vẫn im lặng như họ vẫn làm trong 15 năm qua.
Chỉ có một điều ông Toàn và cả ông Jinsheng biết rất rõ, đó là các bài tham luận về tác động của các đập lớn trên thượng nguồn tác động thế nào tới môi trường hạ du, cùng ý kiến tranh luận tại các cuộc thảo luận của 8 tiểu ban vào ngày 26.5.2010, sẽ được đưa vào một cuốn sách để chuyển tới các nhà quản lý và hoạch định chính sách ở từng quốc gia thành viên ICOLD. “Những nhận định, trên cơ sở phân tích tác động, số liệu cụ thể và những kiến nghị cụ thể sẽ được chuyển tới họ như những khuyến cáo mạnh mẽ” ông Toàn khẳng định.
Sự thay đổi nhận thức của chính phủ Việt Nam
“Việt Nam thừa nhận và thực hiện các nguyên tắc quốc tế (GWP) về quản lý tổng hợp tài nguyên nước như là một quá trình thúc đẩy việc phát triển và quản lý nước, đất và các tài nguyên liên quan nhằm đem lại phúc lợi xã hội tối đa theo cách thức công bằng và không gây tác hại đối với sự bền vững của các hệ sinh thái quan trọng”, Phó Thủ tướng Hoàng Trung Hải khẳng định trong bài phát biểu của mình.
Cách đây hơn một năm, ông Hoàng Trung Hải phải thay mặt Chính phủ Việt Nam nhận lỗi trước uỷ ban thường vụ quốc hội, vì những chậm trễ trong việc tái định cư cho hơn sáu ngàn hộ dân phải di dời do xây dựng đập thủy điện Sơn La. Trước đó, ông Hoàng Trung Hải cũng là người kiên trì vận động quốc hội thông qua dự án này, cũng như đôn đáo vận động các nguồn vốn vay khác, khi chính phủ Nhật Bản kiên quyết từ chối cấp ODA vì dự án ảnh hưởng tới một vùng sinh thái và số lượng cư dân quá lớn.
Ông Toàn cũng thông báo rằng Chính phủ đang soạn thảo nghị định quản lý đa ngành đối với các công trình thủy điện và thủy lợi, và bộ Chính trị cũng đã giao cho bộ Tài nguyên & môi trường chủ trì việc soạn thảo luật về bảo vệ nguồn nước. “Như vậy, nguồn nước đã được coi là tài sản quốc gia, và phải được quản lý chặt chẽ và khai thác với sự hài hòa về lợi ích”, ông Toàn nhận xét.
Tuy nhiên, GS-TS Giang vẫn khẳng định rằng việc tiếp tục xây đập vẫn là giải pháp duy nhất để giữ nước trong mùa mưa và sử dụng nước trong mùa khô. “Đó là chưa kể tới nhu cầu điện năng của Việt Nam tăng bình quân 15% hàng năm, đòi hỏi phải khai thác và tái tạo nguồn năng lượng sạch này, như các nước Âu, Mỹ, hay Nhật Bản đã từng làm”, ông Michel De Vivo, tổng thư ký ICOLD, khẳng định thêm.
Tuy nhiên, theo lãnh đạo VNCOLD, Chính phủ Việt Nam đã nhận thức được rằng sự phát triển của thủy điện tràn lan, nếu không được quản lý, sẽ tác động rất lớn đến môi trường. “Có một tín hiệu tích cực từ bộ Công Thương là họ đã đề nghị dừng lại những dự án thủy điện vừa và nhỏ có tác động đến môi trường, trong danh sách những dự án thủy điện, chủ yếu ở miền Trung và Tây Nguyên, mà họ đang phải rà soát lại”, ông Toàn nói.
HUỲNH PHAN

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Biển Đông và Mekong được đề cập trong những thách thức


Ngày 31.03.2010, 10:01 (GMT+7)
Biển Đông và Mekong được đề cập trong những thách thức
Trước sự kiện này, phóng viên Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với trợ lý ngoại trưởng Phạm Quang Vinh, trưởng đoàn Việt Nam tại hội nghị các quan chức cao cấp (SOM), về những vấn đề nghị sự được coi là nổi cộm.
Vấn đề cạn kiệt ở hạ lưu sông Mekong có được đưa ra bàn ở cấp cao ASEAN 16, và đưa vào tuyên bố chung về ứng phó biến đổi khí hậu, hay không?
Đây là hợp tác chung của ASEAN trong lĩnh vực này nên chủ đề tập trung vào hai mảng lớn. Một là lập trường của khu vực này trong tiến trình hợp tác toàn cầu. Hai là phối hợp nỗ lực của các nước trong khu vực nhằm ứng phó với biến đổi khí hậu và bảo vệ môi trường.
Về mảng thứ hai, ASEAN tính đến rất nhiều yếu tố liên quan đến bảo vệ môi trường, trong đó có bảo vệ nguồn nước và lưu vực của các con sông, đặc biệt là sông Mekong. Tất cả những yếu tố đó dự kiến đều được đưa vào tuyên bố chung.
Các lãnh đạo ASEAN có chuyển một thông điệp mạnh mẽ cho đối tác có liên quan không?
