Hiển thị các bài đăng có nhãn Đông Bắc Á. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn Đông Bắc Á. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và ba tỉnh Trung Quốc


Ngày 28.04.2010, 10:48 (GMT+7)
Thủ tướng Việt Nam công du Trung Quốc
Thúc đẩy thương mại giữa Việt Nam và ba tỉnh Trung Quốc
SGTT - Thoả thuận đầu tư xây dựng nhà máy phát điện từ rác thải tại Việt Nam, trị giá 150 triệu USD, được coi là văn bản hợp tác quan trọng nhất được ký kết tại Nam Kinh ngày hôm qua, 27.4.2010, giữa Việt Nam và tỉnh Giang Tô (Trung Quốc), trước sự chứng kiến của Thủ tướng Việt Nam.
Trước đó một ngày, người đứng đầu Chính phủ Việt Nam đã bắt đầu chuyến thăm Trung Quốc, theo lời mời của lãnh đạo ba tỉnh Giang Tô, Chiết Giang và Thượng Hải, nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại đầu tư giữa Việt Nam và các tỉnh này.
Kim ngạch thương mại hai chiều giữa Việt Nam và Trung Quốc đã phát triển nhanh, tăng gấp đôi chỉ sau ba năm, với 21,3 tỉ USD năm 2009, chủ yếu nhờ nhập khẩu từ quốc gia Đông Bắc Á này (nhập siêu năm 2009 đạt 11,5 tỉ USD so với tổng nhập siêu là 12 tỉ USD).
Tại diễn đàn doanh nghiệp tại Nam Kinh, ông Dũng kêu gọi các doanh nghiệp tích cực sang Việt Nam đầu tư kinh doanh, và hứa sẽ tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất cho họ. Năm 2009, thương mại giữa Việt Nam và Giang Tô, tỉnh có số dân gần bằng dân số Việt Nam, đạt khoảng 2,2 tỉ USD. Tính đến cuối năm 2009, tổng vốn đầu tư từ Giang Tô vào Việt Nam đạt 74 triệu USD, cao hơn 14 triệu USD so với đầu tư từ Việt Nam sang tỉnh này.
Điểm nhấn quan trọng nhất trong chuyến đi kéo dài một tuần của ông Dũng là Thượng Hải, nơi ông sẽ tham dự lễ khai mạc hội chợ quốc tế Thượng Hải – một hội chợ có lịch sử hơn thế kỷ rưỡi và kéo dài sáu tháng trời. Tại đây, theo dự kiến, ông Dũng sẽ có cuộc gặp với người đồng cấp Ôn Gia Bảo, và hội kiến với Chủ tịch Trung Quốc Hồ Cẩm Đào. Năm 2010 là năm hai nước kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao.
HUỲNH PHAN

Điện hạt nhân và ODA trong quan hệ đối tác chiến lược


Ngày 05.03.2010, 14:25 (GMT+7)
Điện hạt nhân và ODA trong quan hệ đối tác chiến lược
SGTT - Thông tin trên truyền thông Nhật Bản về việc Thủ tướng Hatoyama Yukio gửi thư riêng cho Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng, để hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhật Bản giành được hợp đồng xây dựng một nhà máy điện hạt nhân tại Việt Nam, đã được đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam Sakaba Misuo xác nhận trong cuộc họp báo chiều 3.3 tại Hà Nội.
Ngày 16.9.2009, tại Hà Nội, bộ Công thương Việt Nam phối hợp với bộ Kinh tế thương mại và công nghiệp Nhật Bản tổ chức hội thảo về hợp tác Việt Nam – Nhật Bản trong lĩnh vực điện hạt nhân. Ảnh: Hoàng Đình Nam
Ông Sakaba đã từ chối tiết lộ nội dung lá thư, trước thời điểm nó được chuyển đến tận tay người nhận. Tuy nhiên, một nguồn tin được nhật báo Yomiuri trích dẫn, cho hay Thủ tướng Hatoyama đã đề nghị Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sớm cho mở các cuộc đàm phán song phương bàn về việc chuyển giao công nghệ điện hạt nhân, để doanh nghiệp tư nhân của Nhật Bản có cơ hội tham gia.
Cuối tháng 11.2009, Quốc hội Việt Nam đã thông qua nghị quyết xây dựng hai nhà máy điện hạt nhân, mỗi cái có công suất 2.000 MW, tại Ninh Thuận. Trong cuộc hội thảo về điện hạt nhân tổ chức tại Hà Nội trước đó hơn hai tháng, vụ trưởng vụ Năng lượng (bộ Công thương) Tạ Văn Hường cho biết có đến 90% Nhật Bản được lựa chọn bởi sự phù hợp về công nghệ (loại lò nước nhẹ cải tiến) với phương án bộ này trình Chính phủ để đưa ra Quốc hội thông qua. Đó là chưa kể tới những ưu thế về an toàn, và nhất là khả năng tài chính (thông qua viện trợ ODA) – những ưu tiên lựa chọn của Chính phủ Việt Nam.
Thế nhưng, qua “bức thư tay” chuyển cho người đồng cấp Việt Nam, người ta nhận thấy ông Hatoyama chưa an tâm. Báo Yomiuri đã đưa ra hai lý do.
Thứ nhất, dường như quyền tham gia xây dựng một nhà máy điện hạt nhân đã được bất ngờ trao vào tay người Nga, chỉ ba tuần sau quyết định của Quốc hội Việt Nam, trong chuyến thăm của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang thăm cường quốc này. Đổi lại cho việc người Nga chấp thuận những điều kiện thanh toán ưu đãi cho phía Việt Nam, như giá cả, trả chậm và trả bằng hàng, cho hợp đồng mua bán vũ khí khổng lồ, có thông tin nói lên tới 8,3 tỉ USD. Nhật Bản buộc phải cạnh tranh với các quốc gia khác như Pháp, quốc gia cũng đang có một kế hoạch hợp tác quốc phòng với Việt Nam, và có thể cả Hàn Quốc, để giành quyền xây dựng nhà máy còn lại.
Thứ hai, năm ngoái một tổ hợp doanh nghiệp Nhật Bản và Mỹ đã chịu thất bại trước một tổ hợp đến từ chính quốc gia “hậu sinh khả uý” Hàn Quốc tại một cuộc đấu thầu xây dựng một nhà máy điện hạt nhân ở Các tiểu vương quốc Arập thống nhất. Đích thân Tổng thống Lee Myung-bak đã đứng ra vận động cho tổ hợp này giành được hợp đồng.
“Thủ tướng Hatoyama biết rằng có một số nước quan tâm đến các dự án nhà máy điện hạt nhân ở Việt Nam, và cuộc cạnh tranh sẽ rất khốc liệt. Ý thức về việc này, Thủ tướng Nhật Bản, về phần mình, đã bày tỏ sự quan tâm mạnh mẽ của ông đối với việc tham gia của các doanh nghiệp Nhật Bản”, đại sứ Sakaba nói. Ông cũng nhấn mạnh rằng Chính phủ Nhật Bản đã và đang hợp tác với phía Việt Nam từ hơn mười năm qua trong lĩnh vực đào tạo nguồn nhân lực và hình thành khung pháp lý cho việc sản xuất điện hạt nhân ở Việt Nam, và không vì bất cứ lẽ gì mà dừng lại ở đó.
Trước đó, vào cuối tháng 1.2010, trong cuộc hội đàm với phó Thủ tướng kiêm ngoại trưởng Phạm Gia Khiêm, ngoại trưởng Nhật Bản Okada Katsuya đã hối thúc phía Việt Nam “nhanh chóng tham gia vào các hiệp ước quốc tế liên quan đến chống phổ biến hạt nhân, an toàn và an ninh hạt nhân, vì lợi ích của việc hoàn tất một hiệp định hợp tác hạt nhân song phương. Được biết, đó chính là điều kiện để việc chuyển giao công nghệ sản xuất điện hạt nhân của Nhật Bản cho Việt Nam được Mỹ bật đèn xanh.
“Chúng ta đã thỏa thuận thúc đẩy quan hệ đối tác chiến lược. Trong trường hợp này, chúng ta cần phải nhận thức rằng hợp tác về năng lượng hạt nhân phải là lĩnh vực hợp tác chủ chốt. Đó chính là lý do tại sao thủ tướng Nhật Bản muốn gửi thông điệp như vậy tới thủ tướng Việt Nam”, đại sứ Sakaba nhấn mạnh.

