Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt Nam học. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Việt Nam học. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực


Ngày 25.11.2009, 08:00 (GMT+7)
Hội thảo quốc tế về Biển Đông lần đầu tiên ở Việt Nam
Hợp tác vì an ninh và phát triển khu vực
SGTT - Đây là lần thứ hai trong năm 2009, GS Ramses Amer, khoa chính trị học của đại học Umea (Thuỵ Điển), đến Việt Nam. Vào trung tuần tháng 3, ông được các nhà nghiên cứu thuộc học viện Ngoại giao mời đến trao đổi về cơ chế giải quyết tranh chấp chủ quyền Biển Đông.
GS Ramses Amer (bìa trái) trao đổi với các học giả Việt Nam và Trung Quốc về cơ chế giải quyết tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông bên lề hội nghị Quốc tế Việt Nam học tại Hà Nội tháng 12.2008. Ảnh: TL
Lần này, GS Amer có cơ hội trao đổi với khoảng 50 nhà khoa học và nghiên cứu hàng đầu của thế giới và khu vực, và một con số nhỉnh hơn các nhà nghiên cứu Việt Nam, trong cuộc hội thảo quốc tế đầu tiên về Biển Đông được tổ chức tại Việt Nam. Trong số đó, có những tên tuổi nổi tiếng như GS Stein Tonesson, Giám đốc viện Nghiên cứu hoà bình quốc tế từ Na Uy, GS Carlyle Thayer, nhà nghiên cứu chiến lược thuộc học viện Quốc phòng Australia, hay GS Hasjim Djalal từ trung tâm Nghiên cứu ASEAN của Indonesia.
Hội thảo Biển Đông: Hợp tác vì an ninh và phát triển trong khu vực, do học viện Ngoại giao và hội Luật gia đồng tổ chức từ 26.11, dự kiến kéo dài một ngày rưỡi, với khoảng 20 tham luận, chủ yếu do các học giả quốc tế trình bày. Hội thảo chia làm ba phiên với các chủ đề lần lượt là “Tầm quan trọng của Biển Đông trong bối cảnh môi trường quốc tế mới”, “Những diễn biến gần đây ở Biển Đông và ảnh hưởng đến hoà bình, ổn định và hợp tác tại khu vực”, và “Các biện pháp duy trì hoà bình, ổn định và tăng cường hợp tác ở Biển Đông”.
Theo các nhà tổ chức, tuy hơn 20 đại diện ngoại giao của các nước có liên quan được mời tham dự, hội thảo này vẫn mang tính khoa học thuần tuý, không mang quan điểm chính trị. Những người tham dự sẽ nêu ý kiến, tranh luận, với tư cách cá nhân, trên cơ sở những công trình nghiên cứu khoa học về Biển Đông của bản thân họ. Tính chất học thuật của hội thảo này còn được thể hiện trong việc các học giả từ những bên tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông, như Trung Hoa lục địa hay Đài Loan, đều được mời tham dự.
Các nhà tổ chức, tuy vậy, vẫn hy vọng rằng sẽ có những ý kiến hay, mang tính gợi mở, cho những nhà hoạch định chính sách của các bên có liên quan đến tranh chấp chủ quyền ở Biển Đông. “Đây chính là dịp tốt để qua đó các nhà hoạch định chính sách và giới nghiên cứu của Việt Nam nhìn nhận lại những việc đã làm. Theo tôi, chúng ta có vẻ hơi thiên về tìm kiếm những chứng cớ lịch sử, vốn đã khá dồi dào, trong khi đó vẫn chưa tập trung nhiều vào việc gia cố các chứng cớ pháp lý, nhất là sự thừa nhận quốc tế”, GS.TS sử học Vũ Minh Giang nhận xét.
Từ kinh nghiệm tổ chức hội nghị quốc tế Việt Nam học, GS.TS Vũ Minh Giang hy vọng rằng đây cũng là một dịp tốt để chính thức tạo mối liên kết và hợp tác giữa các học giả trong nước và quốc tế. “Các học giả nước ngoài sẽ có điều kiện thuận lợi hơn nhiều trong việc tiếp cận các tư liệu cần thiết, để công trình nghiên cứu, hay các bài báo của họ trên các tạp chí quốc tế, có cách nhìn nhận chính xác và khách quan hơn”, GS.TS Giang nói.
GS Amer cũng chia sẻ quan điểm này. “Tôi có quan hệ tốt do được thừa hưởng mối quan hệ của mẹ tôi ở đây (bà mẹ GS Amer đã phụ trách văn phòng Hà Nội của cơ quan Hợp tác phát triển Thuỵ Điển trong suốt 12 năm kể từ năm 1986). Chứ những đồng nghiệp nước ngoài khác nói với tôi rằng, vì những lý do khác nhau, họ tiếp cận thông tin rất khó”, GS Amer nói.
Huỳnh Phan

Đào tạo tiến sĩ: Quan trọng là sử dụng thế nào?


