![]() | |
Tạp chí Nhịp Cầu Đầu Tư - Tạp chí Kinh doanh Uy tín hàng đầu, số: Chuyển phát nhanh tăng tốc, ra ngày 14-09-2009 | |
Chuyện hàng Việt ở Đông Âu | |
Tác giả: Lưu Hương NCĐT 14/09/2009 | |
Việc nhiều gia đình ở Czech chọn mua hàng Việt thay vì hàng hiệu có phải là tín hiệu vui cho các nhà sản xuất Việt Nam? | |
Theo kết quả khảo sát của công ty nghiên cứu thị trường Incoma GfK, khủng hoảng kinh tế đã ảnh hưởng đến thói quen mua sắm của 35% số gia đình ở Czech. Họ quyết định chọn những cửa hiệu của người Việt Nam để mua quần áo, giày dép, thay vì mua chúng ở các cửa hiệu đắt tiền.
Đây có phải là cơ hội cho sản phẩm Việt Nam tìm được thị trường mới, khi việc xuất khẩu sang những thị trường truyền thống bị thu hẹp lại do khủng hoảng kinh tế? NCĐT đã trao đổi với ông Phạm Thanh Tùng, Giám đốc Công ty PTT Global s.r.o. (Hà Nội), chuyên cung cấp hàng cho Czech, Slovakia, miền Đông nước Đức và Ba Lan, về vấn đề này.
![]()
Ông Phạm Thanh Tùng: Tôi nghĩ chỉ vui một nửa. Đúng là người tiêu dùng Czech đã đến các khu chợ, hay cửa hiệu của người Việt bên Czech nhiều hơn. Nhưng, người vui không phải là các nhà sản xuất Việt Nam mà là Trung Quốc.
![]()
Ông Phạm Thanh Tùng: Ở Czech có 4 khu chợ do người Việt xây dựng, trong đó lớn nhất là chợ Sapa ở Praha rộng 350.000 m2, có người Việt và người Hoa cùng buôn bán. Người Hoa thì chắc chắn chỉ đánh hàng Trung Quốc rồi, còn cứ 100 người Việt thì có tới 90, thậm chí 95 người đánh hàng Trung Quốc. Đánh hàng từ Việt Nam khó hơn từ Trung Quốc nhiều.
![]()
Ông Phạm Thanh Tùng: Thứ nhất, rất khó kiểm định chất lượng hàng hóa. Xin đơn cử một chuyện đã xảy ra với tôi cách đây 9-10 năm. Hồi đó, tôi có đánh thử một công (container) pin Con Thỏ sang Czech bán thử. Sau 3 tháng, mới bán được một nửa thì số pin còn lại chảy hết, phải bỏ đi. Tôi lỗ mất 25.000 USD. Đó là chưa kể việc mất uy tín khi khách hàng đã mua pin phàn nàn về chất lượng, pin chạy chóng hết quá. Bạn bè tôi thì kêu về chuyện đánh hàng từ Việt Nam, chỉ vài công đầu tiên là ổn, về sau chất lượng cứ kém dần.
Thứ hai, làm việc với các nhà sản xuất Việt Nam rất mất thời gian. Cách đây 3 năm, tôi quyết định thử lại lần nữa với mặt hàng đồ chơi bằng gỗ. Nhưng có mỗi chuyện báo giá mà họ bắt tôi phải chờ đến nửa tháng trời. Phần vì chờ lâu, phần vì nghĩ rằng họ trông mặt mà ra giá nên tôi cạch luôn, quay sang mối khác.
Thứ ba, tôi thấy hình như các doanh nghiệp trong nước chưa đối xử bình đẳng giữa khách hàng là người nước ngoài và khách hàng người Việt ở nước ngoài. Điều này tôi nhận thấy qua cung cách họ tiếp chúng tôi và những khách hàng người nước ngoài trong một lần tình cờ có mặt tại một nhà máy.
Thứ tư, việc quảng bá, giới thiệu sản phẩm ít được chú trọng. Chẳng hạn, khi tham gia hội chợ, một số nhà sản xuất của Việt Nam dường như quên mất đây là cơ hội quảng bá hàng hóa, mà cho là cơ hội bán hàng để gỡ lại chi phí tham dự hội chợ. Điều này tôi nhận thấy khi tham gia các hội chợ ở Hamburg và Frankfurt (Đức), ở Czech và so sánh với hội chợ Giảng Võ (Hà Nội).