Về phần mình, trong quan hệ đối tác chiến lược, Việt Nam mong muốn nhận được cam kết, từ phía Nhật Bản, tiếp tục cung cấp ODA cho việc phát triển hạ tầng, nhất là với những dự án trọng điểm đòi hỏi những khoản vốn khổng lồ như đường sắt và đường bộ cao tốc Bắc – Nam, hay khu công nghệ cao Hoà Lạc. Vì vậy, tuy nhà ngoại giao Nhật Bản này phủ nhận rằng bức thư tay này chuyển tải một sức ép nào đó, cho dù có tích cực, từ phía Nhật Bản, nhưng sự trùng lặp về thời gian của các sự kiện đáng để người ta suy ngẫm.
Ngày 27.2, tại Kochi, Thủ tướng Nhật tiết lộ với báo giới về lá thư tay gửi Thủ tướng Việt Nam. Hai ngày sau, tại Hà Nội, diễn ra lễ ký công hàm trao đổi về việc Nhật Bản cấp cho Việt Nam gần 26 tỉ yen vốn vay, nâng tổng số cam kết ODA của Nhật Bản trong năm tài khoá 2009 lên 1,67 tỉ USD. Và, sau đó một ngày, cũng tại Hà Nội, đại sứ Nhật Bản tổ chức họp báo về kế hoạch ODA của Nhật dành cho Việt Nam.
“Hiện nay, tôi chưa thể nói gì về kế hoạch ODA dành cho Việt Nam trong năm 2010, bởi năm tài khoá mới chỉ bắt đầu vào 1.4. Nhưng, căn cứ vào những gì mà Thủ tướng Nhật Bản hứa với Thủ tướng Việt Nam năm ngoái, và phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đầu năm này, tôi có lý do để tin rằng Nhật Bản sẽ tiếp tục dành cho Việt Nam ODA ở quy mô lớn”, đại sứ Sakaba dự báo.
Giải thích về mức lãi suất của các dự án ODA vừa ký, đại sứ Sakaba cho biết thêm rằng những dự án có sự mua sắm công nghệ Nhật Bản sẽ được hưởng lãi suất rất ưu đãi (dưới 1%/năm), còn nếu liên quan đến cải tạo môi trường còn thấp hơn nữa (thậm chí chỉ 0,2%/năm). Được biết, dự án sản xuất điện hạt nhân được coi là biện pháp chống biến đổi khí hậu.
Huỳnh Phan

Đồng ý cho bên ngoài tham gia dự án Biển Đông


Ngày 06.11.2009, 07:28 (GMT+7)
Hội nghị COBSEA 20
Đồng ý cho bên ngoài tham gia dự án Biển Đông
Khắc phục sự cố tràn dầu tại vịnh Việt Thanh, xã Bình Hải, huyện Bình Sơn, Quảng Ngãi. Ảnh: TL
SGTT - Hội nghị liên chính phủ lần thứ 20 của Tổ chức điều phối các quốc gia biển Đông Á (COBSEA), bắt đầu từ 2.11, đã kết thúc đêm 4.11. 10 thành viên của COBSEA bao gồm bảy nước thành viên của ASEAN (trừ Lào, Myanmar và Brunei), Trung Quốc, Úc và Hàn Quốc. Bên cạnh nước chủ nhà Việt Nam, Trung Quốc là đoàn có số lượng tham gia đông nhất với chín thành viên, trong khi mỗi đoàn chỉ có hai thành viên được mời chính thức.
Hội nghị đã thông qua báo cáo hiện trạng môi trường biển Đông Á, một báo cáo đầu tiên về đề tài này. Hội nghị cũng ghi nhận ý muốn tham gia COBSEA của Nhật Bản và Brunei, và giao ban thư ký tiến hành thủ tục thông thường, trước khi báo cáo lên chủ tịch COBSEA trong hai năm tới là Việt Nam. Một số dự án về môi trường biển được đưa ra bàn thảo với sự cam kết hỗ trợ của các tổ chức quốc tế.
Bức tranh ảm đạm về các hệ sinh thái biển
Theo báo cáo hiện trạng môi trường biển Đông Á, được COBSEA chuẩn bị trong ba năm ròng, các hệ sinh thái biển ở khu vực này đang ở nguy cơ báo động, với 90% nằm trong tình trạng rủi ro, và 40 – 50% ở tình trạng rủi ro cao. Cũng theo báo cáo, đối với nguyên nhân của ô nhiễm, ngoài sự cố tràn dầu, khu vực này chịu tác động nhiều của rác thải biển do khách du lịch và thuỷ thủ vứt, đổ xuống biển.
Một điều đáng lo ngại khác là sự xâm hại của các sinh vật lạ. Các tác giả báo cáo cho rằng có ba nguyên nhân gây nên tình trạng trên. Thứ nhất là do việc nuôi trồng thuỷ sản ven bờ không được quản lý đã gây ra những loài lạ, thứ hai là sự giao lưu hàng hải đã đưa vi khuẩn từ vùng nước này qua vùng nước khác qua nước thải rửa tàu, và sinh vật lạ có thể xâm nhập ngay tại cảng biển.
Để giải quyết những vấn nạn đó, hội nghị cũng khuyến nghị các quốc gia thành viên phải lồng ghép các kế hoạch hành động về ô nhiễm biển và lục địa với các dự án liên quan đến rác thải. Các đại diện của các tổ chức quốc tế như Chương trình Môi trường Liên hiệp quốc (UNEP), hay quỹ Môi trường toàn cầu (GEF) đã hứa trong hội nghị sẽ hỗ trợ phát hiện và ngăn ngừa các sinh vật lạ gây hại thông qua các dự án cụ thể.
Sự tham gia của bên ngoài vào dự án Biển Đông
Trong số các dự án đáng chú ý được nêu ra trong hội nghị là dự án chống suy thoái Biển Đông (giai đoạn 2). Trong giai đoạn 1, với tổng tài trợ hơn 20 triệu USD của UNEP và các tổ chức quốc tế khác, đã có sự tham gia của bảy quốc gia liên quan, đã kết thúc với kết quả cao nhất là một kế hoạch hành động chiến lược được thông qua. Lần này UNEP và GEF đã cam kết sẽ tài trợ khoảng 15 triệu USD để các nước thực hiện kế hoạch hành động chiến lược này trong vài năm tới.
Các thành viên ngoài Biển Đông của COBSEA, bao gồm Úc, Hàn Quốc và Singapore, đã thể hiện mong muốn được tham gia, với tư cách quan sát viên, và họ đã nhận được sự ủng hộ của tất cả các nước ASEAN còn lại trong COBSEA. Quan điểm của các quốc gia này là dự án này nằm trong khuôn khổ COBSEA, nên từ kinh nghiệm của Biển Đông có thể nhân rộng ra để các khu vực khác ở Đông Á có thể học tập, chia sẻ. Ngược lại, các nước ASEAN trong COBSEA cũng muốn tranh thủ sức mạnh, đặc biệt là tài chính, của ba quốc gia này để việc cùng nghiên cứu, khảo sát có hiệu quả hơn.
Đoàn Trung Quốc, mặc dù không có ý kiến gì trong khi thảo luận, đã dứt khoát không chấp nhận thông qua điều khoản này trong nghị quyết hội nghị, khiến cho chủ toạ hội nghị phải đợi đến 10g15 đêm 4.11 mới có thể bế mạc hội nghị, thay vì vào 5g30 chiều như dự kiến. Họ lý luận, ba nước trên không liên quan gì đến Biển Đông.
Chủ toạ hội nghị, PGS-TS Nguyễn Chu Hồi, cho biết rằng sau đó phía Trung Quốc đề nghị ghi trong nghị quyết là “một số thành viên COBSEA đã đồng ý” với việc này, nhưng các thành viên còn lại không chấp nhận, và nói rằng “9 thì phải ghi là 9, chứ không thể ghi là một số được”. Ông Hồi kể: “Tôi phải nói với đoàn Trung Quốc rằng nếu muốn duy trì sự hoạt động của hiệu quả của COBSEA, rất cần có sự hỗ trợ của các tổ chức quốc tế. Và trước khi họ quyết định điều này, chúng ta phải chứng tỏ với họ là chúng ta có năng lực điều hành và đoàn kết”.
Cuối cùng, điều khoản đó của nghị quyết đã được thông qua với câu: “Hội nghị chào đón sự tham gia của Hàn Quốc, Australia và Singapore với tư cách quan sát viên”. Ông Hồi nói: “Nhiều đại biểu hỏi tôi có mỗi câu đơn giản như thế mà Trung Quốc lại quyết định khó khăn như vậy. Tôi chỉ nhún vai, vì tôi hiểu cái khó của họ, khi không muốn bên ngoài can dự vào việc nghiên cứu, quản lý Biển Đông”.
Huỳnh Phan