Ngày 06.01.2009, 08:12 (GMT+7)
Chỉ đầu tư nguồn lực từ ngân sách quốc gia và tài trợ quốc tế vào khoa học chưa thể giúp khoa học nước nhà phát triển mà còn cần phải cân nhắc cả mối quan hệ giữa các nhà khoa học với kinh tế và văn hoá ở Việt Nam. Đó là những gì mà Eren Zink, nghiên cứu sinh tiến sĩ của trường đại học Uppsala, Thuỵ Điển, trao đổi với SGTT, sau một thời gian tiếp xúc với hàng chục nhà khoa học Việt Nam
Eren Zink đồng thời làm việc cho một quỹ quốc tế về khoa học chuyên cấp học bổng cho các nhà khoa học trẻ ở các nước đang phát triển. Đó là lý do ông đã chọn đề tài nghiên cứu tiến sĩ là “Giới khoa học Việt Nam phản ứng như thế nào đối với những thách thức của biến đổi khí hậu”. Zink đã tìm hiểu, trao đổi với khoảng 60 nhà khoa học trẻ Việt Nam, đặc biệt là những người lấy bằng tiến sĩ ở nước ngoài. Các cuộc tiếp xúc đã giúp ông hiểu được những cơ hội và thách thức của các nhà khoa học trẻ khi họ quay trở về Việt Nam sau khi được đào tạo ở nước ngoài.
Theo ông, các nhà khoa học trẻ Việt Nam được đào tạo ở nước ngoài gặp phải những thách thức gì?
Sau thời gian đi học ở nước ngoài, họ phải tìm cách thích nghi, và chứng tỏ với các đồng nghiệp ở đây rằng họ xứng đáng được tin tưởng. Họ còn phải tìm cách tiếp cận với những khoản kinh phí từ ngân sách dành cho nghiên cứu khoa học. Nhưng khoản ngân sách khiêm tốn này thường ưu tiên cho các nhà nghiên cứu lớp trước.
Do phần lớn các nhà khoa học trong các viện nghiên cứu, hay các trường đại học dành thời gian cho các hợp đồng tư vấn ngắn hạn, dạy ngoại ngữ tại các lớp buổi tối, nên họ ít có thời gian và động lực làm việc nhóm. Đồng lương thấp khiến họ mất nhiều thời gian kiếm sống, nên rất khó tổ chức làm việc nhóm, trong khi việc hoạt động đơn lẻ là điều tối kỵ trong nghiên cứu khoa học. Họ cần làm việc nhóm, chia ra các phần việc để cùng thực hiện, rồi trao đổi các ý tưởng với nhau trong khi thực hiện.
Họ có nói với ông rằng họ gặp khó khăn khi trao đổi quan điểm với thế hệ các nhà khoa học lớn tuổi? Ông có nghĩ rằng có ý thức phản kháng, hay tự vệ của các nhà khoa học đàn anh trước những thách thức của các tư tưởng và kiến thức mới của thế hệ trẻ?
Họ nói với tôi rằng có khó khăn trong việc nói thẳng những suy nghĩ, ý tưởng, và quan điểm của mình. Họ nói rằng ở Việt Nam tư tưởng Nho giáo vẫn còn nhiều ảnh hưởng, nên rất khó cho những người trẻ tuổi tranh luận thẳng thắn với thế hệ đàn anh.
Nhưng không ai nói với tôi về ý thức phản kháng hay tự vệ của các nhà khoa học đàn anh. Đa số cho biết sự khác biệt thế hệ dẫn đến sự khác biệt trong quan niệm “cái gì là quan trọng”. Họ có những phông kiến thức khác nhau do sự tiếp nhận những quá trình đào tạo khác nhau, và vì vậy họ có quan niệm khác nhau về công việc nghiên cứu khoa học.
Tại sao chủ đề nghiên cứu của ông là biến đổi khí hậu mà ông lại đi vào ngả rẽ về giới khoa học trẻ Việt Nam?
Thực ra, biến đổi khí hậu là một vấn đề cực lớn, mà để giải quyết thì cần nhiều yếu tố đóng góp. Trong đó có yếu tố các nhà khoa học. Vì vậy, phần nghiên cứu về các nhà khoa học trẻ sẽ chiếm khoảng 10 – 15% trong luận văn tiến sĩ của tôi.
Việt Nam đang dành một khoản ngân sách đáng kể để phát triển khoa học, trong đó có việc đào tạo các nhà khoa học trẻ để giúp ứng phó với biến đổi khí hậu. Vấn đề nằm ở chỗ đầu tư nhiều nguồn lực để đào tạo các nhà khoa học, nhưng vẫn chưa tìm ra giải pháp sử dụng những nhà khoa học. Khi các nhà khoa học không được đóng góp, không được cống hiến, tức là có sự lãng phí lớn cho cả họ lẫn đất nước.
Tôi nghe nói rằng phó thủ tướng kiêm bộ trưởng Giáo dục và đào tạo Nguyễn Thiện Nhân có kế hoạch rất tham vọng là đào tạo 20 ngàn tiến sĩ. Điều này là rất tốt, nhưng sẽ tốt hơn nếu ông ấy cũng có kế hoạch cụ thể để sử dụng hiệu quả những gì mà số lượng tiến sĩ này học được.
Có vẻ như với phát hiện của mình ông muốn đưa ra một thông điệp nhiều hơn là một bản nghiên cứu sâu?