Liên quan đến việc bảo vệ nguồn nước và lưu vực các con sông, có nhiều diễn đàn khác nhau. Tuyên bố ở đây mang tính chất chính sách và chính trị ở cấp cao của cả khối, và, vì vậy, chỉ tập trung vào vấn đề chung nhất. Việc bàn kỹ, hay đưa ra thông điệp, sẽ được thực hiện ở các diễn đàn chuyên trách khác. Chẳng hạn, vấn đề sông Mekong sẽ được bàn rất kỹ ở hội nghị cấp cao của Uỷ hội Mekong quốc tế vào đầu tuần tới ở Hua Hin.
Có những thông tin nói rằng nguy cơ và những diễn biến gây bất ổn gần đây ở Biển Đông có thể được nêu ra ở hội nghị cấp cao lần này, như một thách thức với an ninh khu vực. Xin ông cho biết cụ thể hơn.
Nội dung chính của Thượng đỉnh ASEAN 16
1. Đẩy nhanh triển khai thực hiện Hiến chương ASEAN và xây dựng Cộng đồng ASEAN. Tập trung vào việc tăng cường kết nối ASEAN.
2. Tăng cường năng lực của khu vực và hợp tác khu vực trong việc ứng phó với các thách thức toàn cầu, đặc biệt là đảm bảo phục hồi kinh tế và phát triển bền vững, cũng như ứng phó với biến đổi khí hậu.
3. Tăng cường và làm sâu sắc các quan hệ của ASEAN với các bên đối tác, trong đó duy trì được vai trò trung tâm của ASEAN.
4. Tăng cường quảng bá hình ảnh và vị thế của ASEAN trong các tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Ngoài tuyên bố của Chủ tịch về kết quả làm việc của hội nghị, có hai tuyên bố quan trọng (theo sáng kiến của Việt Nam)
1. Tuyên bố của các lãnh đạo ASEAN về phục hồi kinh tế và phát triển bền vững.
2. Tuyên bố về ứng phó với biến đổi khí hậu.
Hội nghị cấp cao này bàn về việc xây dựng Cộng đồng ASEAN trên ba trụ cột. Riêng về trụ cột chính trị – an ninh, ngoài việc nâng hợp tác lên một tầm mới, việc xây dựng cộng đồng là nhằm tạo dựng một môi trường hoà bình, ổn định và hợp tác. Điều đó có nghĩa là tất cả những gì liên quan đến mục đích này sẽ đều được đưa ra bàn ở hội nghị cấp cao.
Cụ thể, các thành viên ASEAN sẽ nhấn mạnh lại và khẳng định yêu cầu phải thực hiện đầy đủ những gì đã thoả thuận, chẳng hạn TAC (Hiệp ước về hợp tác và thân thiện Đông Nam Á) mà Trung Quốc và Mỹ đều đã tham gia, hoặc DOC (Tuyên bố về ứng xử của các bên trên Biển Đông) giữa ASEAN với Trung Quốc…
Tại cấp cao lần này, liệu Việt Nam và các thành viên còn lại có đặt quyết tâm thúc đẩy DOC thành COC (Bộ quy tắc ứng xử của các bên trên Biển Đông) không?
Việc thúc đẩy COC có được đưa vào tuyên bố chung hay không còn phụ thuộc vào quá trình thảo luận tại hội nghị, dựa trên kết quả tham vấn và đối thoại trước đó với Trung Quốc. Ở thời điểm này, tôi chưa nói được gì.
Việt Nam cũng đồng thời làm chủ tịch của cơ quan mới được thành lập của ASEAN là Cơ quan liên chính phủ về nhân quyền. Cơ chế giải quyết nhân quyền của ASEAN khác gì so với các cơ chế nhân quyền khác trên thế giới?
Điểm quan trọng nhất là cơ quan này tăng cường hợp tác của ASEAN trong lĩnh vực nhân quyền, nhưng vẫn phải đảm bảo tuân thủ các nguyên tắc của hiến chương, đặc biệt là nguyên tắc tôn trọng độc lập chủ quyền và không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
Thứ hai, các nước ASEAN thống nhất thúc đẩy quảng bá các giá trị chung liên quan đến nhân quyền, đồng thời việc thực hiện việc đảm bảo nhân quyền phải phù hợp với đặc thù về truyền thống, lịch sử, văn hoá, tôn giáo của khu vực Đông Nam Á và từng nước.
Trong lần làm Chủ tịch ASEAN cách đây 12 năm, Việt Nam đã có một thách thức lớn phải vượt qua là việc kết nạp Campuchia. Liệu vấn đề bảo đảm tiến trình dân chủ ở Myanmar, đặc biệt liên quan đến bầu cử, sẽ lại là một thách thức lớn khác không?
Ngay tại hội nghị ngoại trưởng tại Đà Nẵng vào tháng 1.2010, ngoại trưởng Myanmar đã thông báo việc chuẩn bị bầu cử, cũng như việc thực hiện lộ trình dân chủ ở nước này. Các thành viên ASEAN còn lại đã bày tỏ mong muốn rằng Myanmar, bên cạnh việc đảm bảo hoà bình, ổn định và phát triển, cần phải thúc đẩy hơn nữa tiến trình dân chủ và hoà hợp dân tộc, như lãnh đạo nước này đã cam kết. Ở cấp cao, ASEAN vẫn có lập trường và mong muốn như vậy.