Ưu tiên chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam


Ngày 23.10.2009, 10:50 (GMT+7)
Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung bak
Ưu tiên chia sẻ kinh nghiệm với Việt Nam
SGTT - “Tôi muốn các vị tin rằng Hàn Quốc luôn chân tình và muốn đồng hành cùng với quá trình phát triển của Việt Nam”, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak nói với những người tham dự diễn đàn hợp tác kinh tế Việt Nam – Hàn Quốc tại Hà Nội, hôm 21 – 22.10.
“Phải trả giá cho những sai lầm và thất bại”
Hàn Quốc đã có những méo mó về chính sách kinh tế vĩ mô khi thúc đẩy các ngành công nghiệp nặng như đóng tàu. Ảnh: TL
GDP trên đầu người của Hàn Quốc đã tăng từ 87 USD năm 1960 lên 19.505 USD năm 2008. Để có được thành công này, ông Lee nói: “Chúng tôi phải trả giá cho những sai lầm và thất bại”.
Theo giáo sư Nam Sang-woo của trường Quản lý và chính sách công thuộc viện Phát triển Hàn Quốc, một trong những cái giá đắt mà Hàn Quốc phải trả là những méo mó về chính sách kinh tế vĩ mô, tính kém hiệu quả và sự trùng lắp trong đầu tư, khi Hàn Quốc thúc đẩy các ngành công nghiệp nặng, như thép, đóng tàu, cơ khí, hay điện tử, và công nghiệp hoá chất, với sự xuất hiện của các chaebol (tập đoàn kinh tế), vào những năm 70 của thế kỷ trước.

Những thách thức mà Hàn Quốc gặp phải lúc đó là việc kiểm soát lãi suất, nguồn tín dụng ưu đãi khổng lồ, kéo theo áp lực của lạm phát, gánh nặng trả nợ nước ngoài… Giáo sư Nam nói: “Nhưng nguy hiểm nhất là sự tập trung quyền lực kinh tế của các chaebol. Điều này kéo theo lợi nhuận độc quyền và tham nhũng”.
Là đối tác phát triển của chính phủ, nên các tập đoàn này nắm bắt rất nhanh các cơ hội thu lợi nhuận do chính sách mang lại, trong khi đó lại thực hiện các đầu tư dài hạn và mang tính rủi ro vào lĩnh vực nghiên cứu và phát triển. Những nguy cơ khác, theo Giáo sư Nam, là việc nắm giữ cổ phần chéo giữa các công ty con trong tập đoàn, đa dạng hoá và thực hiện giao dịch nội bộ trên diện rộng, cũng như phụ thuộc quá mức vào nợ, khi đầu tư quá mức và tràn lan.
Phi chính trị hoá quy trình lựa chọn hội đồng quản trị
“Điều quan trọng là Hàn Quốc không bao giờ dừng lại mà cố gắng phấn đấu nhiều hơn để khắc phục những sai lầm đó”, Tổng thống Lee nói.
Theo giáo sư Nam, một trong những nỗ lực khắc phục sai lầm đối với sự yếu kém của khu vực doanh nghiệp nhà nước là phi chính trị hoá quy trình lựa chọn ban quản lý và hội đồng quản trị, tăng cường tính tự chủ giảm sự giám sát của các bộ về nhân sự, lập ngân sách… Giáo sư Nam khuyên: “Việt Nam cần xây dựng năng lực chủ chốt trước tiên, cũng như trình độ quản trị, và tránh để chính trị ảnh hưởng quá mức”.
Tiến sĩ Trần Đình Thiên, một trong hai nhà kinh tế Việt Nam được mời tham gia phản biện, nhận xét: “Chaebol Hàn Quốc, dù khó khăn, vẫn có năng lực cạnh tranh mạnh và dẫn dắt được trò chơi thị trường, còn tập đoàn của ta hầu như chưa”.
Người còn lại, tiến sĩ Võ Trí Thành, nhìn nhận: “Các chaebol có rất nhiều bầy hầy, nhưng có hai cái được. Một là khích lệ được tinh thần tự tôn dân tộc rồi mang theo tinh thần đó ra bên ngoài, và thứ hai là đưa công nghệ của Hàn Quốc vào nền kinh tế. Tập đoàn của mình hầu như nghĩ không ra công nghệ mới, mà làm chủ công nghệ của người khác cũng không xong”.
Huỳnh Phan

Nâng tầm và cụ thể hoá quan hệ song phương


Ngày 19.10.2009, 08:02 (GMT+7)
Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak thăm Việt Nam
Nâng tầm và cụ thể hoá quan hệ song phương
Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak. Ảnh: Reuters
SGTT - Ngày mai, 20.10.2009, Tổng thống Hàn Quốc Lee Myung Bak đến Hà Nội, bắt đầu chuyến đi thăm ba nước Đông Nam Á: Việt Nam, Campuchia và Thái Lan, trước khi tham dự các hội nghị thượng đỉnh ASEAN – Hàn Quốc, ASEAN+3 và Đông Á, được tổ chức tại Hua Hin (Thái Lan) vào ngày 24 – 25.10. Theo văn phòng Tổng thống Hàn Quốc, việc chọn Việt Nam mở đầu cho chuyến thăm Đông Nam Á càng có ý nghĩa với chính sách “Ngoại giao châu Á mới” của quốc gia Đông Bắc Á này, khi năm 2010 Hàn Quốc là chủ tịch G20 còn Việt Nam là chủ tịch ASEAN. Đây là chuyến thăm Việt Nam đầu tiên của ông Lee kể từ khi ông lên nắm quyền,
Tại Hà Nội, ông Lee Myung Bak, dự kiến sẽ hội đàm với Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết, hội kiến với Tổng bí thư Nông Đức Mạnh và Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Dự kiến, hai nguyên thủ quốc gia sẽ ký thoả thuận nâng cấp quan hệ đối tác toàn diện giữa Việt Nam và Hàn Quốc, được ký từ năm 2001, lên tầm quan hệ đối tác chiến lược. Ý tưởng này đã được trao đổi giữa hai bên trong chuyến thăm Hàn Quốc hồi cuối tháng 5 năm nay của Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng. Trong vòng 17 năm, kể từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, Hàn Quốc đã trở thành một trong những nhà đầu tư hàng đầu Việt Nam với khoảng 19 tỉ USD cam kết, và kim ngạch thương mại hai chiều đã đạt gần 10 tỉ USD (năm 2008). Hàn Quốc đã cam kết cấp khoản viện trợ chính thức 1 tỉ USD cho Việt Nam trong khoảng thời gian bốn năm (2008 – 2011). Có khoảng 90.000 người Việt Nam đang ở Hàn Quốc, trong đó có 40.000 cô dâu Việt, và hàng ngàn sinh viên Việt Nam học tập ở các trường đại học của nước này.
Việc thoả thuận và phát triển mối quan hệ đối tác chiến lược giữa hai nước được thể hiện khá rõ trong thời gian chuyến thăm với diễn đàn Phát triển Việt Nam và Hàn Quốc, bao gồm một diễn đàn chính và sáu diễn đàn chuyên môn, được tổ chức vào ngày 21 – 22.10 tại trung tâm Hội nghị quốc gia Mỹ Đình (Hà Nội). Diễn đàn này do bộ Chiến lược và Tài chính (Hàn Quốc) và bộ Kế hoạch – đầu tư (Việt Nam) tổ chức, với sự phối hợp với viện Phát triển Hàn Quốc và viện Chiến lược phát triển Việt Nam.
Theo các nhà tổ chức, diễn đàn này, với sự tham gia của các nhà hoạch định chính sách cao cấp nhất, những người đứng đầu các cơ quan nghiên cứu, các lãnh đạo doanh nghiệp lớn và đại diện các tổ chức quốc tế, là cơ hội cho việc tìm kiếm các cơ hội phát triển mới, cũng như giúp Việt Nam có được các kinh nghiệm phát triển của Hàn Quốc. Các cơ hội hợp tác, hay các lĩnh vực mà các doanh nghiệp Hàn Quốc quan tâm được thể hiện qua chủ đề của các diễn đàn chuyên môn như chính sách tài chính, POSCO (với chủ đề chính là phát triển ngành công nghiệp thép), phát thanh – truyền hình và viễn thông, phát triển đất đai, sở hữu trí tuệ, và phát triển đào tạo nghề.
Huỳnh Phan