Đúng thế. Nói rộng hơn, Chính phủ Việt Nam đã có những kế hoạch tham vọng sử dụng năng lực của khoa học để đạt được những mức độ cao hơn trong phát triển kinh tế và để giảm nghèo. Tuy nhiên, qua nghiên cứu tôi thấy việc chỉ tiếp tục đầu tư nguồn lực từ ngân sách quốc gia và tài trợ quốc tế vào khoa học chưa thể giúp đạt được những mục tiêu trên. Để có thể hưởng lợi từ tài năng của các nhà khoa học thế hệ mới, đòi hỏi phải cân nhắc kỹ lưỡng mối quan hệ giữa cấu trúc của cộng đồng khoa học với kinh tế và văn hoá ở Việt Nam. Lý tưởng nhất là điều này sẽ được thể hiện trong những chiến lược khuyến khích các nhà khoa học nhiều thế hệ cùng hợp tác nhằm đạt mục tiêu chung của quốc gia.
Huỳnh Phan (thực hiện)

Việt Nam học (2)


Ngày 08.12.2008, 07:45 (GMT+7)
Nhìn Việt Nam chuyển động với cái nhìn động
Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba được tổ chức từ ngày 5 – 7.12.2008 tại Hà Nội với quy mô hơn 300 học giả, đến từ 23 quốc gia và vùng lãnh thổ khác nhau. Tại đây, các nhà khoa học đã trình bày nhiều đề tài quan điểm khác nhau trong tinh thần cởi mở…
GS-TS Nguyễn Quang Ngọc, một thành viên ban tổ chức cho biết trong số khoảng 200 đại biểu quốc tế dự hội nghị lần này, đến hội thảo bằng đủ loại phương tiện. Xe đưa đón của ban tổ chức, gọi taxi, xe ôm, hay quá giang đồng nghiệp người Việt, có những người còn tự chạy xe máy…
Việt Nam, dưới nhiều góc nhìn
Người ta bàn đủ thứ: từ nét thanh lịch truyền thống của người Hà thành đến lối sống của những cô cậu mới lớn, với những tấm ảnh minh hoạ trên slide là những cô gái ăn mặc hở lưng, hay ngồi xổm hở cả nội y. Từ chuyện làng cổ Đường Lâm đến chuyện nông thôn Việt Nam trước làn sóng công nghiệp hoá và đô thị hoá. Từ chuyện hoàng thành xưa tới chuyện quy hoạch hỗn loạn của Hà Nội hiện nay. Từ việc làm sao thu hút được hiệu quả dòng vốn đầu tư từ bên ngoài đến chuyện làm sao cho các cô dâu xuất ngoại đỡ bất hạnh. Từ tương lai quan hệ Việt Nam – Trung Quốc với phương châm 16 chữ vàng đến vấn đề tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa – Trường Sa…
“Tôi dự hội thảo không phải chỉ để đọc tham luận, mà chủ yếu đến tìm thêm tư liệu. Có những thứ mình tìm mấy năm không ra, đến đây thế nào lại xin được ngay”, ông Hoành, nguyên giám đốc bảo tàng Hải Dương, nói. Các nhà Việt Nam học đến dự hội nghị phần nhiều cũng vì mục đích trao đổi, tranh luận để củng cố những lập luận của mình, và cập nhật những thông tin, tư liệu mới, hay chí ít cũng thông báo với các đồng nghiệp những gì trong thời gian vừa rồi họ đã làm được.
Ở hội nghị này, các nhà Việt Nam học trình bày các nghiên cứu, đánh giá về một Việt Nam đang chuyển động, mặc dù việc phát hiện, hay bổ sung thêm tư liệu về lịch sử, khảo cổ, hay văn hoá, vẫn được đề cập trong một số không ít các tham luận.
Vai trò của các học giả nước ngoài
PGS-TS Vũ Quang Hiển nhận xét: “Những học giả nước ngoài như Tsuboi, hay Asselin, có cách nhìn nhận rất khác biệt và tinh tế. Ngoài phương pháp tiếp cận mới và nguồn tư liệu đa dạng, họ không bị ràng buộc bởi hệ tư tưởng”.
Người được ông Hiển nhắc tới, PGS-TS Pierre Asselin, cũng gây tranh cãi mạnh với tham luận nhan đề “Bước đi thận trọng: Chiến lược cách mạng của Hà Nội, 1959 – 1962”, trong đó ông đánh giá về sự chậm trễ của nghị quyết 15 trong những mối quan hệ của Việt Nam với hai đồng minh của mình trong cuộc chiến này là Liên Xô và Trung Quốc trên cơ sở những lợi ích khác nhau. Liên Xô muốn Việt Nam yên tâm với việc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc, giống như Đông Đức, còn Trung Quốc thì khuyên nên trường kỳ mai phục, cũng như Bắc Triều Tiên. Về quan hệ phức tạp này, trong một lần hiếm hoi trả lời phỏng vấn truyền hình Nhật Bản NHK, cố thượng tướng Lê Ngọc Hiền, nguyên phó tổng tham mưu trưởng, đã tiết lộ: “Cuối năm 1974, phía Liên Xô và Trung Quốc có cử người sang Việt Nam, nhưng chúng tôi giữ kín hoàn toàn kế hoạch với họ.”