Hay có lần, tôi đến làng gốm Bát Tràng (Hà Nội), họ đưa tôi vào gian trưng bày hàng rồi để tôi tự xem, hỏi gì thì họ trả lời nhát gừng, chứ không chủ động giới thiệu.
Và điều cuối cùng là ở Việt Nam mua hàng với số lượng ít còn có, chứ muốn mua nhiều, kiểu mua buôn như tôi, là rất khó. Tổ chức sản xuất của mình còn manh mún quá.
![]()
Ông Phạm Thanh Tùng: Khác biệt lớn nhất của Trung Quốc so với Việt Nam là việc giữ mặt bằng giá. Khi chúng tôi hỏi về bất cứ mặt hàng gì, các nhà cung cấp Trung Quốc đều đưa ra mức giá hầu như tương đương, dù có hỏi hàng trăm người, từ các tỉnh khác nhau. Hơn nữa, họ cũng rất nhanh trong việc cung cấp thông tin cho khách hàng. Chẳng hạn, ngay trong buổi làm việc đầu tiên là hai bên có thể thỏa thuận xong về giá. Khách hàng vừa tiết kiệm được thời gian, vừa có cảm giác yên tâm rằng đó là giá chuẩn.
Thứ hai, tuy giá nhân công Trung Quốc cao hơn Việt Nam, nhưng các nhà cung cấp hay sản xuất của Trung Quốc không tính lợi nhuận ngắn hạn như nhà sản xuất ở Việt Nam (chỉ 2-3 năm hoặc khá hơn là 5 năm). Trung Quốc tính dài hơi hơn nên ăn lãi ít hơn và vì thế hàng của họ rẻ.
Thứ ba, họ tiếp thị rất tốt. Vừa xuống sân bay là đã thấy những bảng chỉ dẫn làng nghề nào làm mặt hàng gì, không mất công hỏi thăm gì nhiều. Hay là khi vào thăm các gian trưng bày hàng gốm sứ, nhân viên của họ niềm nở đón chào, người mời nước, người chủ động giới thiệu phân tích công năng của sản phẩm rồi quy trình sản xuất…
Thứ tư, tổ chức sản xuất của Trung Quốc rất tập trung, bài bản. Ở Trung Quốc từng làng, từng xã đều có một nghề nhất định. Người sản xuất chỉ việc sản xuất, đã có người khác làm đầu mối mua và cung cấp cho nước ngoài. Vì vậy, muốn đặt mua bất cứ loại sản phẩm nào ở Trung Quốc, với số lượng bao nhiêu cũng được đáp ứng. Muốn nhanh có nhanh, có điều giá phải cao hơn một chút vì đặt hàng gấp.
Tôi có công ty xuất nhập khẩu bên Trung Quốc, chuyên nhập đồ chơi bằng gỗ, nhựa, sứ, thủy tinh, vải hay hàng thủ công mỹ nghệ. Thành phố Shantou (Sán Đầu thuộc tỉnh Quảng Đông), nơi có trụ sở công ty tôi, có 30 triệu dân chủ yếu làm đồ chơi. Họ không cần nhà máy mà chia việc làm về từng hộ dân.
![]()
Ông Phạm Thanh Tùng: Khi những người Việt ngồi với nhau bàn về chuyện làm ăn buôn bán, họ đã không ít lần đề cập tới việc tại sao mình là người Việt mà lại không bán hàng do Việt Nam sản xuất. Trong giai đoạn đầu làm ăn, vốn liếng còn ít, tất nhiên là chúng tôi luôn đặt lợi nhuận lên trên hết. Nhưng nay đã khấm khá rồi, chúng tôi vẫn có mong muốn làm một cái gì đó mang tính “màu cờ sắc áo”.