ASEAN giữa hai cực phát triển Ấn Độ và Trung Quốc


Ngày 17.08.2009, 09:52 (GMT+7)
SGTT - Khu vực trong thời gian gần đây nóng lên với những tranh chấp chủ quyền, hay những thông tin về chạy đua vũ trang, đã trở nên dịu mát lại với những cơ hội về hợp tác kinh tế, được mọi người kỳ vọng sẽ giúp cân bằng lại mối quan hệ tổng thể về lợi ích
Cuối tuần qua, tại Bangkok, đã diễn ra hai lễ ký kết hợp tác kinh tế quan trọng giữa ASEAN với hai đối tác quan trọng là Trung Quốc và Ấn Độ.
Những niềm hy vọng
Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) và Trung Quốc đã gần như hoàn tất bước cuối cùng cho việc thực hiện một khu vực mậu dịch tự do vào đầu năm sau, khi vào ngày 15.8 qua hai bên đã ký kết một hiệp định đầu tư. Trước đó, khối này đã ký với Trung Quốc hiệp định thương mại hàng hóa vào năm 2005, và hiệp định thương mại dịch vụ hai năm sau đó kèm theo gói cam kết thứ nhất (gói cam kết thứ hai dự kiến được ký bên lề hội nghị thượng đỉnh ASEAN vào tháng 10 này ở Bangkok).
Khu vực tự do mậu dịch ASEAN - Trung Quốc sẽ bao phủ một khu vực rộng 13 triệu km2 với 1,9 tỷ dân sinh sống, và tổng GDP là 6 ngàn tỉ USD. Năm 2008, kim ngạch thương mại hai chiều giữa Trung Quốc và ASEAN đạt 192,5 tỉ USD.
Hiệp định đầu tư này, với 27 điều, đưa ra một cơ chế đầu tư tự do, minh bạch và công bằng nhằm bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư cả hai bên, những người sẽ được hưởng qui chế tối huệ quốc, đối xử công dân, cũng như sự công bằng và bình đẳng trên có sở có đi có lại. Cam kết đầu tư lũy kế theo hai chiều cho đến cuối tháng 6 năm nay giữa ASEAN và Trung Quốc đã đạt hơn 60 tỉ USD.
Tổng thư ký ASEAN, tiến sĩ Surin Pitsuwan hy vọng rằng với hiệp định này, dòng đầu tư từ Trung Quốc vào ASEAN sẽ tăng mạnh, đặc biệt trong bối cảnh các dòng vốn đầu tư từ những nguồn truyền thống đang suy giảm. Theo thống kê của ban thư ký ASEAN, tổng mức cam kết đầu tư từ Trung Quốc vào ASEAN trong ba năm gần đây đạt 3,68 tỉ USD, với mức tăng đều đặn hơn 200 triệu USD sau mỗi năm.
“Hiệp định này sẽ đưa ra những tín hiệu tích cực rằng Trung Quốc và ASEAN đang thúc đẩy hợp tác kinh tế trong việc xây dựng mối quan hệ đối tác kinh tế chặt chẽ hơn, và dần đưa khu vực này ra khỏi cuộc khủng hoảng hiện nay”, tiến sĩ Pitsuwan nói.
Những dè dặt đơn lẻ
Tôi nghĩ Ấn Độ không chờ đợi nhiều ở trao đổi hàng hoá với ASEAN vì hàng Trung Quốc đã thâm nhập khá mạnh
Bà Nguyễn Thị Bích, vụ trưởng vụ Hợp tác quốc tế, bộ Tài chính
Tuy nhiên, ông Nguyễn Cẩm Tú, thứ trưởng bộ Công thương kiêm tổng thư ký Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế lại không có cái nhìn lạc quan như vậy, riêng về mối quan hệ đầu tư Trung Quốc và Việt Nam, ít nhất trong những năm tới. Theo ông Tú, Trung Quốc hiện phải đối mặt với vấn đề thất nghiệp gia tăng (con số này, theo nguồn Trung Quốc, khoảng hơn 20 triệu), nên khó có khả năng tăng đầu tư vào Việt Nam.
“Tôi nghĩ họ sẽ tiếp tục tham gia đấu thầu các dự án xây dựng hạ tầng công nghiệp hoặc giao thông thôi. Họ hay thắng thầu vì họ có lợi thế là hiểu Việt Nam hơn các đối tác khác, máy móc thiết bị của họ rẻ hơn, và hợp với Việt Nam hơn”, thứ trưởng Tú nhận xét.
Việc Trung Quốc thắng thầu càng nhiều cũng đồng nghĩa với việc càng nhiều máy móc thiết bị của Trung Quốc được bán sang Việt Nam, khiến thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc ngày càng lớn. Tuy vẫn công nhận sản xuất ở Việt Nam quá manh mún và chưa đạt tiêu chuẩn thị trường yêu cầu, nên khó có thể tăng xuất khẩu giảm nhập siêu, ông Tú lại có cái nhìn khác về chuyện này.
“Rõ ràng, từ khi cắt giảm thuế theo hiệp định thương mại hàng hóa, thâm hụt thương mại của Việt Nam với Trung Quốc ngày càng tăng. Nhưng trên thực tế, thâm hụt thương mại từ Trung Quốc, thông qua nhập khẩu máy móc, thiết bị, nguyên phụ liệu, hay phân bón, hóa chất, ngoài việc đáp ứng nhu cầu trong nước mà các doanh nghiệp Việt Nam chưa đáp ứng được, còn góp phần tạo thặng dư thương mại ở các thị trường thứ ba. Không có hiệp định này, tôi nghĩ chuyện nhập siêu vẫn vậy thôi”, ông Tú giải thích, và cho biết thêm tỷ lệ hàng tiêu dùng trong nhập khẩu chỉ chiếm tối đa là 7-8%.
Những người Indonesia lại cảm thấy lo ngại về làn sóng hàng hóa Trung Quốc tràn vào nước họ. Trước khi hội nghị bộ trưởng phụ trách thương mại ASEAN, trong đó có lễ ký kết này, diễn ra, các nhà sản xuất của Indonesia, nhất là trong lĩnh vực dệt may, đã kêu gọi bộ Thương mại nước này vận động các thành viên còn lại trong ASEAN trì hoãn việc thực hiện cam kết cắt giảm thuế theo hiệp định. Chủ tịch phòng Thương mại và công nghiệp Indonesia, ông Beny Soetrisno, được hãng thông tấn Antara trích dẫn, cho biết thâm hụt thương mại của Indonesia với Trung Quốc đã lên tới 3,61 tỉ USD năm 2008, so với 1,29 tỉ một năm trước đó.
Không muốn chậm chân
Trong một diễn biến khác bên lề hội nghị bộ trưởng thương mại ASEAN, khối này đã ký với Ấn Độ một hiệp định thương mại hàng hóa, sau 6 năm ròng đàm phán. Với hiệp định này, hai bên hy vọng sau 6 năm thực hiện, kim ngạch thương mại hai chiều sẽ tăng từ 13 tỉ USD lên 60 tỉ USD.
Theo hiệp định này, kể từ đầu năm sau, 5 nước phát triển hơn thuộc ASEAN và Ấn Độ sẽ bắt đầu lộ trình cắt giảm thuế xuống 0% trong vòng ba năm cho 71% dòng thuế, và dành ba năm tiếp để cắt giảm tiếp 9% số dòng thuế nhạy cảm hơn. Đối với 4 nước gia nhập sau, gồm Campuchia, Lào, Myanmar và Việt Nam (CLMV), cam kết mở cửa thị trường của Ấn Độ vẫn theo lộ trình trên, nhưng với các nước CLMV lộ trình này được giãn thêm 5 năm, tương tự với cam kết của họ với Trung Quốc. Riêng với Philippines, thời gian hoàn tất lộ trình này cũng giống các nước CMLV, nhưng không bên nào phải mở cửa thị trường sớm hơn.
Trưởng đoàn đàm phán của Ấn Độ, bà Rebecca được tờ The Hindu trích dẫn nói rằng 9 nước ASEAN đã ký hiệp định này, trừ Việt Nam. Theo bà Rebecca, phía Việt Nam yêu cầu đợi khi Ấn Độ công nhận Việt Nam là nền kinh tế thị trường thì sẽ đặt bút ký. Thứ trưởng Nguyễn Cẩm Tú đã xác nhận chuyện này. “Họ chuẩn bị xong thủ tục là chúng ta ký ngay thôi”, ông Tú nói.
Bà Rebecca cũng được tờ Hindu trích dẫn nói rằng hai bên sẽ cố gắng nhanh chóng thúc đẩy đàm phán để ký kết hai thỏa thuận cần thiết còn lại cho việc thiết lập một khu vực mậu dịch tự do là hiệp định thương mại dịch vụ và hiệp định đầu tư. Theo báo chí Thái Lan, bộ trưởng Thương mại Porntiva Nakasai của nước này tỏ ra dè dặt hơn, khi cho rằng vấn đề thương mại dịch vụ sẽ phức tạp hơn.
Chia sẻ quan điểm này, bà Phan Hoài An, phó trưởng phòng ASEAN, vụ Hợp tác quốc tế, bộ Tài chính, nói: “Riêng về dịch vụ, ASEAN khó có thể chen chân vào thị trường Ấn Độ, trong khi những dịch vụ hàng đầu của Ấn Độ liên quan đến công nghệ thông tin, phần mềm, hay điện ảnh quá mạnh và quá có lợi khi bước chân vào thị trường gần 600 triệu dân này (ASEAN)”.
Nhận xét về quá trình đàm phán kéo dài giữa Ấn Độ và ASEAN để ký được hiệp định này, bà Nguyễn Thị Bích, vụ trưởng vụ Hợp tác quốc tế - bộ Tài chính cho rằng Ấn Độ luôn là một đối tác đàm phán khó nhất, và nếu chưa cảm thấy chắc chắn có lợi, họ sẽ lần lữa trong chuyện ký. Cũng theo bà Bích, một nguyên nhân khác với là các mặt hàng mà ASEAN có thế mạnh là nông sản thì Ấn Độ lại bảo hộ quá mạnh.
“Với mức tăng trưởng kim ngạch thương mại trong vòng 6 năm chỉ có 13 tỉ USD, và tỷ lệ số dòng thuế được cắt giảm chỉ là 80% (so với 90% trong các hiệp định tự do thương mại khác), tôi nghĩ Ấn Độ không chờ đợi nhiều ở trao đổi hàng hóa với ASEAN. Họ biết họ ít cơ hội, vì hàng Trung Quốc đã thâm nhập thị trường này khá mạnh”, bà Bích nói.
“Có lẽ quyết định này của họ có mang cả màu sắc chính trị, họ không muốn để Trung Quốc một mình gây ảnh hưởng mạnh ở khu vực trung tâm của châu Á - Thái Bình Dương này. Vả lại, họ cũng rất cần sự ủng hộ của ASEAN trong tham vọng trở thảnh ủy viên thường trực của một Hội đồng bảo an mở rộng”, bà Bích nhận xét.
Huỳnh Phan