Trước ASEM 5 (2004) nguyên Thủ tướng Võ Văn Kiệt, với tư cách đặc phái viên của Thủ tướng Việt Nam, đã thăm Myanmar với mục đích dàn xếp bất đồng giữa EU và Myanmar, để hội nghị này diễn ra thành công, với việc Myanmar được kết nạp vào ASEM. Vào thời điểm hiện nay, đối với những vấn đề có thể ngăn cản ASEAN cải thiện quan hệ với các đối tác bên ngoài, chẳng hạn như vẫn là vấn đề Myanmar, quan điểm và hành động của Việt Nam, đương kim Chủ tịch ASEAN, như thế nào?
Bản thân Việt Nam với tư cách là một nước bạn bè truyền thống và một thành viên trong khối đang chia sẻ với Myanmar rất nhiều kinh nghiệm về đổi mới, xây dựng và phát triển đất nước. Những điều đó, ngoài việc đóng góp cho tiến trình xây dựng lòng tin, còn giúp Myanmar có được những kinh nghiệm tốt trong quá trình và dân chủ hoá của mình.
Việt Nam đã từng có những trải nghiệm đáng nhớ về thời kỳ bị bao vây cấm vận, cũng như những kinh nghiệm để thoát ra mà phát triển. Chuyến thăm Myanmar của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, bắt đầu từ ngày 2.4 tới, cũng sẽ được hiểu theo ý nghĩa chia sẻ những trải nghiệm và kinh nghiệm đó, thưa ông?
Trước hết, đây là chuyến thăm song phương nhằm mục đích thúc đẩy hợp tác song phương, như vụ Thông tin – báo chí đã thông báo chính thức. Tất nhiên, Việt Nam có đủ trải nghiệm và kinh nghiệm hội nhập để phát triển, để chia sẻ. Nhưng việc tiếp thu ra sao lại do phía Myanmar quyết định.
HUỲNH PHAN THỰC HIỆN

Hạ nguồn bắt tay, thượng nguồn… hứa


Ngày 30.03.2010, 08:25 (GMT+7)
Hội nghị thượng đỉnh uỷ ban sông Mekong quốc tế
Hạ nguồn bắt tay, thượng nguồn… hứa
SGTT - “Trung Quốc cho biết nước này đã sẵn sàng cung cấp cho ban thư ký của Uỷ ban sông Mekong quốc tế (MRC) số liệu từ các trạm khí tượng thuỷ văn tại Cảnh Hồng và Mạn Loan trong mùa kiệt năm nay, bắt đầu ngay từ tuần này”, ông Jeremy Bird, tổng thư ký MRC, thông báo trong cuộc họp báo diễn ra ở Bangkok (Thái Lan) vào ngày 26.3.2010.
Người nông dân Campuchia này sống trên một đoạn sông Mekong chảy qua tỉnh Kandal, Campuchia. Năm nay, anh phải đi xa hơn ra ngoài sông mới có nước để đem về, trong khi trước đây, anh có thể lấy nước ngay trong bờ. Mực nước sông Mekong xuống 33cm so với trước đây, mức cạn nhất trong 50 năm qua. Ảnh: Reuters
Tin này được loan báo trong bối cảnh Trung Quốc cho đến cuối tuần trước, vẫn từ chối cung cấp thông tin về dòng chảy ở thượng nguồn, liên quan đến những đập thuỷ điện của họ, vào mùa kiệt.
Trung Quốc cho xây dựng tám đập lớn, và đã hoàn thành một nửa, bao gồm Mạn Loan, Đại Chiếu Sơn, Cảnh Hồng, và nhất là Tiểu Loan, lớn chỉ sau đập Tam Hiệp trên sông Dương Tử. Cho đến nay, theo phân tích của ban thư ký MRC, tình trạng cạn kiệt ở lưu vực con sông này, nhất là trên địa phận Lào và bắc Thái Lan, ở mức tồi tệ nhất trong nhiều thập kỷ qua, chủ yếu là do lượng mưa cực kỳ thấp, hơn là do tác động của các công trình hạ tầng trên dòng chính.
Tuy nhiên, trong một thông điệp truyền hình hồi đầu tháng, Thủ tướng Thái Lan Abhisit Vejjajiva đã gắn liền Trung Quốc với những hệ quả tai hại mà các nước hạ nguồn đang phải gánh chịu, và cho biết sẽ yêu cầu Trung Quốc đàm phán song phương về vấn đề này. Phản ứng mạnh mẽ của ông Abhisit, người đang chịu một sức ép ngày càng tăng trong nước, đặc biệt là phong trào áo đỏ ủng hộ cựu Thủ tướng Thaksin, đã được đánh giá như một động thái xoa dịu dư luận, trước khi ông phải chủ trì một cuộc hội nghị thượng đỉnh quan trọng liên quan đến vấn đề này vào đầu tháng tới.