Tuy tôi kể ra một loạt khó khăn như vậy, nhưng không phải hàng Việt Nam ở Czech không có ưu điểm so với hàng Trung Quốc. Không như hàng Trung Quốc, hàng Việt Nam được người nước ngoài ưa chuộng hơn. Nếu hàng có vấn đề, các doanh nghiệp chúng tôi tự loại trừ, còn hàng bán ra thị trường là hàng tốt. Đối với hàng Trung Quốc thì tốt cũng bán, xấu cũng bán, chỉ cần giảm giá thôi. Cảm nhận của dân Czech nói chung là hàng Trung Quốc rẻ tiền và kém chất lượng.
Tôi không nghĩ lòng tự tôn dân tộc có vai trò hàng đầu, mà thực sự hàng Việt Nam, một khi đã kém chất lượng, là phải vứt đi. Một số bạn bè của tôi buôn hàng may mặc Việt Nam, nếu thấy hàng có lỗi, họ tự sửa ngay trong xưởng may nhỏ của mình. Hay đồ mây tre đan, họ đem phơi, sấy lại, rồi mới mang ra bán.
Còn mong muốn như ông Lộc, tôi nghĩ là hoàn toàn có cơ sở, nếu các cơ quan hữu quan thực sự vào cuộc, tạo thuận lợi cho cả nhà sản xuất lẫn người làm thương mại. Họ cần có chính sách hỗ trợ đầu tư và tạo những đầu mối cung ứng tốt hơn. Lần về này, ngoài việc đi thăm các làng nghề để tìm cách nhập hàng sang Czech, tôi cũng muốn đầu tư sản xuất đồ chơi bằng gỗ, ở những vùng như Tuyên Quang chẳng hạn, theo mô hình tôi đang làm ở Trung Quốc.
|
Hiển thị các bài đăng có nhãn DN-SX-KD. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn DN-SX-KD. Hiển thị tất cả bài đăng
Thứ Sáu, 18 tháng 11, 2011
Chuyện hàng Việt ở Đông Âu
Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011
Biết chọn phần ngon trong miếng bánh
Ngày 20.11.2007, 17:27 (GMT+7)
Thành lập công ty cổ phần cho thuê máy bay: Biết chọn phần ngon trong miếng bánh
Lần đầu tiên một công ty cho thuê máy bay của Việt Nam đã ra đời, nhằm chiếm lĩnh thị phần cho thuê máy bay được coi là có khả năng sinh lợi cao và vẫn đang dành cho các đại gia nước ngoài
Theo tổng giám đốc công ty Trần Long, sau khoảng 12 năm cho thuê là có thể thu hồi lại được vốn, và giá trị còn lại của máy bay vẫn đạt khoảng 50 _ 60% để tiếp tục cho thuê tiếp 8 năm nữa.
Từ tia chớp ý tưởng...
![]() |
Không chỉ là một mô hình máy bay, mà chính là một mô hình làm ăn mới. Ảnh: HN
|
Tổng giám đốc ngân hàng Đầu tư & phát triển (BIDV) Trần Bắc Hà cho biết, quá bức xúc vì món lợi lớn này lại rơi vào túi người nước ngoài, vào một buổi sáng đẹp trời cách đây tám tháng ông đã mang ý tưởng này ra chia sẻ với lãnh đạo Vietnam Airlines và tư tưởng lớn đã gặp nhau. Tối hôm đó, ông Hà đã xin gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng để trình bày và nhận ngay được sự chấp thuận.
Ngay trong buổi ra mắt vào tối 16.11, VALC (Vietnam Aircraft Leasing Corporation) đã ký hợp đồng mua 8 máy bay Boeing 787-8 tầm trung xa với tổng số tiền là 1,42 tỉ USD. Trong đó, theo ông Hà, bảo lãnh tín dụng của Eximbank (Hoa Kỳ) đã lên tới 85%, phía BIDV chỉ phải bỏ ra 10%, còn 5% còn lại huy động từ các ngân hàng khác trong nước. Ngay sau khi ký kết với đại diện hãng Boeing, VALC đã ký tiếp hợp đồng cho thuê 8 chiếc này cho Vietnam Airlines, hãng hàng không cũng vừa ký mua 4 chiếc Boeing cùng loại với những điều kiện tương tự như VALC.