GS-TS Vũ Quang Hiển nhận xét: “Cách nêu vấn đề của họ thực sự thú vị, tạo ra một không khí tranh luận thực sự”. Khi được một nữ đồng nghiệp chủ nhà hỏi Việt Nam, như một cô dâu, nên chọn anh chồng nào giữa anh chàng Tàu gia trưởng, độc đoán ở sát cạnh, chàng Ivan tốt bụng nhưng nghèo, chú Sam giàu có, hào hoa, nhưng ở xa hơn, và phải chăng nên gật đầu với em họ chú Sam là Phù tang là hơn cả, GS Ramses Amer hỏi lại: “Tại sao Việt Nam cứ phải là cô dâu, mà không là chú rể nhỉ? Còn GS Carl Thayer, người thỉnh thoảng lại phải nhăn mặt vì cánh tay trái bị thương treo trên ngực đụng vào đâu đó, lại bật cười: “Thực tế là Việt Nam, trong nhiều thập kỷ qua, cứ lấy chồng rồi lại ly dị thì có nên tiếp tục đi bước nữa không?”.
GS-TS Vũ Minh Giang đúng là hoàn toàn có lý khi nhận xét rằng các nhà Việt Nam học nước ngoài đã thúc đẩy việc nghiên cứu Việt Nam ngay trên đất Việt Nam.
Huỳnh Phan – Xuân Thi
“Sự phát triển của Việt Nam học trong một thế kỷ qua là một thực tế sinh động chứng tỏ uy tín và ảnh hưởng của Việt Nam trên trường quốc tế không ngừng được nâng cao. Từ địa vị một nước thuộc địa không có tên chính thức trên bản đồ, ngày nay Việt Nam đã trở thành một ngành học được giảng dạy tại nhiều trường đại học lớn trên thế giới. Quá trình phát triển đó gắn liền với những bước phát triển của Việt Nam, với sự củng cố uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế”.
GS-TSKH Vũ Minh Giang
ĐH Quốc gia Hà Nội
“… Việt Nam thời cận đại nhờ có các nhân tố tác động bên ngoài, đã cắt đứt sợi dây ràng buộc với Trung Quốc thông qua văn ngôn chữ Hán. Bên cạnh đó, chính sách đưa chữ La tinh vào giảng dạy trong các trường học của Pháp vô hình trung đã giúp cải thiện hiệu quả của công cụ chữ Quốc ngữ nhờ đó nâng cao lực lượng bản địa hoá. Vì thế Việt Nam mới thoát khỏi khối cộng đồng Hán ngữ từ đầu thế kỷ 20 và đi theo con đường độc lập dân tộc…”.
Tưởng Vi Vănkhoa văn học ĐH Thành Công, Đài Loan
“Nhằm hiểu rõ Việt Nam như Việt Nam ngày nay, chúng ta cần phải xem xét việc đất nước này đã phát triển trên cơ sở của những tương tác phức hợp giữa các yếu tố vật chất và phi vật chất từ bên ngoài với các động lực bên trong. Nhằm vượt qua khuôn khổ của những quan sát đơn giản đối với các mối liên hệ qua lại và các sự tương tác thường dưới dạng đối đầu, tôi đã đề xuất bốn phạm trù định tính: cấy ghép văn hoá tích cực, hội nhập đa chiều, chuyển dịch năng động và thích ứng nhanh nhạy. Tôi tin chắc việc tiến hành các nghiên cứu theo đường hướng này sẽ mở ra những chiều cạnh mới cho ngành Việt Nam học, kết nối nó chặt chẽ hơn với những nghiên cứu về các nước khác trong khu vực Đông Nam Á với những nơi khác”.
GS-TS Vincent HoubenĐH Tổng hợp Humboldt

Việt Nam học (1)


Ngày 04.12.2008, 15:54 (GMT+7)
Hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba
Quảng bá hình ảnh về Việt Nam qua các nhà khoa học
Ngày 5.12 tới, hội thảo quốc tế Việt Nam học lần thứ ba sẽ diễn ra tại Hà Nội, kéo dài ba ngày. Đây là cuộc hội thảo Việt Nam học lớn nhất từ trước đến nay với 531 tham luận được trình bày (trong số 868 tham luận gởi tới), trong đó có 160 tham luận của các nhà nghiên cứu nước ngoài (trong số 174 gởi tới), ở 18 tiểu ban. SGTT đã có cuộc phỏng vấn riêng GS–TS Vũ Minh Giang, trưởng ban tổ chức hội thảo
Một trong những mong muốn của các nhà tổ chức hội thảo này là tăng cường hơn nữa sự hiểu biết của thế giới đối với Việt Nam, đồng thời quảng bá hình ảnh về Việt Nam thông qua cái nhìn và nghiên cứu của các nhà khoa học. Như vậy, thực ra đây chính là công tác ngoại giao, là công tác thông tin đối ngoại. Vậy tại sao chúng ta không gắn kết hoạt động nghiên cứu với các chương trình của các cơ quan chính phủ phụ trách lĩnh vực này cho thống nhất và hiệu quả hơn?
Ở đây có cả vấn đề của học thuật và vấn đề của chính trị. Hội thảo lấy học thuật làm nền tảng nên nhu cầu tự nhận thức Việt Nam được đặt lên hàng đầu. Những báo cáo trong hội thảo cho mình cái nhìn Việt Nam từ những góc độ khác nhau và chúng ta cần tiếp nhận. Còn thông tin đối ngoại thì chỉ nhằm quảng bá hình ảnh hay nói cách khác là để các nước bạn hiểu hay về mình.