Vụ bạo loạn ở Tân Cương: Bùng nổ vì bị khai thác quá mức

Ngày 07.07.2009, 22:18 (GMT+7)

Một phụ nữ thuộc sắc tộc Duy Ngô Nhĩ thể hiện sự phản đối trước lực lượng an ninh Trung Quốc. Ảnh: Reuters
SGTT - Vụ bạo loạn Tân Cương diễn ra từ ngày 5.7.2009 đến nay vẫn chưa chấm dứt dù 20.000 nhân viên an ninh đã được điều động để lập lại trật tự. Máu đã đổ, 156 người chết, hơn 1.400 người bị bắt. Dư luận quốc tế đặc biệt quan tâm đến sự kiện này. Ông Dương Danh Dy, một người có thể gọi là am hiểu về Trung Quốc đã phân tích những nguyên nhân sâu xa, âm ỉ xung quanh sự kiện này

Nhà đương cục Trung Quốc tuyên bố rằng vụ bạo loạn xay ra ở Urumqi, thủ phủ tỉnh Tân Cương, là do sự xúi giục và kích động từ bên ngoài. Xin ông cho biết bình luận của mình.

Họ cũng có lý đó. Đầu những năm ’60 của thế kỷ trước, có mấy vạn người bỏ chạy sang nước ngoài, nhất là mấy nước Hồi Giáo thuộc Liên Xô cũ, trong đó có Turgikistan. Những người này rất muốn khôi phục nhà nước Hồi giáo Đông Đột (Đông Turgikistan) ở Tân Cương, đã được lập ra vào khoảng 1945-1946, trước khi bị sáp nhập lại vào lãnh thổ Trung Quốc khi cuộc cách mạng ở nước này thành công vào năm 1949.

Việc Trung Quốc tích cực thành lập Nhóm Sáng kiến Thượng Hải bao gồm Nga với mấy nước Cộng hoà Hồi giáo Trung Á thuộc Liên xô cũ, và đầu tư rất nhiều vào nhóm này, cũng nhằm lập một vành đai an toàn để ngăn chặn xu hướng phục quốc này.

Trong quá trình nghiên cứu sự phát triển ảnh hưởng và lãnh thổ của người Hán hàng ngàn năm qua, tôi thấy có ba khu vực mà họ không thể đồng hoá được. Ngoài Việt Nam, đó là Tây Tạng và Tân Cương.

Nhưng, theo tôi, đó chỉ là một trong những nguyên nhân thôi. Nguyên nhân trực tiếp và xâu xa nằm ở chỗ khác.

Những nguyên nhân đó là gì, thưa ông?

Nguyên nhân trực tiếp là vụ xung đột giữa mấy trăm công nhân Hồi Tân Cương là việc ở một nhà máy đồ chơi ở Thiều Quan, Quảng Đông, với công nhân người Hán tại đó, cách đây khoảng hơn mươi hôm, do bất đồng ngôn ngữ, hay phong tục tập quán gì đó. Kết quả là hai công nhân người Hồi bị thiệt mạng.

Còn nguyên nhân sâu xa là chính sách dân tộc của Trung Quốc không thuyết phục được người Hồi. Họ cảm thấy văn hoá, tín ngưỡng, ngôn ngữ của họ không được người Hán tôn trọng. Vùng đất đai mà tổ tiên họ để lại đa phần lại nằm trong tay người Hán, mọi hoạt động kinh tế thương mại chính đều nằm trong tay người Hán. Ông Vương Chấn, người sau này trở thành phó chủ tịch nước CHND Trung Hoa Trung Quốc, đã đưa quân đội lên Tân Cương khai khẩn, lập nông trường, để bây giờ người Hán chiếm tới 75% dân số ở Tân Cương.
Sự không hài lòng âm ỉ từ lâu bị thổi bùng lên do sự kiện ở Thiều Quan. Chính nhà đương cục Trung Quốc cũng cảm thấy bất ngờ.

Ngoài lý do là một số người Hồi Tân Cương muốn thành lập một khu tự trị riêng, liệu xu hướng muốn ly khai của họ còn có nguyên nhân từ việc phát triển nóng tập trung vào miền duyên hải phía Đông của nền kinh tế Trung Quốc khiến người dân những vùng sâu vùng xa như Tân Cương cảm thấy họ bị thiệt thòi, bị tụt hậu so với phần phía Đông không?

Đúng thế. Họ quá tập trung tiền của đất nước để phát triển miền Đông, tạo ra khoảng cách về trình độ phát triển và giàu nghèo quá lớn giữa miền Đông và miền Tây. Để có thể phát triển nhanh, Trung Quốc đã phạm phải nhược điểm là khai thác quá mức sức lao động và tài nguyên, dẫn đời sống người lao động không mấy được cải thiện, tài nguyên thì cạn kiệt và môi trường thì ô nhiễm.

Chính điều này là một trong những nguyên nhân mang lại hậu quả là có hàng vạn cuộc bạo loạn nổ ra ở Trung Quốc trong mấy năm trở lại đây.

Hành động cứng rắn của Trung Quốc đối với cuộc bạo loạn vừa rồi, thông qua số người bị thiệt mạng, bị thương và bị bắt, liệu có liên quan gì đến kinh nghiệm riêng của ông Hồ Cẩm Đào, người cách đây 20 năm là bí thứ thứ nhất khu uỷ Tây Tạng không?

Tôi nghĩ là có. Đây cũng có lẽ là lời răn đe với Tây Tạng. Nhưng tôi cũng muốn so sánh vụ này với một vụ khác lớn hơn diễn ra cách đây 20 năm, vào ngày 4/6. Qui mô và tính chất có khác, nhưng có lẽ cùng một thông điệp.

Ông Đặng Tiểu Bình đã từng căn dặn các nhà lãnh đạo Trung Quốc nên “giấu mình chờ thời” trong phát triển, tránh phô trương thế mạnh kẻo các nước khác dè chừng. Nhưng gần đây, có vẻ như lãnh đạo Trung Quốc đi theo hướng ngược lại. Ngoài các động thái răn đe với các nước tranh chấp chủ quyền Biển Đông, họ đã thách thức cả với Mỹ. Có phải do vấn đề bất ổn nội bộ là lý do chính không, thưa ông?

Mọi người đều biết khi nội bộ có vấn đề, TQ thường tìm cách chuyển trọng tâm chú ý trong nước ra ngoài, nhưng Biển Đông thì không phải như vậy.