Cũng theo ông Hà, năm 2012 VALC sẽ nhận được chiếc máy bay đầu tiên A321 đầu tiên (công ty này đã đạt được thoả thuận về nguyên tắc mua 10 chiếc A321 với Airbus cách đây một tháng rưỡi, trong chuyến thăm Cộng hoà Pháp của Thủ tướng Việt Nam), và hy vọng năm 2014 sẽ nhận chiếc Boeing Dreamliner đầu tiên, trước khi hoàn tất việc mua sắm cả 18 chiếc máy bay vào năm 2016. Tuy họ nói là sẽ giao chiếc đầu tiên cho VALC vào năm 2016, nhưng chúng tôi đang đàm phán thúc đẩy việc giao hàng sớm hơn, và nguyên tắc đối nội giữa VALC và Vietnam Airlines là ưu tiên cho VALC, ông Hà tiết lộ.
Kể từ nay đến năm 2012, khi trực tiếp sở hữu chiếc máy bay đầu tiên, VALC sẽ tập trung vào những loại hình kinh doanh khác như thuê và cho thuê lại máy bay, mua động cơ và cho thuê, và nhất là kinh doanh hạ tầng kỹ thuật hàng không, bao gồm kinh doanh khai thác sân bay, quản lý, bảo dưỡng và bảo hiểm máy bay, hay đầu tư tài chính... VALC hy vọng những loại hình kinh doanh này sẽ giúp công ty nâng số vốn điều lệ từ 40 triệu USD (640 tỉ VND) hiện nay lên ít nhất 200 triệu USD vào 2015, trước khi tăng lên tối thiểu 1 tỉ USD vào 2025, theo yêu cầu của Chính phủ.
Lợi nhiều phía
VALC hiện có sự tham gia của 5 cổ đông đều là doanh nghiệp nhà nước, chiếm 79% vốn điều lệ, bao gồm Vietnam Airlines (23%), BIDV (20%), Petro Vietnam (17%), Vinashin (11%) và dệt Phong Phú (8%). Với 21% cổ phần còn lại, VALC đang tìm kiếm các nhà đầu tư tổ chức, rất có thể là các đối tác chiến lược nước ngoài, vào năm tới.
Đối với Boeing 787-8, hiện chỉ có hai nhà cung cấp động cơ phù hợp là Roll-Royce và General Electric (GE), và có thể cuộc đấu thầu chọn động cơ sẽ diễn ra vào năm tới. Được biết, GE hiện đang có kế hoạch đầu tư nhiều tỉ USD vào Việt Nam, như trong lĩnh vực tài chính (mua cổ phần các ngân hàng thương mại quốc doanh chuẩn bị cổ phần hoá như Vietcombank), hay sản xuất - chế tạo, kể cả việc xây dựng một nhà máy sản xuất một số bộ phận của động cơ Boeing tại một tỉnh phía Bắc. GE cũng đã công khai ý định muốn đầu tư phát triển hạ tầng sân bay.
Sự tham gia của một trong những nhà sản xuất dệt may hàng đầu Việt Nam vào phi vụ Boeing khiến người ta hy vọng rằng sức ép của việc giám sát chống phá giá mà bộ Thương mại Mỹ đang áp đặt với dệt may xuất khẩu của Việt Nam sẽ được nới lỏng. Nguyên phó thủ tướng Vũ Khoan, trong một cuộc trả lời báo chí nước ngoài liên quan đến chiến dịch tương tự cách đây mấy năm, đã từng nói: Người Mỹ phải hiểu rằng những người công nhân dệt may Việt Nam đã phải gò lưng, toét mắt, may hàng chục triệu chiếc áo sơ mi chỉ để đủ tiền mua một chiếc Boeing.
Huỳnh Phan
Hầu hết các phương án đều trễ
Ngày 12.12.2007, 16:00 (GMT+7)
Chống thiếu điện mùa khô:
Hầu hết các phương án đều trễ
Sau buổi lễ động thổ khu tích hợp đô thị công nghiệp Việt Nam Singapore, phó thủ tướng Hoàng Trung Hải cho SGTT biết, Chính phủ hoàn toàn ý thức được việc thiếu điện mùa khô, và đang cố gắng đưa điện từ Nhơn Trạch, Cà Mau vào lưới điện quốc gia, cũng như khắc phục sự cố Phú Mỹ 2.2 bằng cách thuê máy biến thế từ Singapore.