Hai hoạt động này cũng có quan hệ chặt chẽ với nhau trong mục tiêu quảng bá hình ảnh đất nước. Tuy nhiên, các học giả nước ngoài họ muốn môi trường học thuật phải là đậm nét. Chứ nếu đây là hoạt động mang tính chất thông tin đối ngoại thì chưa chắc đã thu hút được nhiều học giả thế giới tham gia.
Nhưng rõ ràng nhờ có những hoạt động học thuật này mà công tác thông tin đối ngoại, hay ngoại giao được hưởng lợi, khi mà các chuyên gia, học giả tới nghiên cứu và mang những nghiên cứu đó về tiếp tục truyền bá ở đất nước họ. Vậy tại sao ngân sách nhà nước không đầu tư cho các học giả nước ngoài tới đây nghiên cứu về đất nước ta, rồi sau đó quảng bá cho ta?
Thực ra khía cạnh đó chúng tôi có nghĩ tới. Trong quá trình chuẩn bị chúng tôi đã báo cáo với nhiều cơ quan liên quan, nhưng để thành một chủ trương lớn thì chưa có. Chính vì thế hoạt động này nhiều năm nay vẫn giữ không khí của một hoạt động học thuật. Còn chuyện rất nhiều cơ quan khác có thể khai thác và hưởng lợi từ chuyện này thì cũng bình thường thôi.
Cho tới nay, sự liên thông liên kết giữa các cơ quan phụ trách các lĩnh vực khác nhau để phục vụ những nhiệm vụ chung chưa thật chặt chẽ. Đó là một hạn chế thực tế mà chúng ta cần nhìn nhận.
Đối với cộng đồng cư dân Việt Nam ở nước ngoài, các nhà quản lý Việt Nam có nhận thức được vai trò quan trọng của nghiên cứu Việt Nam học trong việc thu hút họ hướng về đất nước không?
Có. Ví dụ hiện nay trong một công trình nghiên cứu khoa học cấp nhà nước về nghiên cứu văn hoá và con người Việt Nam thì có hẳn một nhánh nghiên cứu về người Việt Nam ở nước ngoài, để có nhận thức đầy đủ hơn về các cộng đồng cư dân Việt ở hải ngoại. Đại học Quốc gia Hà Nội cũng đã soạn giáo trình về lịch sử, văn hoá Việt Nam, và cả tiếng Việt cho bên ngoài, cũng như cử chuyên gia sang các nước giảng dạy.
Sự tham gia của các nhà nghiên cứu nước ngoài trong sự kiện này, ngoài ý nghĩa tăng cường hiểu biết của nước ngoài về Việt Nam, có những đóng góp nhiều về mặt học thuật không, thưa ông?
Cách đây khoảng vài chục năm, ta quan niệm về Việt Nam thì người Việt Nam là giỏi nhất và hầu như không quan tâm tới các kết quả nghiên cứu nước ngoài về người Việt Nam. Nhưng dần dần do hội nhập và đọc sách, xem bài vở của họ, chúng ta đã nhận thấy rằng quan niệm như vậy là thiển cận. Ví dụ trong lĩnh vực lịch sử, một vị giáo sư Nhật Bản đã có một bài nghiên cứu về việc bản dịch văn bia Vĩnh Lăng có nhầm lẫn một chữ mà tất cả các nhà sử học Việt Nam đã không phát hiện ra.
Nhưng quan trọng hơn là chúng ta tiếp nhận được về phương pháp. Phương pháp nghiên cứu theo khu vực là chúng ta tiếp nhận của các học giả nước ngoài, chứ trước đó chúng ta vẫn theo chuyên ngành. Lịch sử Việt Nam trình bày lịch sử, văn học Việt Nam trình bày văn học… Nhưng nhìn các khu vực khác nhau của Việt Nam như một chỉnh thể để nghiên cứu thì đó là cách nhìn của học giả nước ngoài đưa vào. Và tác động mạnh nhất là họ chính là nhân mối, tạo nên mạng lưới nghiên cứu Việt Nam học quốc tế. Thậm chí, có thể nói các nhà khoa học nước ngoài đã tác động thúc đẩy nghiên cứu Việt Nam học ngay tại Việt Nam.
Huỳnh Phan – Xuân Thi (thực hiện)

Nỗi sợ hãi, sự khuyếch đại và những cuộc chiến

Sau sự kiện 11.9.2001, khi chính quyền Bush nói rằng Mỹ phải tấn công Afganistan, mọi người dân đều đồng ý. Và khi chính quyền Bush nói Mỹ phải xâm lược Iraq, 76% dân Mỹ ủng hộ. Lúc đó, người Mỹ đã không tư duy bằng cái đầu, mà bằng trái tim.

LTS: Bên lề Hội nghị Quốc tế Việt Nam học lần thứ 3, tổ chức tại Hà Nội đầu tháng 12.2008, phóng viên Huỳnh Phan đã có cuộc trao đổi với Phó Giáo sư sử học người Canada Pierre Asseline của Viện Đại học Hawaii (Mỹ) về một số vấn đề, trong đó có cuộc chiến của Mỹ ở Iraq.