Hiện trong nội bộ lãnh đạo Trung Quốc có một phái quá khích, muốn Trung Quốc trờ thành siêu cường số một càng sớm càng tốt, và giọng điệu phát biểu của họ đầy thách thức các nước khác, kể cả Mỹ; Phái còn lai cũng muốn đạt mục đích tương tự, nhưng âm thầm hơn. Họ coi Trung Quôc chưa sẵn sàng thay thế vai trò số một của Mỹ, không nên đối kháng với Mỹ mà nên hoà hợp để cùng phát triển.

Tôi xin đưa ra một ví dụ minh họa: lãnh đạo hiện nay của Trung Quốc đã vạch ra một vòng tròn gọi là vòng ổn định nội bộ. Trong vòng tròn đó các phái có thể đấu tranh với nhau, nhưng nếu khi các bên vật lộn có cái tay hay cái chân nào đó thò ra khỏi vòng tròn đó thì lập tức các phái phải phải ngồi lại để thoả thuận, và nhượng bộ nhằm duy trì ổn định nội bộ.

Tôi nghĩ sau vụ này lãnh đạo Trung Quốc sẽ rút được những bài học hữu ích. Họ đã quá hiểu bất ổn nội bộ phải trả giá như thế nào. Chính người Trung Quốc đã nói rằng Mao Trạch Đông trong suốt thời kỳ cẩm quyền của mình đã tiêu tốn 50% nguồn lực của đất nước cho các cuộc đấu đá nội bộ.

Huỳnh Phan thực hiện
Đến tối ngày 7.7, Trung Quốc đã cắt internet, chận trang mạng xã hội Twitter và các công cụ truyền thông đưa tin về vụ bạo loạn ở Tân Cương diễn ra mấy ngày nay. Tuy nhiên, các nhà báo quốc tế vẫn được mời đến thủ phủ Ô Lỗ Mộc Tề, thủ phủ Tân Cương, nơi diễn ra cuộc bạo loạn, để đưa tin, sau khi quân đội đã dẹp tan các cuộc biểu tình ở đó.
Trưa ngày 7.7, vẫn còn hàng ngàn người Hán cầm gậy gộc đổ ra đường tìm những người sắc tộc để trả thù. Những người này đập phá các cửa hàng của những người thuộc sắc tộc Duy Ngô Nhĩ. Cảnh sát phải dùng hơi cay để giải tán. Trước đó Trung Quốc huy động hơn 20.000 nhân viên an ninh để lập lại trật tự ở Tân Cương. Vụ bạo loạn làm 156 người thiệt mạng, hơn 1.400 người bị bắt. Các vụ bạo lực bùng phát từ ngày 5.7 tại thủ phủ Ô Lỗ Mộc Tề.
Giám đốc sở Công an Tân Cương Lưu Dược Hoa cho biết trong vụ bạo loạn có hơn 260 xe hơi, trong đó có 190 xe buýt, 10 xe taxi và 2 xe cảnh sát bị đốt phá. Hơn 200 cửa hàng và 14 ngôi nhà đã bị phá huỷ. Nhiều trạm kiểm soát đã được thiết lập bổ sung tại các khu vực chủ chốt ở Ô Lỗ Mộc Tề và một số vùng ngoại ô để ngăn chặn bạo lực tái bùng phát. Cảnh sát cho biết lệnh giới nghiêm sẽ được áp đặt từ 20h (giờ địa phương) tại đây.

Bắc Triều Tiên thử bảy tên lửa: Một tên hai đích


Ngày 05.07.2009, 20:59 (GMT+7)
Hai vụ thử bắn thử tên lửa trong tuần trước, với số lượng và tầm bắn của tên lửa trong từng lần bắn tương ứng với những con số chỉ ngày – tháng của Quốc khánh Mỹ (4/7), người ta có thể thấy thông điệp ưu tiên hàng đầu của Bình Nhưỡng là muốn gây áp lực hạt nhân đòi Mỹ phải đàm phán tay đôi, thay vì liên quan đến tình trạng sức khoẻ hay việc chọn người kế vị của Chủ tịch Kim Jong-il.
Theo một chuyên gia theo dõi bán đảo Triều Tiên nhiều năm, giấu tên, ý đồ chính của Bắc Triều Tiên qua những vụ thử vừa rồi chủ yếu là phô trương thanh thế, chứ không phải cảnh báo cho cuộc tấn công quân sự thực sự. Tuy lãnh đạo Bắc Triều Tiên đã đe doạ có thể bất ngờ tấn công Mỹ để phá huỷ một số mục tiêu quan trọng trên lãnh thổ nước này, nhưng, thực chất, mọi cố gắng đó đều nhằm đạt mục đích bình thường hoá quan hệ đầy đủ với Mỹ, và chỉ với Mỹ, để rồi từ đó các mối quan hệ khác cũng mặc nhiên được giải quyết. Kinh nghiệm thành công của hai nước có cùng thể chế chính trị ở châu Á là Trung Quốc và Việt Nam sau khi bình thường hoá quan hệ với Mỹ có thể là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự lựa chọn này của họ.
Các kỳ bầu cử tổng thống Mỹ luôn thu hút sự quan tâm đặc biệt của Bình Nhưỡng. Khi mới nhậm chức, ông Bush, trong bối cảnh của chiến dịch chống khủng bố toàn cầu sau sự kiện 11/9, đã từng liệt Bắc Triều Tiên vào “liên minh ma quỉ”, hay gọi họ là “kẻ bảo trợ cho khủng bố”…, nhưng càng về sau thái độ của chính quyền ông này càng tỏ ra mềm mỏng. Những cuộc đối thoại, trong khuôn khổ sáu bên, đã được tiến hành.
Nhưng hờ hững của người kế nhiệm Obama khiến Bắc Triều Tiên thất vọng, và họ quyết định lên tiếng nhắc nhở. Việc chọn đối tượng có thể là đúng, nhưng phương cách tiếp cận phần nhiều là sai. Họ đã vấp phải sự phản đối mạnh mẽ của cộng đồng quốc tế, kể cả từ những nước như Nga và nhất là Trung Quốc. Khu vực này đang rất cần hoà bình, ổn định để phát triển, nhất là trong bối cảnh suy thoái kinh tế toàn cầu. Còn Mỹ, xưa nay, họ đâu có để ai ép họ, nhất lại bằng đe doạ vũ lực. Họ càng không muốn tạo tiền lệ.
Nhưng lãnh đạo Bắc Triều Tiên vẫn còn một cái đích ngắm khác. Đó là ổn định chính trị nội bộ. Bộ máy tuyên truyền nổi tiếng của Bắc Triều Tiên đã không còn phát huy hiệu lực trong việc tạo niềm tin tuyệt đối của dân chúng với lãnh tụ tối cao như trước, khi mà đời sống người dân ngày càng khổ sở. Thông qua những câu chuyện của những người có cơ hội đi công tác nước ngoài, qua sự liên lạc với những người bỏ trốn xuống miền Nam qua đường biên giới, không ít người đã hiểu rằng họ quá tụt hậu so với các dân tộc khác, bởi chính sách dồn gần hết nguồn lực của đất nước cho quốc phòng. Với việc thách thức Mỹ, giới lãnh đạo nước này muốn người dân tin rằng Mỹ là kẻ phải chịu trách nhiệm vì nỗi khổ của người dân Bắc Triều Tiên.
Huỳnh Phan