Hạ nguồn đồng ca
Lần đầu tiên trong lịch sử tồn tại của MRC, một hội nghị ở cấp cao được tổ chức vào 5.4.2010, tại Hua Hin (Thái Lan). Đại diện của các quốc gia và tổ chức quốc tế tài trợ, cũng như các tổ chức phi chính phủ về môi trường, sẽ tham gia cùng với Thủ tướng Thái Lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, và đại diện của Myanmar và Trung Quốc, dự kiến ở cấp bộ trưởng, tham gia sự kiện cột mốc kỷ niệm 15 năm thành lập tổ chức khu vực này.
Ngoài một tuyên bố chung nêu lên những thành tựu, thách thức và hướng ưu tiên trong giai đoạn sắp tới, có thể hội nghị Hua Hin sẽ thông qua một cơ chế tổ chức hội nghị thượng đỉnh bốn năm một lần. “Tức là các nước thành viên phải hoàn thành nhiều công việc hơn, có những kết quả cụ thể hơn trong bốn năm đó, và các vị thủ tướng có thể ngồi lại với nhau để ra những thông điệp mạnh mẽ hơn”, ông Lê Đức Trung, tổng thư ký MRC Việt Nam nói.
Trước hội nghị thượng đỉnh Hua Hin ba ngày là một hội thảo quốc tế với chủ đề Quản lý nguồn nước xuyên biên giới trong một thế giới đang thay đổi. Trong hai ngày hội thảo, các đại biểu dự kiến sẽ thảo luận về mối quan hệ giữa sản xuất lương thực và thuỷ điện trong phát triển bền vững, có tham khảo kinh nghiệm từ các khu vực khác trên thế giới. Những người tham dự hội thảo cũng sẽ tham dự một chuyến tham quan thực tế, để chứng kiến tình trạng sông cạn kiệt nghiêm trọng ở Thái Lan, và hệ luỵ nặng nề đối với sản xuất nông nghiệp, cũng như cuộc sống của nông dân.
Trong số các mục tiêu của hội nghị Hua Hin, hai vấn đề được chú ý nhiều nhất là sự tăng cường quan hệ hợp tác với Trung Quốc và Myanmar, cũng như thúc đẩy hợp tác với một cơ chế tiểu vùng khác là Tiểu vùng Mekong mở rộng (GMS).
Thượng nguồn vọng tiếng
Cho đến nay, Trung Quốc chỉ thực sự quan tâm đến GMS, bởi cơ chế này phục vụ cho mục tiêu chính mà họ theo đuổi là thúc đẩy quan hệ thương mại – đầu tư trong khu vực vùng sông Mekong. Việc thúc đẩy hợp tác giữa hai cơ chế này với nhau là một mục tiêu được coi là sáng suốt của những nước hạ nguồn, khi họ có thể mặc cả với Trung Quốc trong một bài toán với lợi ích tổng thể của cả hai bên.
Ông Bird còn cho biết thêm rằng vào năm ngoái Trung Quốc đã thông báo với ban thư ký MRC về kế hoạch hạn chế việc tích nước cho các đập chỉ vào mùa lũ, để tránh gây ảnh hưởng cho các nước hạ nguồn. Tuy nhiên, việc họ thông báo hoãn vô thời hạn chuyến tham quan đập Tiểu Loan, được cho là bắt đầu tích nước từ đầu mùa khô năm ngoái (tháng 10), ngay sau khi đồng ý tổ chức vào đầu tháng 3 vừa rồi, khiến cho dư luận có lý do để nghi ngại.
Mặc dù vậy, những người theo đuổi cuộc đối thoại đầy khó khăn với Trung Quốc suốt gần 14 năm qua, lại có những lý do để lạc quan. “Tuyên bố của Trung Quốc sẽ làm sáng tỏ sự mập mờ liên quan đến vụ việc này, và tiếp tục góp phần vào quá trình xây dựng lòng tin cần thiết để giải quyết những vấn đề căng thẳng khác trong khu vực như an ninh lương thực và biến đổi khí hậu”, ông Bird nhận xét.
Huỳnh Phan

Chuyển biến nhận thức chưa thể hiện bằng hành động


Ngày 17.03.2010, 07:35 (GMT+7)
Ứng xử của Trung Quốc với các nước hạ lưu sông Mekong
Chuyển biến nhận thức chưa thể hiện bằng hành động
SGTTT - Cho đến nay, Trung Quốc đã chấp nhận một vài chuyến thăm đập thuỷ điện đầu nguồn sông Mekong ở cấp chuyên viên, còn đề xuất của uỷ hội Mekong về chuyến thăm ở cấp cao hơn luôn bị họ thoái thác. Thông tin về việc mới đây Trung Quốc đã chấp nhận cho một đoàn cấp vụ của uỷ hội Mekong đi thăm đập Tiểu Loan đã tạo ra sự quan tâm đặc biệt, không chỉ của các nước ở hạ lưu dòng sông này.
Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với ông Lê Đức Trung, tổng thư ký uỷ ban Sông Mekong Việt Nam (VNMC) xung quanh động thái này của Trung Quốc.
Ông có nhận xét gì về bối cảnh dẫn đến sự nhượng bộ trên của phía Trung Quốc?