Khác với niềm tin phổ biến rằng động cơ chủ yếu của Mỹ khi phát động cuộc chiến này chủ yếu là vì dầu mỏ, PGS Asseline lại nghĩ rằng quyết định của Tổng thống George Bush được đưa ra do tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Trong đó, theo vị sử gia này, yếu tố quan trọng nhất chính là ông Bush đã thật sự tin rằng Iraq là một mối hiểm hoạ đối với an ninh quốc gia của Mỹ, chừng nào Saddam Hussein vẫn còn nắm giữ quyền lực.
Theo PGS Asseline, những thông tin bị tiết lộ sau đó cho thấy quyết định của Tổng thống Bush đã bị tác động bởi những thông tin sai lệch nghiêm trọng.
PGS Asseline còn nhận định rằng hệ tư tưởng cũng là một động cơ quan trọng của cuộc chiến này. Các nhà hoạch định chính sách của Mỹ, đứng đầu là Tổng thống Bush, đã tin rằng cuộc xâm lược Iraq là một hành động phải làm, nhằm hướng tới các mục tiêu sau đây: sự đón chào của người dân Iraq; tiến tới việc thể chế hoá nền dân chủ ở quốc gia này; và tạo dựng quá trình dân chủ hoá chính trị trong dài hạn đối với phần còn lại của Trung Đông.
Mục tiêu thứ nhất rõ ràng đã thất bại. Sự thành công của mục tiêu thứ hai dường như còn gây tranh cãi. Nhưng, rõ ràng, mục tiêu thứ ba của Mỹ đã có những kết quả không cần bàn cãi, sau những biến động chính trị từ đầu năm nay ở một số nước Trung Đông và Bắc Phi.
Nhân kỷ niệm 10 năm ngày xảy ra sự kiện 11.9, Mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin giới thiệu cuộc trao đổi giữa phóng viên Huỳnh Phan và PGS Pierre Asseline.
Nỗi hoảng sợ hậu 11.9 và cuộc chiến Iraq
Khi cuộc chiến ở Iraq nổ ra, mọi người hay nhắc tới "bài học Việt Nam". Theo ông, điểm tương đồng lớn nhất giữa cuộc Chiến tranh Việt Nam và cuộc Chiến tranh Iraq là gì?
PGS Pierre Asseline: Nếu chúng ta cùng quay lại xuất xứ của hai cuộc chiến này, chúng ta sẽ thấy rõ sự tương đồng lớn nhất: Đó là nỗi sợ hãi của chính quyền Washington, và chính nỗi sợ hãi đó là nguyên nhân chính dẫn tới quyết định đưa quân đội sang Việt Nam và Iraq.
Sau sự kiện 11.9, ở Hoa Kỳ ai cũng lo sợ chủ nghĩa khủng bố, và chính quyền Bush đã khuyếch đại nỗi sợ hãi của người dân thành nguy cơ lớn đối với an ninh quốc gia của nước Mỹ từ Saddam Hussein.
Cũng tương tự như vậy đối với trường hợp Việt Nam trong giai đoạn 1964-1965. Do cuộc khủng hoảng Vịnh Con Lợn năm 1962, khi Liên Xô đưa tên lửa mang đầu đạn hạt nhân tới đây, và dường như Washington và Moscow đã tiến gần tới một cuộc chiến tranh hạt nhân. Cả nước Mỹ lúc đó ai cũng lo sợ về một cuộc tấn công của những người cộng sản.
Sau sự kiện Vịnh Con Lợn, có một số vấn đề nổi lên ở miền Nam Việt Nam, chính quyền Washington đã khuyếch đại mối lo cộng sản nói chung của người dân Mỹ thành sự đe doạ từ những người cộng sản ở Việt Nam.
Nỗi lo sợ, và cả vấn đề hệ tư tưởng, đã dẫn nước Mỹ tới sự lựa chọn phát động cuộc chiến
Trong cuốn hồi ký của mình ông Mcnamara nói đó là một sai lầm của nhà cầm quyền Mỹ. Và nhiều người cho rằng kết luận đó không hề thoả đáng, bởi, sau sự mất mát to lớn của cả hai phía, và những hậu quả mà cho đến giừo không chỉ Việt Nam phải gánh chịu, nói như vậy quá dễ dàng. Ông có nghĩ như vậy không?
Tôi lại nghĩ thế này: Đúng, bây giờ ở thời điểm cuối năm 2008, tôi cũng có thể dễ dàng nói đó là một sai lầm. Nhưng ở thời điểm năm 1964, điều đó không hề đơn giản.
Hãy hình dung trạng thái cảm xúc của cả một xã hội Mỹ, sau sự kiện Vịnh Con Lợn. Họ không biết tương lai họ sẽ ra sao. Họ sợ chủ nghĩa cộng sản. Vào thời điểm 1964-1965, hầu hết người Mỹ ủng hộ việc Mỹ đưa quân sang Việt Nam.
Phó Giáo sư sử học Pierre Asseline
Và đối với Iraq cũng tương tự như vậy. Tôi đã tận mắt chứng kiến nước Mỹ sợ hãi như thế nào sau sự kiện 11.9.2001. Họ sợ lại tiếp tục bị bọn khủng bố tấn công.
Kết quả là khi chính quyền Bush nói rằng Mỹ phải tấn công Afganistan, mọi người đều đồng ý. Và khi chính quyền Bush nói Mỹ phải xâm lược Iraq, 76% dân Mỹ ủng hộ.