![]() |
Những phương án được tính đến hầu hết đều phải qua mùa khô. TP.HCM bắt đầu bước vào mùa cúp điện trên diện rộng từ hôm nay. Ảnh: Hồng Thái
|
Chúng tôi biết rằng việc thiếu điện sẽ gây ảnh hưởng đến những dự án đầu tư nước ngoài vào đây, nhu cầu điện sẽ còn tăng mạnh trong thời gian sắp tới, và xác định rằng không còn cách nào khác phải đáp ứng được yêu cầu của họ, quyết không để họ nản lòng mà ra đi, ông Hải nói, giọng đầy tự tin.
Tuy nhiên, những người trực tiếp thực hiện chỉ thị của ông Hải lại không có được sự tự tin như vậy. Theo các chuyên gia dựa theo báo cáo của ban quản lý các dự án điện ở Nhơn Trạch và Cà Mau, các dự án này đều khó đáp ứng được yêu cầu về tiến độ hoàn thành.
Đối với nhà máy nhiệt điện Nhơn Trạch (450MW) đang được liên danh tổng thầu EPC là Lilama và tổng công ty Xây dựng số 1 (CC1) thi công, đánh giá của các chuyên gia trong lĩnh vực xây dựng và vận hành nhà máy điện khí, tiến độ mới nhất mà tổng thầu đưa ra là vận hành thương mại chu trình đơn vào cuối tháng 4.2008 rất khó đạt được.
Trong khi đó, thông tin cập nhật nhất từ nhà máy điện Cà Mau 1 cho thấy chu trình hỗn hợp của nhà máy này sẽ hoà đồng bộ tổ máy tua-bin hơi máy phát điện vào ngày 25.1.2008 và vận hành thương mại chu trình hỗn hợp vào cuối tháng 3.2008.
Đối với nhà máy điện Cà Mau 2, tổng thầu cũng không thể đảm bảo hoàn thành chu trình hỗn hợp với công suất 750MW vào tháng 3.2008 như yêu cầu của hợp đồng tổng thầu EPC, mà phải tới 15.6.2008, chu trình hỗn hợp của nhà máy này mới hoàn thành.
Động thái được coi là sáng sủa nhất trong việc cứu mùa khô 2008, là việc công ty điện lực Phú Mỹ 3 đã quyết định thuê một máy biến áp từ Singapore, thay vì chờ đợi đến tháng 5.2008 sửa xong máy biến áp. Chậm nhất là cuối tháng 1.2008, máy biến áp này sẽ được đưa về để tiến hành lắp đặt, một lãnh đạo công ty này nói.
Khi được hỏi về khả năng thiếu điện ảnh hưởng đến sản xuất, ông Anthony Tan, phó TGĐ VSIP, cho biết theo kinh nghiệm các năm trước, các nhà đầu tư trong khu công nghiệp VSIP Bình Dương, đều không bị cắt điện, do giờ cao điểm về sản xuất không trùng với giờ cao điểm về tiêu dùng, và các nhà sản xuất luôn được EVN ưu tiên, so với người tiêu dùng.
Nhưng ông Tân không trả lời được câu hỏi: Vậy ông nghĩ thế nào nếu một nhà máy ti vi được ưu tiên điện để sản xuất ti vi phục vụ người tiêu dùng, nhưng người tiêu dùng lại không có điện để xem ti vi?
Tôi định hỏi câu này với phó thủ tướng Hoàng Trung Hải, nhưng cận vệ của ông đã giục ông vào xe.
Huỳnh Phan - Hải Yến
Xe bốn bánh gắn máy tìm lối ra cho nghị quyết 32/2007
Ngày 02.06.2010, 09:51 (GMT+7)
Xe bốn bánh gắn máy tìm lối ra cho nghị quyết 32/2007
Kể từ khi ban hành nghị quyết 32/2007 về cấm lưu hành xe ba – bốn bánh tự chế, Chính phủ đã đưa ra một số chính sách hỗ trợ tín dụng cho việc chuyển đổi phương tiện này. Và đến nay, có lẽ vấn đề chuyển đổi sẽ được giải quyết với giải pháp xe bốn bánh gắn máy.