Quyết định này của Trung Quốc đã xảy ra trong bối cảnh tương đối nhạy cảm, khi nước này đã hoàn thành việc xây đập Tiểu Loan, và hiện nay đang tích nước, gây một mối quan tâm và bức xúc lớn từ các nước ở hạ lưu. Đặc biệt, vào thời điểm này đang diễn ra tình hình cạn kiệt gay gắt trong lưu vực sông Mekong. Ba nguyên nhân của tình trạng này có thể là biến đổi khí hậu, sự cực đoan của diễn biến thời tiết, và, cũng có thể, là sự điều tiết nước ở phía thượng nguồn.
Trong cuộc họp báo ở Bangkok gần đây, sứ quán Trung Quốc đã khẳng định rằng nguyên nhân của sự cạn kiệt không phải do phía Trung Quốc. Việc chấp nhận cung cấp thêm thông tin kỹ thuật chi tiết, thông qua một chuyến thăm làm việc sẽ được các nước ở hạ lưu đánh giá cao hơn.
Cho đến cuối năm ngoái, Trung Quốc đã bắt đầu chịu sức ép rất mạnh từ các tổ chức phi chính phủ quốc tế về môi trường, cũng như từ giới truyền thông, nhất là sau khi họ bắt đầu tích nước cho đập Tiểu Loan. Theo tôi nghĩ, đó là nguyên nhân chính khiến họ không thể tiếp tục bưng bít thông tin như trước được nữa.
Tôi nghĩ đó là một xu thế. Không thể nào trong quan hệ quốc tế lại có nước cứ một mình một sân, đóng cửa với thế giới về thông tin. Có thể họ vẫn chưa muốn hợp tác, nhưng họ phải tính đến quyền lợi của họ ở những khía cạnh khác, tức là phải có đi có lại trong một giải pháp trọn gói.
Xin ông cho biết liệu đây có phải là một bước chuyển trong quan điểm ứng xử của nước này đối với các quốc gia ở hạ lưu?
Tôi nhận thấy có bước chuyển của Trung Quốc về việc này. Thậm chí, họ còn tỏ ý sẽ tham gia vào nghiên cứu đánh giá tác động môi trường chiến lược của các đập thuỷ điện. Trong cuộc họp của uỷ hội chúng tôi với các đối tác đối thoại vào giữa năm ngoái, chúng tôi nói rằng dự án đánh giá môi trường chiến lược cho các đập thuỷ điện trên dòng chính đang được tiến hành, và bản đánh giá này sẽ không hoàn chỉnh nếu thiếu đánh giá về các đập thuỷ điện ở thượng nguồn trên lãnh thổ Trung Quốc. Tuy nhiên, cho đến giờ họ vẫn chưa thực sự tham gia.
Tại sao vừa rồi Thái Lan lại có động thái mạnh như vậy, khi Thủ tướng Abhisit tuyên bố sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc về việc cung cấp thông tin ở các đập thượng nguồn. Xưa nay, người ta nhận thấy Thái Lan dường như có vẻ né tránh chuyện này?
Cũng phải thôi, bởi Trung Quốc là đối tác làm ăn quan trọng của họ. Nhưng hiện nay, do sông cạn kiệt quá khủng khiếp, cộng với sức ép rất mạnh từ hệ thống các tổ chức xã hội dân sự của nước này, nếu không có động thái gì Chính phủ Thái Lan cũng khó yên ổn với các tổ chức này.
Trong cuộc họp ở uỷ ban liên hiệp hồi đầu tháng ở Luang Prabang (Lào), chính Thái Lan đã nêu yêu cầu rằng, với tình hình cạn kiệt như thế, tuy nguyên nhân có thể có nhiều, vẫn nên lên tiếng với Trung Quốc, và một bức thư đã được gửi tới đại diện của Trung Quốc về vấn đề sông Mekong đặt tại sứ quán tại Bangkok.
Tôi nghĩ đây cũng là một bước cách mạng ở Thái Lan.
Việt Nam có đặt vấn đề đàm phán song phương với Trung Quốc, như Thái Lan?
Giữa Việt Nam và Trung Quốc có chuyện quan hệ song phương, chứ không phải đặt vấn đề đàm phán song phương. Hàng năm, hai bên vẫn trao đổi đoàn. Chẳng hạn, cuối năm ngoái, đoàn của uỷ ban Sông Mekong Việt Nam đã đi thăm đập Mãn Loan vào cuối năm ngoái, và họ hứa sẽ mời mình đi thăm đập Tiểu Loan khi đã hoàn thành, có thể vào mùa lũ năm nay.
Tức là, với Trung Quốc, cơ chế song phương có vẻ dễ dàng được chấp nhận hơn đa phương?
Đúng vậy. Nói chung Trung Quốc thích giải quyết riêng rẽ với từng nước hơn là làm với cả khối. Lẽ ra, đoàn uỷ hội đã đi thăm đập Tiểu Loan rồi, nhưng phía Trung Quốc lại nêu ra những lý do bất trắc nọ kia, và chưa biết chuyến đi bị hoãn đến khi nào.
Có ý kiến cho rằng quy định quốc tế có vẻ vẫn thiên về bảo vệ việc một nước sử dụng nguồn nước sông chảy trên lãnh thổ của mình. Có đúng vậy không, thưa ông?