Có thể nói rằng, lúc đó, người Mỹ đã không tư duy bằng cái đầu, mà bằng trái tim. Họ muốn quân đội Mỹ phải đập tan chủ nghĩa khủng bố.
Đến bây giờ tôi mới hiểu tại sao những hãng như CNN, khi đưa tin lại tỏ ra không khách quan về cuộc chiến, tức là đưa tin một chiều. Ông có đồng ý không?
Nếu để ý anh sẽ thấy sau sự kiện 11.9, mỗi phóng viên đều ra chiến trường đưa tin với một lá quốc kỳ gắn trên ngực áo. Ngay cả giới báo chí cũng bị mất tính khách quan cần thiết của mình.
Sau sự kiện 11.9, họ ra chiến trường, đến Afganistan, hay Iraq, cùng với quân đội Mỹ. Nói một cách khác là họ hoà mình vào với những người lính. Hãy nói cho tôi biết nếu anh đi cùng quân đội Mỹ, được họ bảo vệ mạng sống, liệu anh còn giữ được tính khách quan hay không? Khó, đúng không?
Bây giờ, ai cũng đổ tội cho Tổng Thống Bush, nói rằng quyết định tấn công Iraq là một sai lầm, thậm chí là một quyết định ngu xuẩn. Nhưng vào năm 2003, nước Mỹ đã có cơ hội phản đối quyết định của chính quyền Bush, nhưng chỉ có rất ít người lên tiếng. Hầu hết đều chọn cách im lặng.
Lúc đó, có thể họ không thích chiến tranh, nhưng họ sợ mọi người chỉ trích là họ không yêu nước.
Đó là lý do mà Bush đã phản công John Kerry một cách thành công trong lần tái tranh cử năm 2004, khi chỉ trích John Kerry là người "tiền hậu bất nhất"?
Đúng vậy. Và Hilary Clinton cũng không khác gì, lúc đầu ủng hộ, sau đó mới phản đối. Chỉ có Barrack Obama là phản đối ngay từ đầu, và giữ nguyên quan điểm của mình từ đầu đến cuối.
Ông dự đoán thế nào về chính sách đối ngoại của Mỹ dưới thời Tân Tổng thống Barrack Obama?
Tôi không cho rằng ông Obama sẽ làm một cuộc cách mạng đối với chính sách đối ngoại của Mỹ dưới bất cứ hình thức nào. Có những truyền thống và nguyên tắc đã hằn sâu trong quá trình hoạch định chính sách đối ngoại, và chắc hẳn ông Obama không dám thách thức chúng. Chí ít là vào những năm đầu tiên trong nhiệm kỳ của mình.
Là một người trẻ và ít kinh nghiệm, ông Obama có cách lựa chọn tốt nhất là hành động một cách cứng rắn trên trường quốc tế, tức là tiếp tục theo đuổi chính sách đối ngoại của người tiền nhiệm. Mặc dù, có thể có đôi chút điều chỉnh.
Tôi tin ông ta sẽ tiếp tục tiến hành cuộc chiến chống khủng bố, duy trì sự ủng hộ của Mỹ đối với Israel và tránh chỉ trích quốc gia này, cũng như duy trì sự hiện diện quân sự mạnh mẽ tại Iraq. Bởi nếu ông ta nhanh chóng rút quân khỏi Iraq, ông ta sẽ chịu sự chỉ trích của Đảng Cộng hoà. Nhất là cuộc khủng hoảng kinh tế sẽ là một thách thức lớn đối với chính quyền của ông.
Lịch sử hấp dẫn vì không có đáp án chính xác 100%
Ông đánh giá thế nào về giới nghiên cứu lịch sử Việt Nam?
Tôi nghĩ rằng các nhà nghiên cứu lịch sử Việt Nam đang phải đối mặt với hàng loạt vấn đề, bởi vì trong suốt một thời kỳ dài trong quá khứ, nghiên cứu lịch sử ở Việt Nam chủ yếu để phục vụ cho mục đích chính trị. Vì lý do đó, khá nhiều nhà sử học khó thoát khỏi lối tư duy như vậy.
Nhiều nhà nghiên cứu trẻ muốn có cách nhìn mới mẻ về các sự kiện lịch sử, nhưng họ vẫn phải nghĩ đến chỗ làm của họ, nghĩ đến tương lai của họ, và rất khó để họ có thể đi ngược lại truyền thống.
Hơn nữa, bản thân lịch sử là một môn khoa học rất bảo thủ. Thậm chí ở Mỹ cũng vậy.
Điều này có vẻ mới mẻ đây. Xin ông nói cụ thể hơn.
Chẳng hạn, trong một thời gian rất dài các sử gia Mỹ đều nói nhiều về sự vĩ đại của nước Mỹ. Chỉ có gần đây, có một số nhà nghiên cứu trẻ mới có cách nhìn mang tính phê phán đối với nước Mỹ.
Lý do?
Tôi nghĩ cuộc chiến tranh ở Việt Nam thực sự đã tạo ra một bước ngoặt trong tư duy nghiên cứu lịch sử. Cho đến cuối những năm '60, thậm chí đầu '70, các sử gia đều cho rằng nước Mỹ là một trường hợp cá biệt.
Chẳng hạn, họ cho rằng Philippines, tuy là thuộc địa của Mỹ, nhưng nước Mỹ đối xử với người Philippines khác hẳn với cách người Pháp cư xử với người dân Đông Dương, hay người Anh ở Ấn Độ. Tức là tử tế hơn nhiều.