Cuộc họp thượng đỉnh Hàn Quốc – ASEAN: Khẳng định vị thế cường quốc


Ngày 29.05.2009, 11:22 (GMT+7)
SGTT - Theo bộ Ngoại giao Việt Nam, trong cuộc họp thượng đỉnh Hàn Quốc – ASEAN, tổ chức vào đầu tháng 6 tới tại đảo Jeju, nhân kỷ niệm 20 năm ngày thiết lập quan hệ đối tác đối thoại giữa Hàn Quốc và ASEAN, các nhà lãnh đạo dự kiến sẽ ký một tuyên bố chung nhằm tăng cường hợp tác chính trị và an ninh, kinh tế và hợp tác phát triển, cũng như thúc đẩy giao lưu văn hoá xã hội. Một hiệp định đầu tư giữa Hàn Quốc và ASEAN, với mục đích tạo môi trường đầu tư thân thiện chuẩn bị cho thời kỳ hậu khủng hoảng, cũng hy vọng được ký kết.
Chú trọng song phương
Cho tới trước khủng hoảng toàn cầu, ASEAN đứng thứ ba về thu hút đầu tư từ Hàn Quốc với tổng vốn cam kết là 22,6 tỉ USD cho năm 2007, tăng 38,7% so với một năm trước đó. ASEAN cũng thuộc loại đầu trong nhóm các đối tác thương mại của Hàn Quốc với tổng kim ngạch năm 2008 khoảng 90 tỉ USD, so với 72 tỉ năm 2007. ASEAN cũng là thị trường xây dựng lớn thứ hai của Hàn Quốc trên thế giới với tổng doanh thu lên tới 8,9 tỉ USD năm 2007.
Việc thúc đẩy quan hệ thương mại, đầu tư với ASEAN nằm trong chiến lược xây dựng một hình ảnh Hàn Quốc “tiên tiến và có uy tín trên toàn cầu”. Trong đó, hai khu vực mới được đặc biệt chú ý là ASEAN và cộng đồng Ả Rập, với hội Hàn Quốc –
Ả Rập được thành lập năm 2008, và trung tâm ASEAN – Hàn Quốc được khai trương đầu năm nay.
Theo ông Võ Hải Thanh, phó giám đốc trung tâm nghiên cứu Hàn Quốc, việc trong những năm gần đây Hàn Quốc chú trọng tăng cường quan hệ kinh tế song phương với những khu vực cụ thể, thay vì theo đuổi quan hệ kinh tế đa phương truyền thống trong khuôn khổ WTO, diễn ra dưới cả hai sức ép trong nước và khu vực.
Tiến trình xích thống nhất Triều Tiên, qua đó mở ra những cơ hội đầu tư và thương mại cực kỳ to lớn với miền bắc bán đảo này, đã lâm vào thế bế tắc do khủng hoảng hạt nhân, khiến các nhà đầu tư Hàn Quốc phải kiếm tìm những mục tiêu ngắn và trung hạn khác. Trong khi đó, việc hai quốc gia Đông Bắc Á khác là Trung Quốc và Nhật Bản đã hết sức tranh thủ quan hệ với ASEAN, thông qua các hiệp định thương mại tự do tương đối toàn diện, khiến Hàn Quốc bị cuốn theo, để tránh bị cảnh “trâu chậm uống nước đục”.
Con đường văn hoá
Không tham vọng gây ảnh hưởng mạnh về chính trị, và cũng không thực sự mạnh về tiềm lực kinh tế để có thể cung cấp những khoản ODA lớn như Nhật Bản, và sau này Trung Quốc, Hàn Quốc đã chọn cách đi riêng để tạo dấu ấn riêng. Hàn Quốc đã sử dụng văn hoá, chẳng hạn phim ảnh, như một công cụ hữu hiệu, nhất là ở Việt Nam, để quảng bá về hình ảnh Hàn Quốc và các sản phẩm “made in Korea”.
Từ năm 2004, chương trình “Cùng chia sẻ kinh nghiệm phát triển kinh tế của Hàn Quốc” đã được triển khai, với các dự án tư vấn cho các nước đang phát triển kinh nghiệm phát triển kinh tế của Hàn Quốc. Cho đến nay họ đã triển khai 83 dự án ở 13 nước, và riêng với khối ASEAN hai dự án nổi bật nhất là viện trợ xây dựng ngân hàng Phát triển Việt Nam và phương án bảo toàn thâm hụt tài chính của Chính phủ Campuchia.
Dưới thời Tổng thổng Lee Myung-bak, chương trình này được phát triển thành dự án thể hiện thương hiệu quốc gia, qua đó phát triển thương hiệu tiêu biểu của Hàn Quốc về kinh nghiệm phát triển kinh tế. Dự án này sẽ được thí điểm ở 4 – 5 nước châu Á, đặc biệt là ASEAN, trước khi có thể mở rộng ra ở các khu vực khác trên thế giới vào năm 2012.
Người Hàn Quốc tin rằng họ đã đi đúng đường, bởi thành tích đã lọt vào hàng ngũ những nước kinh tế phát triển (OECD) từ một nước nông nghiệp lạc hậu chỉ sau mấy thập kỷ quả là một kinh nghiệm đáng học tập. Theo đánh giá mới nhất của OECD, Hàn Quốc là quốc gia có tốc độ hồi phục kinh tế nhanh nhất so với các quốc gia thành viên còn lại, khi là nước duy nhất trong OECD có mức tăng trưởng dương. Quỹ Tiền tệ quốc tế IMF cũng đồng quan điểm với OECD, khi cho rằng đến quý 4 năm nay, Hàn Quốc dự kiến sẽ đạt mức tăng trưởng 1%, so với 0,1% trong quí 1, và -5,1% trong quý 4/2008.
Huỳnh Phan

Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đi Nhật Bản: Từ tương lai châu Á tìm tương lai Việt Nam


Ngày 18.05.2009, 09:41 (GMT+7)
Đêm 20.5 tới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ công du Nhật Bản để dự hội nghị Tương lai châu Á, kết hợp thăm và làm việc với Chính phủ Nhật Bản.
“Châu Á tìm kiếm lĩnh vực mới”
Múa Yosakoi truyền thống của Nhật Bản trên đường phố Hà Nội, nhân lễ hội Hoa anh đào Nhật Bản 2009 tại Việt Nam. Đây là lần thứ ba lễ hội Hoa anh đào được tổ chức tại Việt Nam. Từ nhiều năm nay quan hệ hợp tác Việt Nam – Nhật Bản đã phát triển không chỉ ở lĩnh vực kinh tế mà còn trên các lĩnh vực khác như văn hoá, giáo dục… Ảnh: TTXVN
Với chủ đề trên, hội nghị thường niên lần thứ 15, do nhật báo kinh tế hàng đầu Nhật Bản NIKKEI tổ chức vào 21 – 22.5, tập trung thảo luận xem châu Á tìm ra những nguồn lực mới cho tăng trưởng kinh tế như thế nào. Theo ý tưởng của các nhà tổ chức, việc xây dựng hạ tầng ở những nền kinh tế chậm phát triển và phát triển những doanh nghiệp về môi trường và các ngành khác sẽ tạo ra những cơ hội mới. Có lẽ vì thế, 2/3 tham luận chính tại diễn đàn sẽ do lãnh đạo các nước chậm phát triển như Việt Nam và Lào trình bày.
Đây là lần thứ ba đại diện Việt Nam tham dự diễn đàn này ở cấp thủ tướng (2001 và 2004). Lần này, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng “mở hàng” hội nghị với tham luận đưa ra nhóm sáu giải pháp kiến nghị để lấy lại đà tăng trưởng và vượt qua suy thoái.
Hàng tỉ USD cam kết ODA cho hạ tầng
Dù đây không phải thăm chính thức, nhưng sau hội nghị NIKKEI, ông Dũng sẽ cùng với người đồng cấp phía chủ nhà bàn những bước đi tiếp theo để phát triển quan hệ đối tác chiến lược, mới được thoả thuận trước đây một tháng.
Một nhóm quan chức đại diện cho hai bộ Ngoại giao và Kinh tế – công thương (METI) của Nhật Bản đã có mặt ở Hà Nội từ giữa tuần trước để bàn thảo những thủ tục cuối cùng chuẩn bị cho việc công bố những khoản vay ưu đãi vào cuối tuần này. Một bản danh sách rút gọn những dự án ưu tiên vay ODA đã được hai bên gút lại để báo cáo lên Chính phủ Nhật.
Nếu mọi việc diễn ra suôn sẻ, riêng tại khuôn viên của khu công nghệ cao Hoà Lạc, Việt Nam sẽ nhận được cam kết ODA tổng cộng khoảng 1 tỉ USD. Trong đó, 350 triệu USD dành cho phát triển hạ tầng khu công nghệ cao Hoà Lạc, 350 triệu USD cho khu nghiên cứu – triển khai công nghệ vũ trụ, khoảng 300 triệu cho khu nghiên cứu – phát triển (R&D) cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ công nghệ cao của Nhật, và 60 triệu USD cho dự án nghiên cứu – sản xuất vắcxin – chế phẩm mới của viện Vệ sinh dịch tễ.
Tổng công ty Cảng hàng không miền Bắc chờ đợi khoản ODA hơn 600 triệu USD cho dự án xây dựng nhà ga mới tại sân bay Nội Bài. Tổng công ty Đường sắt cũng hy vọng phía Nhật sẽ tiếp tục cho vay để xây dựng tuyến đường sắt trên cao Yên Viên – Ngọc Hồi (giai đoạn một) với tổng đầu tư khoảng 1,1 tỉ USD.
Tuy nhiên, theo một thành viên trong đoàn Thủ tướng, vấn đề mấu chốt hiện nay không phải là công bố cam kết, mà ở chỗ phía Nhật sẽ quyết định đưa những dự án nào vào kế hoạch ODA giai đoạn 1 trong năm tài khoá 2009. Bởi lẽ, nếu nằm trong kế hoạch giai đoạn hai, các công hàm ngoại giao để giải ngân sẽ phải chờ đến tháng 3.2010 mới được ký, thay vì trong vài tháng tới. Việt Nam mong muốn triệt để tận dụng khoảng lặng suy thoái hiện nay để nhanh chóng nâng cấp hạ tầng nhằm đón chờ những cơ hội đầu tư – thương mại mới thời hậu khủng hoảng.
Với sự tham gia của bộ trưởng Công thương trong đoàn, một trong những vấn đề khác dự kiến sẽ được bàn kỹ giữa hai chính phủ là việc chuẩn bị triển khai hiệp định đối tác kinh tế (EPA), mặc dù vẫn phải chờ Quốc hội Nhật thông qua. Hai mục tiêu chính từ phía Việt Nam là thu hút đầu tư và công nghệ từ Nhật Bản để xây dựng một nền công nghiệp nội địa đích thực và đẩy mạnh xuất khẩu sang thị trường nước này, cũng như các thị trường kỹ tính khác.
Huỳnh Phan