Sản xuất xe bốn bánh gắn máy tại nhà máy của Đức Phương.Ảnh: Huỳnh Phan
|
Quyết định 1491/QĐ-TTg tháng 11.2007, đưa ra mức hỗ trợ 9 triệu đồng để mua ôtô tải nhẹ của công ty TMT cho các hộ nông dân, đã gây những phản ứng mạnh mẽ trong các nhà sản xuất ôtô tải khác. Trong khi đó, quyết định mới đây của Chính phủ, cho phép hộ nông dân vay 100% giá trị xe từ ngân hàng nông nghiệp và hưởng hỗ trợ 100% lãi suất trong vòng hai năm, khi mua xe bốn bánh có động cơ của tập đoàn ôtô – xe máy Đức Phương, lại chưa thấy điều tiếng gì. Lý do khá đơn giản. Nếu quyết định đầu tiên là sự thiên vị cho một công ty nhà nước, thì quyết định thứ hai là sự công nhận và khuyến khích đúng lúc cho một giải pháp khả thi của một doanh nghiệp tư nhân cho việc thực hiện nghị quyết 32/2007 của Chính phủ.
Tiện nhiều bề cho nông dân
Ông Vũ Khắc Chiến, giám đốc điều hành Đức Phương, cho biết rằng, kể từ đầu năm 2010, Đức Phương đã lắp ráp được khoảng 2.000 xe bốn bánh gắn máy hiệu Damsel, và đã bán được hơn một nửa. “Chỉ riêng giá bán chỉ 50 – 55 triệu đồng, so với khoảng 100 triệu đồng của một chiếc ôtô tải loại 5 tạ, lại tiết kiệm nhiên liệu hơn, không bán chạy mới lạ”, ông Chiến nói, cho biết thêm rằng sự hỗ trợ tín dụng của Chính phủ cũng là một yếu tố giúp xe Damsel bán chạy hơn.
Ông Chiến giải thích rằng, sở dĩ giá xe rẻ bởi động cơ xe máy (250 phân khối của hãng Zongsheng – Trung Quốc) chỉ chiếm 50% giá thành xe, còn động cơ ôtô trong chiếc ôtô tải loại trọng tải 5 tạ trên thị trường chiếm tới 70% giá thành xe. “Theo đánh giá của trung tâm Thử nghiệm quốc gia Trung Quốc, độ an toàn của xe Damsel, cũng điều khiển bằng vô lăng, không hề kém ôtô tải nhẹ”, ông Chiến khẳng định, tuy vẫn thừa nhận rằng độ bền của Damsel chắc chỉ bằng khoảng 70 – 80% so với ôtô tải nhẹ.
Một tiện lợi nữa cho người sử dụng xe Damsel, theo ông Chiến, là khi có hỏng hóc, việc sửa chữa cũng đỡ gây tốn kém hơn. Nhưng, có lẽ điều khiến người nông dân cảm thấy thoải mái nhất là điều khiển xe Damsel, họ chỉ cần lấy bằng lái xe loại A4, thay vì B1, hay B2, khi điều khiển ôtô tải nhẹ.
Bắt đầu từ máy Trung Quốc
Với mục tiêu thay thế các loại xe cơ giới ba – bốn bánh tự chế, theo tinh thần nghị quyết 32/2007, một chương trình nghiên cứu sản xuất, lắp ráp và tiêu thụ thí điểm loại xe bốn bánh đã được thực hiện thí điểm từ tháng 5.2009, với duy nhất Đức Phương được lựa chọn. Tất nhiên, theo ông Chiến, đây là một câu chuyện dài. Nhưng cái cốt lõi nhất là ý tưởng của ông tổng giám đốc Vũ Đình Ngọc.
Thấy loại xe ba bánh loại 5 tạ nhập ngoại, tuy giá thành khá hợp lý để thay thế xe ba – bốn bánh tự chế, bị các cơ quan chức năng đánh giá chưa đủ độ an toàn và không cho phép lưu hành, ông Ngọc chợt nghĩ rằng tại sao lại không nghĩ cách cải tiến lên xe bốn bánh. Ông qua Trung Quốc, nơi sản xuất loại xe này, và phát hiện ra rằng ở Trung Quốc loại xe bốn bánh với công năng tương tự dành cho người nông dân chủ yếu dùng động cơ điện.