Do có cuộc chiến tranh ở Việt Nam, nhiều học giả Mỹ bắt đầu nhìn lịch sử đất nước mình kỹ càng hơn, và họ "soi" nhiều hơn. Và chính vì vậy, hiện giờ quan điểm của giới sử gia ở Mỹ trở nên cân bằng hơn.
Những nhà nghiên cứu truyền thống vẫn cho rằng chính sách đối ngoại của Mỹ được dẫn dắt bới những ý định tốt. Thế còn những người theo trường phái "xét lại" thì cho rằng chính sách đối ngoại của Mỹ dựa trên những lợi ích quốc gia ích kỷ, hẹp hòi, rất có thể là những lợi ích kinh tế.
Do nước Mỹ cũng phải mất rất nhiều thời gian để có sự cân bằng này, tôi không tin rằng Việt Nam còn phải đi một đoạn đường rất dài nữa để đạt được sự cân bằng. Mặc dù, các bạn đã bắt đầu bước trên con đường này.
Ông thấy có sự khác biệt nào giữa những cuộc tranh luận tại hội nghị và những cuộc tiếp xúc với sinh viên khoa sử của Đại học Xã hội Nhân văn?
Tại cuộc hội thảo, sau khi tôi trình bày, một số học giả đã nói rằng đây là một cách nhìn mới mẻ, nhưng họ vẫn nghi ngờ tính xác thực của nó. Còn sinh viên đã đặt luôn những câu hỏi cụ thể cho tôi, và tôi cảm nhận rằng họ có thái độ cởi mở hơn với những ý tưởng mới, và mong muốn tìm những cách lý giải mới đối với các sự kiện lịch sử.
Tuy nhiên, tôi vẫn phải công nhận rằng vẫn có những sử gia thuộc thế hệ già thực sự mong muốn tìm cách tiếp cận mới, nếu không nói là muốn đặt nền móng cho một tư duy nghiên cứu lịch sử mới. Giáo sư sử học Vũ Minh Giang là một trong những người như vậy.
Trước khi đến dự hội nghị này, ông có chờ đợi sự phản biện mạnh mẽ của các nhà sử học Việt Nam không?
Đó cũng là một cơ hội tốt cho tôi. Ở Mỹ khi tôi trình bày, nhiều đồng nghiệp chỉ nói đại loại như "đó là một ý tưởng tốt", hay "cách tiếp cận mới này hay"... Nhưng họ chẳng giải thích tại sao. Thực sự họ chẳng mấy quan tâm, vì nhiều người trong số họ đã không tìm hiểu các tư liệu từ phía Hà Nội, khi họ nghiên cứu về cuộc chiến tranh ở Việt Nam. Nhưng ở Hà Nội, khi mọi người không đồng ý, họ luôn giải thích tại sao. Chính điều đó giúp cho nghiêm cứu của tôi toàn diện hơn, khách quan hơn.
Và tiến gần hơn đến sự thật?
Đúng vậy. Tôi phải đọc ký lại tài liệu này, nghị quyết kia. Chính vì vậy, khi trình bày, đối khi tôi cố gắng nói theo cái cách gây tranh cãi nhiều hơn, và quả thực tôi đã nhận được những phản biện mà tôi mong đợi.
Tôi luôn tìm cách đưa ra luận điểm của mình trong mọi cơ hội có thể, để nhận những phản hồi của các học giả Việt Nam, nhất là những người hiểu rõ chủ đề tôi đang nói. Nghiên cứu lịch sử nghiêm túc là như vậy đấy.
"A cowboy work is never done", ông còn nhớ câu đó trong bài "Rain" chứ? Dường như công việc của nhà sử học cũng như vậy?
Chính xác. Tôi luôn nghĩ rằng cho dù có nghiên cứu cả đời, cũng chẳng bao giờ chúng ta tìm ra sự thật 100% cả. Chúng ta chỉ tiến ngày càng gần tới sự thật mà thôi, với những phân tích và dẫn chứng có vẻ hợp lý cho luận điểm mà chúng ta đưa ra thôi. Và đó là tất cả.
Chẳng hạn, quay lại cuộc chiến Iraq, các sử gia sẽ tiếp tục tranh luận nhiều năm nữa, thậm chí hàng thập kỷ, về những động cơ "thực sự" trong quyết định của Tổng thống Bush.
Đó cũng là lý do tại sao tôi thích lịch sử. Đó là loại câu hỏi mà chẳng bao giờ anh tìm ra câu trả lời chính xác 100% cả. Và chính loại câu hỏi này mới hấp dẫn, và khiến người ta luôn tò mò tìm hiểu.
Anh hiểu không, nghề nhà báo của anh cũng giống nghề sử gia của tôi, tức là cũng giống anh cowboy mà thôi. Cái giống nhau giữa tôi và anh là đều phải khách quan. Để có thể viết đúng sự thật nhất, chúng ta không được để cảm xúc xen vào bài viết của mình.
Thế còn cái khác nhau?
Cái khác là anh tìm hiểu hiện tại, còn tôi nghiên cứu quá khứ. À, còn nữa, phát hiện quan trọng nhất trong bài báo anh sẽ để lên đầu, còn tôi lại phải để xuống cuối cùng.
Xin cám ơn ông.