Ngày xưa có hai chủ thuyết ở hai thái cực khác nhau. Một là chủ quyền tuyệt đối, như anh đã đề cập. Hai là tính toàn vẹn tuyệt đối, tức là một con sông đã chảy qua nhiều quốc gia, khi định làm gì phải tính đến tất cả các tác động. Việc áp dụng chủ thuyết nào lại phụ thuộc vào lợi ích và thế mạnh của từng nước.
Đến gần đây, đã xuất hiện chủ thuyết mới về sử dụng công bằng và hợp lý, được đưa vào quy chế Helsinki, rồi sau đó đưa vào Công ước sử dụng nước phi giao thông thuỷ của Liên hiệp quốc. Tuy nhiên, ngay từ đầu Trung Quốc (cùng hai nước nhỏ khác) đã kiên quyết không phê chuẩn công ước này. Dễ hiểu thôi, bởi sông của họ chủ yếu là thượng lưu.
Công ước này tuy không phải quy định có tính ràng buộc về mặt pháp lý với tất cả các quốc gia, nhưng lại có ý nghĩa về mặt đạo đức ứng xử. Đó là một trong những cơ sở mà trong hoạt động của mình uỷ hội Mekong đưa ra làm luận cứ tranh cãi. Tức là, khi anh cứ nói chuyện phát triển hài hoà, mà trong chuyện này anh lại cố tình phớt lờ đi quyền lợi của các quốc gia liên quan, uy tín của anh cũng kém đi trong con mắt các đối tác phát triển trong khu vực.
Cho đến nay, trước yêu cầu của các quốc gia ở hạ lưu, Trung Quốc đã đáp ứng ở mức nào?
Có, nhưng hạn chế. Chẳng hạn, với Việt Nam, từ cách đây 4 – 5 năm, họ đã đồng ý cung cấp số liệu về dòng chảy trong sáu tháng mùa lũ. Có điều, ưu tiên thông tin cao nhất là dòng chảy mùa kiệt, tức là chế độ vận hành của các đập thuỷ điện, thì họ lại không cung cấp.
Họ giải thích chuyện này thế nào?
Thực ra, chuyện Trung Quốc giải thích thế nào không quan trọng, bởi họ thiếu gì cách. Chỉ có một điều, họ rất nhất quán trong cung cấp thông tin dòng chảy. Chẳng hạn, đối với sông Hồng, bộ Tài nguyên và môi trường Việt Nam cũng chỉ nhận được thông tin về dòng chảy thượng nguồn vào mùa lũ.
Huỳnh Phan thực hiện

Bước tiến tích cực nhưng chưa đủ xa


Ngày 31.07.2009, 09:25 (GMT+7)
Trung Quốc chia sẻ thông tin về các dự án thuỷ điện sông Mekong
Bước tiến tích cực nhưng chưa đủ xa
Cá da trơn khổng lồ là đặc sản của sông Mekong. Càng ngày, loài cá này càng biến mất khỏi lòng sông vì ô nhiễm và thay đổi dòng chảy. Một trong những nguyên nhân là các con đập được xây dựng trên thượng nguồn sông Mekong, thuộc lãnh thổ Trung Quốc. Ảnh: AP
SGTT - Giáo sư Carl Thayer, học viện Quốc phòng Úc, một người đã nhiều năm theo dõi vấn đề sông Mekong, có bài viết nhân cuộc đối thoại lần thứ 14 giữa các thành viên uỷ ban sông Mekong với Trung Quốc và Myanmar. Sài Gòn Tiếp Thị trân trọng giới thiệu
Theo thông báo của uỷ ban sông Mekong (MRC), tại cuộc đối thoại lần thứ 14 giữa các thành viên MRC với Trung Quốc và Myanmar, đại diện Trung Quốc đã tái khẳng định sẵn sàng chia sẻ thông tin về các dự án thuỷ điện đang vận hành, đang xây dựng và dự kiến xây dựng trên thượng nguồn sông Mekong, một số biện pháp mà nước này đang thực hiện nhằm tránh thay đổi dòng chảy, ở khu vực hạ lưu, cũng như cam kết tham gia đánh giá môi trường chiến lược mà MRC đang tiến hành đối với các dự án thuỷ điện dự kiến xây dựng ở khu vực hạ lưu con sông này.
Trưởng đoàn Trung Quốc Điêu Minh Thanh nói: “Với việc thực hiện thoả thuận (ký tại cuộc đối thoại lần thứ 13 về cung cấp thông tin thuỷ học thượng nguồn sông Mekong), Trung Quốc sẽ tiếp tục hỗ trợ các nước hạ nguồn giám sát lũ”.
Lợi dụng sự bất cập của các định chế
Hiện có hai định chế đa phương chính liên quan đến sự phát triển của sông Mekong và vùng lưu vực của nó. Đó là Tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) và MRC. MRC được thành lập năm 1995, gồm Campuchia, Lào, Thái Lan và Việt Nam, trong khi Trung Quốc và Myanmar không tham gia, khiến người ta phải thiết lập một cơ chế đối thoại với hai nước này.