Ông đề nghị luôn với các nhà sản xuất Trung Quốc nghiên cứu hộ loại xe bốn bánh chạy bằng động cơ xe máy, trên cơ sở hình dáng và thiết kế thùng của xe tải điện. Năm tập đoàn của Trung Quốc đã tham gia vào quá trình này. Và kết quả là bốn mẫu xe đã được Đức Phương chọn để sản xuất, với một loại động cơ xe máy được dùng chung là của tập đoàn Jongsheng. Cuối tháng 5, xe bốn bánh gắn máy đã qua đăng kiểm kiểm định và được phép lưu thông.
Đến nội địa hoá
Từ tháng 6 này, Đức Phương sẽ bắt đầu quá trình nội địa hoá xe Damsel, với việc tự sản xuất khung xe, và thay lốp Trung Quốc bằng lốp Casumina. Đến cuối năm, sau khi đã nhập xong máy đột dập của Trung Quốc, Đức Phương sẽ tự dập vỏ xe. “Sau đó, chúng tôi sẽ tiếp tục sản xuất nhíp”, ông Chiến tiết lộ.
Tuy được vay ưu đãi để nhập linh phụ kiện lắp ráp, Đức Phương phải tự bỏ 70 tỉ đồng để nhập dây chuyền điện ly và sơn từ Trung Quốc. Tổng đầu tư vào thiết bị sẽ lên tới 100 tỉ khi họ nhập thiết bị đột dập vào cuối năm nay.
Theo ông Chiến, số tiền đó không hề nhỏ, nhưng chưa phải là mối quan tâm lớn nhất của Đức Phương. Điều nhà sản xuất này lo ngại nhất là quyền thí điểm độc quyền của họ chỉ đến cuối năm nay là kết thúc.
“Một số đại gia sản xuất xe tải, trong đó có Trường Hải, đã chuẩn bị nhảy vào phân khúc này”, ông Chiến nói.
Tuy nhiên, Đức Phương vẫn hy vọng rằng sự cạnh tranh trong năm tới cũng chưa quá gắt gao. “Loại xe này được phép chạy trong thành phố, tất nhiên đừng mò ra đường cao tốc, nên khách hàng chắc chắn không chỉ là nông dân”, ông Chiến nói.
BÀI VÀ ẢNH: HUỲNH PHAN
Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011
Xuất khẩu sang Nga cần chuyên nghiệp
Ngày 18.12.2009, 07:30 (GMT+7)
Xuất khẩu sang Nga cần chuyên nghiệp
SGTT - Sau cuộc hội đàm với người đồng cấp phía Nga tối 15.12, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng cho biết Việt Nam và Nga sẽ nghiên cứu để chuẩn bị đàm phán một hiệp định thương mại song phương, nhằm tạo điều kiện thuận lợi và thúc đẩy mạnh mẽ quan hệ thương mại và đầu tư giữa hai nước.
![]() |
Thuỷ sản là một trong những mặt hàng giàu tiềm năng xuất khẩu sang Nga. Ảnh: Lê Quang Nhật
|
Trước mắt, để nâng kim ngạch thương mại hai chiều lên 10 tỉ USD trong vài năm tới, và tránh nguy cơ kéo theo sự tăng mạnh nhập siêu từ Nga, chủ yếu do các hợp đồng khổng lồ mua vũ khí và thiết bị quân sự vừa được chính thức ký kết, Thủ tướng Putin cũng hứa sẽ tạo điều kiện thuận lợi để hàng hoá Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Nga, và cả khu vực Cộng đồng các quốc gia độc lập (SNG).
Tuy nhiên, trước khi chờ đợi các giải pháp ở tầm nhà nước kể trên có hiệu lực, các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam vẫn phải tìm những con đường khả thi để tiếp cận thị trường rất to lớn và tiềm năng này.
Nhiều trở ngại
Bởi xuất khẩu thuỷ sản sang Nga năm 2008 đạt 200 triệu USD, bằng gần 20% xuất khẩu thuỷ sản vào thị trường EU gồm 27 nước.