Ngành đóng tàu lỡ cơ hội vì thất tín


Ngày 13.05.2009, 14:10 (GMT+7)
Do suy thoái kinh tế, nhu cầu đóng các tàu nhỏ loại 5.000 tấn (DWT) trở xuống ở Nhật Bản đã tăng rất mạnh. Việt Nam là địa chỉ nhiều nhà vận tải nội địa Nhật Bản đã tìm đến. Nhưng các nhà đóng tàu Việt Nam đã bỏ lỡ cơ hội này chỉ vì cung cách ứng xử
Vinashin từng đóng tàu hàng chục vạn tấn, nhưng cung cách làm ăn đã khiến Vinashin mất khách hàng. Ảnh: T.L
Noma Shipping Lines, một công ty gia đình có trụ sở ở thành phố cảng Ehime thuộc đảo Shikoku, là một trong số đó. Theo Bùi Quốc Anh, một Việt kiều Nhật đang kinh doanh ở Việt Nam, trong vòng một năm qua, ông đã ba lần dẫn anh em nhà Noma đi khảo sát hàng chục cơ sở đóng tàu ở miền Bắc.
Điều khiến Quốc Anh ngạc nhiên nhất là ngay lần đầu tiên anh em nhà Noma chỉ yêu cầu cho họ tìm hiểu các doanh nghiệp tư nhân. Khi Quốc Anh gợi ý đi khảo sát ở các nhà máy của tập đoàn Vinashin, được đầu tư bài bản và đủ trình độ đóng những con tàu hàng chục vạn tấn, thì những người Nhật đáp cụt lủn: “Anh đừng bao giờ nhắc cái tên Vinashin trước mặt chúng tôi”. Trên đường về lại Hà Nội, Masanori Noma, chủ tịch Noma Shipping, đã kể lại cho Quốc Anh nghe kỷ niệm không mấy tốt đẹp về Vinashin.
Sự thất tín của Vinashin
Thực ra, giữa Vinashin và Noma Shipping Lines đã có những kỷ niệm đẹp. Chính Noma Shipping là khách hàng Nhật Bản đầu tiên của Vinashin với chiếc tàu trọng tải 6.300 DWT qua hợp đồng được ký giữa tập đoàn Kanematsu, thay mặt cho hãng vận tải này, và Vinashin vào tháng 7.2003, đóng tại nhà máy Bạch Đằng, Hải Phòng. Gần hai năm sau, Kanematsu đặt hàng Vinashin đóng cho Noma Shipping một chiếc tàu trọng tải 10.500 DWT, tại nhà máy Bến Kiền.
Trong quá trình đóng hai con tàu nói trên, Noma Shipping đã cử chuyên gia sang đào tạo kỹ thuật viên và công nhân để có thể đóng tàu đúng theo yêu cầu của họ. Noma Shipping hy vọng rằng với đội ngũ nhân công lành nghề này, họ sẽ tiếp tục đặt hàng với Vinashin. Chính đại diện của Noma Shipping đã nói với lãnh đạo hai nhà máy trên về điều đó, và nhận được cam kết giữ người từ những vị lãnh đạo này.
Đầu năm 2008, khi Noma Shipping quay trở lại hai nhà máy trên định đặt hàng tiếp các con tàu trọng tải nhỏ hơn để đáp ứng nhu cầu vận tải nội địa ngày càng tăng, họ mới ngã ngửa ra rằng 25 người họ dày công đào tạo đã chuyển đi nơi khác hết. Lãnh đạo hai nhà máy này giải thích với Noma Shipping rằng những người này đã được cử đi làm đội trưởng ở các cơ sở đóng tàu mới được Vinashin mở ồ ạt trong những năm trước đó.
Sự lạc hậu của tư nhân
Sở dĩ Noma Shipping đi hàng chục cơ sở đóng tàu ở Nam Định mà không tìm ra được một nơi để đặt hàng, vì công nghệ đóng tàu ở đây chủ yếu mới dừng ở mức đóng các loại sà lan. Lý do là các cơ sở này đã mọc lên như nấm, con số lên tới hàng trăm, trong khoảng thời gian than được xuất lậu ồ ạt. Hơn nữa, do các nhà xuất khẩu than lậu bán cả than lẫn tàu để tránh bị lộ khi mang tàu không về, nên khâu chất lượng không được coi trọng.
Anh em nhà Noma nhận xét với Quốc Anh rằng kỹ thuật hàn vỏ tàu ở các cơ sở Nam Định tương tự như ở Nhật cách đây 40 – 50 năm. “Thậm chí, khi cắt hụt một miếng tôn khoảng 10 phân, lẽ ra phải thay tấm khác, họ cắt ngay một miếng rộng 10 phân rồi hàn vào. Khoảng cách ngắn như thế mà chịu nhiệt hàn lớn, vỏ  tàu khi sử dụng dễ bị thủng ở chỗ đó”, Quốc Anh nói.
Theo như phía Nhật nhận xét với Quốc Anh, tổ chức sản xuất quá lộn xộn, điều kiện an toàn lao động và vệ sinh công nghiệp quá kém. Hầu như ở cơ sở nào nhóm khảo sát cũng chứng kiến cảnh đến phân nửa số công nhân không đội mũ bảo hiểm, không đi giày bảo hộ. Công nhân đánh gỉ rất qua loa, còn khi sơn thì bụi mù lên xung quanh.
Hy vọng gì?
Sau đó, Quốc Anh lại một lần nữa chứng kiến thái độ “tuyệt giao” của Noma Shipping với Vinashin, khi ông dẫn anh em nhà Noma đến làm việc với lãnh đạo công ty đóng tàu Sông Hồng ở Hà Nội. Để tăng tính thuyết phục cho năng lực sản xuất của mình, lãnh đạo của công ty cổ phần đã gia nhập Vinashin này cho mời cả đại diện của tập đoàn xuống. Vừa nghe giới thiệu tên tuổi hai vị quan chức này, anh em nhà Noma đã đứng ngay dậy, cám ơn và xin khất buổi làm việc sang dịp khác.
“Dăm năm trời làm xúc tiến thương mại – đầu tư, cũng gặp trục trặc nhiều, nhưng chưa bao giờ tôi thấy ê mặt như hôm ấy”, Quốc Anh nói. Ông bảo họ nếu thấy cả Nhà nước và tư nhân đều không đủ tin cậy để làm thì tốt nhất là nên tìm cách khác cho đỡ tốn công sức, tiền bạc.
Nhưng những người Nhật không nghĩ vậy. Họ còn nói các nhà vận tải Nhật Bản phải chuyển phương thức vận tải để tồn tại, không có lý gì các nhà đóng tàu tư nhân Việt Nam lại ngồi yên chịu chết, khi loại tàu chất lượng thấp dùng để xuất than lậu không còn thị trường nữa.
Họ nói với Quốc Anh rằng nếu thể hiện quyết tâm hợp tác với họ bằng cách từng bước cải tiến lại quy trình sản xuất, dựa trên những nhận xét của họ qua từng lần đến tìm hiểu, cơ hội vẫn còn nguyên vẹn. “Chúng tôi mới đến đây lần thứ ba, có lẽ còn phải chờ tới 18 lần nữa, để xem chúng ta có thể bắn 21 phát đại bác hay không”, Masanori Noma, theo lời kể của Quốc Anh, đã nói với một chủ cơ sở đóng tàu ở Nam Định như vậy.
Huỳnh Phan