Chính quyền trung ương Trung Quốc không phải thành viên của cả hai định chế trên. Thiếu sự tham gia chính thức của chính quyền trung ương Trung Quốc đã cản trở tính hiệu lực của cả hai định chế trên. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền với Thượng Mekong (Lạn Thương) và coi việc xây dựng hàng loạt đập lớn ở thượng nguồn là công việc nội bộ của họ, bất chấp ảnh hưởng tiềm tàng đối với việc cạn kiệt của hạ nguồn.
Có thể nói sự hợp tác đa phương để phát triển lưu vực sông Mekong và Tiểu vùng Mekong mở rộng là con tin của sự vắng mặt của chính quyền trung ương Trung Quốc. Nếu họ tiếp tục xây dựng thêm đập, điều này sẽ gây ảnh hưởng nghiêm trọng tới dòng chảy và hệ sinh thái, gồm cả vựa lúa của Việt Nam là đồng bằng sông Cửu Long.
MRC và GMS, mặc dù có mục tiêu chung, lại theo đuổi những mục tiêu này bằng các phương thức và cấu trúc khác nhau. Trung Quốc đã cố tình thúc đẩy sự chồng chéo của hai định chế khiêm tốn này nhằm tách việc phát triển kinh tế khỏi vấn đề môi trường. Với tư cách là một lãnh tụ trong khu vực, Trung Quốc đã tập trung vào việc điều phối chính sách có lợi cho mình, mặt khác lại tách hai định chế này ra bằng sự tham gia có lựa chọn. Chẳng hạn, những nước như Việt Nam thật khó có thể nêu những quan ngại của mình về lưu lượng dòng chảy theo mùa ở hạ lưu sông Mekong tại MRC hay GMS, bởi Trung Quốc không phải là thành viên của MRC, trong khi GMS chỉ tập trung vào thương mại qua biên giới và phát triển hạ tầng.
Sức ép quốc tế
Động thái kể trên của Trung Quốc tại MRC có sự đóng góp quan trọng của sức ép quốc tế từ ngoài khu vực, một phương cách mà các nước hạ lưu sông Mekong đang theo đuổi, khi hai định chế của họ chưa đủ khả năng tạo ra.
Đối với Trung Quốc, sự can dự trở lại ở khu vực Đông Nam Á nói chung, và Đông Dương nói riêng, là khá nhạy cảm. Trung Quốc sẽ đặc biệt quan tâm tới những gì diễn ra trong cuộc gặp tuần trước giữa ngoại trưởng Mỹ Hillary Clinton với những người tương cấp từ bán đảo Đông Dương bên lề diễn đàn An ninh khu vực (ARF) liên quan đến môi trường hạ lưu sông Mekong.
Những chỉ trích của quốc tế với tình trạng ô nhiễm trong nước và vị trí của Trung Quốc với tư cách là quốc gia có đóng góp lớn vào việc thải khí gây hiệu ứng nhà kính, khiến trái đất ấm lên. Nước này muốn đẩy trách nhiệm xử lý vấn đề này cho các nước công nghiệp hàng đầu.
Nhưng Trung Quốc theo đuổi sự hợp tác với Mỹ trên diện rộng với rất nhiều lĩnh vực, và không hề muốn bất cứ lĩnh vực đơn lẻ nào gây bế tắc cho quan hệ song phương. Vì vậy, tôi nghĩ cuối cùng Trung Quốc cũng phải đáp lại các sức ép để ứng xử với sự tôn trọng với các vấn đề môi trường.
Thông tin chung, hành động vẫn đơn phương
Việc Trung Quốc tái khẳng định cam kết tăng cường hợp tác với các nước hạ lưu sông Mekong trong cuộc đối thoại với các thành viên MRC là một bước tiến tích cực, nhưng chưa đủ xa như mọi người mong đợi. Bởi gần đây họ cũng không giấu giếm rằng họ từ chối chấp nhận các nguyên tắc quản lý nguồn nước đã được MRC thông qua. Trung Quốc đã đáp lại đòi hỏi về cung cấp thông tin của các thành viên hội uỷ Mekong bằng cách đảm bảo rằng điều này “đang đáp ứng các nhu cầu về môi trường, dòng chảy và sử dụng nguồn nước của các quốc gia khu vực hạ lưu sông Mekong”. Nhưng cung cấp thông tin chưa phải là tham vấn trên cơ sở bình đẳng.
Nói một cách khác, Trung Quốc tiếp tục hành động đơn phương bởi họ coi việc quản lý thượng nguồn là vấn đề chủ quyền quốc gia. Việc quản lý nguồn tài nguyên nước ở thượng nguồn là vấn đề sống còn đối với sự phát triển của các tỉnh miền nam nước này. Chỉ bằng cách trở thành một thành viên đầy đủ của MRC, thay vì là đối tác đối thoại như hiện nay, Trung Quốc mới có thể chứng minh một cách rõ ràng cho các nước khác rằng mình là một đối tác có trách nhiệm đối với sự phát triển chung.
Huỳnh Phan (ghi)

Hội nghị tiểu vùng sông Mekong mở rộng: Bảo vệ nguồn nước không được quan tâm


Ngày 25.06.2009, 07:48 (GMT+7)

Đập Mạn Loan, một trong những con đập lớn của Trung Quốc xây trên dòng Mekong, bất chấp những hậu quả môi trường các nước hạ nguồn như Việt Nam phải gánh. Ảnh: Pouv Savuth
SGTT - Trong tuyên bố chung đưa ra khi kết thúc hội nghị cấp bộ trưởng Các nước tiểu vùng sông Mekong mở rộng (GMS) lần thứ 15 diễn ra ở Petchaburi, Thái Lan, vào cuối tuần trước, các bộ trưởng và quan chức phụ trách tài nguyên, môi trường và khí tượng đã kêu gọi các nước đẩy mạnh phát triển các nguồn năng lượng tái sinh, thân thiện với môi trường. Lâu nay người ta đã cảnh báo về việc phát triển thuỷ điện ồ ạt trên thượng nguồn sẽ ảnh hưởng tới sự phát triển kinh tế và đời sống dân cư nơi hạ nguồn.
Tuy nhiên, theo nguồn tin từ đoàn Việt Nam, câu chuyện trước và trong tiến trình diễn ra hội nghị không hẳn như vậy. Trong quá trình trao đổi về nội dung trước hội nghị, một số nước, trong đó có Việt Nam, đã đưa ra vấn đề bảo vệ nguồn nước cho khu vực hạ nguồn sông Mekong, nhưng phía Trung Quốc, quốc gia quản lý thượng nguồn con sông này, đã không chấp nhận đưa vào chương trình bàn thảo. “Họ cảnh báo, nếu đưa vào, hội nghị sẽ thất bại”, một thành viên trong đoàn Việt Nam, giấu tên, nói.
Điều này đặc biệt gây hụt hẫng lớn với những nước bị ảnh hưởng, bởi cách đây hơn một năm, tại hội nghị thượng đỉnh GMS tại Lào, người đứng đầu Chính phủ Trung Quốc đã ủng hộ một cách mạnh mẽ, đến mức đáng ngạc nhiên, cho sự phát triển chung trong tiểu vùng, trong đó có việc bảo vệ nguồn nước và môi trường. Trước đó, chính quyền Trung ương của nước này coi vấn đề sông Mekong là chuyện riêng của Vân Nam với các quốc gia Đông Nam Á mà con sông này chảy qua.
Ngay cả trước yêu cầu chia sẻ thông tin từ những nước như Việt Nam, Lào, hay Campuchia, chỉ đợi đến khi chủ toạ của hội nghị này nhấn mạnh về sự cần thiết của nó, đại diện phía Trung Quốc, mới chấp nhận sẽ báo cáo lên cấp có thẩm quyền của mình. Tại hội nghị lần này, Trung Quốc chỉ cử vụ phó vụ Quốc tế, bộ Tài chính, tham gia, từ phiên họp với các nhà tài trợ và cấp bộ trưởng, với lý do lãnh đạo cấp bộ của họ bận. “Với bất cứ vấn đề nào được coi là nhạy cảm với Trung Quốc được đề cập tới, ông vụ phó Wu Jinkang này đều nói là không đủ thẩm quyền bàn thảo”, thành viên nói trên của đoàn Việt Nam cho biết.
Theo giáo sư Phạm Hồng Giang, chủ tịch hội Đập lớn và phát triển nguồn nước Việt Nam, hiện nay tại vùng Vân Nam, Trung Quốc, có 15 đập thuỷ điện lớn trên dòng chính đã được quy hoạch, và khoảng một nửa đã và đang được xây dựng. Trong đó, các đập lớn đã xây xong bao gồm Tiểu Loan với công suất thuỷ điện 4.200MW và dung tích hồ hơn 15 tỉ m3), Nuozhadu với công suất thuỷ điện 5.500MW, dung tích hồ gần 23 tỉ m3. Còn với số đập đã thiết kế nhưng chưa xây dựng, tổng lượng nước dự trữ trong các hồ vào khoảng 55 tỉ m3. “Đồng bằng sông Cửu Long sẽ phải gánh chịu hậu quả nặng nề nhất do ở cuối nguồn, với nguy cơ lớn nhất là thiếu nước trong mùa khô. Ngoài ra, tác động của biến đổi khí hậu, nước biển sẽ dâng lên mặn thâm nhập sâu trên toàn vùng đồng bằng, và đây sẽ không còn là vựa lúa nữa mà trở thành hoang mạc cằn cỗi”, giáo sư Giang cảnh báo.
Các đại biểu dự hội nghị, ngoài việc tạm hài lòng với những cam kết của các nhà tài trợ, như ADB, WB, IMF, Nhật Bản, Pháp, Anh và đặc biệt là Mỹ, tiếp tục thúc đẩy các dự án hợp tác tiểu vùng về giao thông, thương mại, hay phát triển nguồn nhân lực, đành phải chờ tới tháng 3, hoặc tháng 4 năm sau, khi hội nghị bộ trưởng GMS lần thứ 16 được tổ chức tại Việt Nam, xem đại diện phía Trung Quốc cử sang có được trao thẩm quyền bàn thảo về vấn đề nóng bỏng này hay không.
Huỳnh Phan