Tuy nhiên, việc tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Nga năm 2008 chỉ dừng ở mức 670 triệu USD là một câu hỏi lớn đối với các nhà xuất khẩu Việt Nam, nhất là đối với một thị trường được coi là truyền thống và sức mua tăng rất mạnh như Nga.
Một nguyên nhân khiến các nhà xuất khẩu ngại bán hàng vào thị trường Nga, theo đại diện ngân hàng liên doanh Việt – Nga (VRB), là trong số họ, có những người khi tự tìm đường sang Nga đã gặp những rủi ro nhất định. Theo một khảo sát do VRB tiến hành, một số nhà xuất khẩu sang Nga nói rằng họ bị đối tác dây dưa trong việc thanh toán, hay thậm chí còn không thu hết được tiền hàng.
“Nguyên nhân chính là thay vì áp dụng thông lệ thanh toán an toàn quốc tế là mở L/C, các nhà nhập khẩu Nga thường chọn cách thanh toán trực tiếp. Họ đặt cọc 20 – 30% tổng giá trị hợp đồng, và hứa thanh toán nốt sau khi nhận được toàn bộ lô hàng”, ông Phạm Văn Minh, phó giám đốc sở Giao dịch VRB, giải thích.
Ông Makcimov, phó chủ tịch RBS, công ty tư vấn lớn nhất nước Nga với hơn 15 năm kinh nghiệm tư vấn đầu tư – thương mại nhìn nhận theo hướng khác. Theo ông, quan hệ giữa hai nhà nước, về cơ bản, đã thay đổi, nên các nhà xuất khẩu Việt Nam không thể bán hàng vào Nga theo phương thức cũ được nữa. Ông còn cho rằng bản thân thị trường Nga cũng trở nên kỹ tính hơn, nên Việt Nam không thể bán hàng sang Nga mà không quan tâm đến chất lượng, mẫu mã và bao bì.
Bán hàng không lấy được tiền
Giám đốc một doanh nghiệp xuất khẩu cá tra ở Đồng Tháp cho biết, đang rất lo lắng về khoản tiền 2 triệu đôla mà khách hàng Nga còn nợ sau những hợp đồng mua hàng cá tra philê của công ty. “Họ vu khống cho lô hàng bị thiếu ký, cứ một thùng 20kg philê cá tra họ nói rằng thiếu mất 1 hoặc 2kg. Họ thông báo thì mình biết vậy thôi chứ công ty không thể cử người sang theo dõi, giám sát tháo niêm phong chì được nên đành chịu”, vị giám đốc kể trên nói.
Hoàng Bảy
|
Ông cũng cho biết rằng tuy thị trường Nga rất rộng lớn, các nhà xuất khẩu Việt Nam đã không tìm được nơi cần bán những hàng hoá của mình. “Chẳng hạn, với đồ thuỷ sản đông lạnh, bạn chỉ có thể bán ở các thành phố lớn, chứ mang về vùng quê rất khó, bởi đó là thứ hàng đắt tiền, lại dễ hỏng”, ông nêu ví dụ.
Vào thị trường qua những kênh chuyên nghiệp
VRB, theo ông Minh, đã được thành lập năm 2006 theo thoả thuận của hai chính phủ nhằm thúc đẩy quan hệ đầu tư – thương mại giữa hai nước, sẽ cung cấp các dịch vụ ngân hàng và sản phẩm thanh toán phù hợp với thị trường Nga, nhằm giảm thiểu rủi ro cho doanh nghiệp. “Ngân hàng VRB Moscow, do VRB đầu tư 100% vốn, sẽ phối hợp với ngân hàng Ngoại thương Nga (VTB) – đối tác Nga trong liên doanh VRB – giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam xử lý các tình huống phát sinh trong thực tế”, ông Minh nói.
Ông Minh cũng khuyên các nhà xuất khẩu Việt Nam nên ưu tiên chọn các đối tác nhập khẩu bên Nga là khách hàng, hay đối tác của VTB, hay VRB Moscow. “Đơn giản bởi vì, trước đó, chúng tôi đã tìm hiểu năng lực tài chính của họ”, ông Minh giải thích. Ông Makcimov cũng đồng ý với ý kiến này, khi cho rằng việc tìm được đối tác tốt sẽ giúp các nhà xuất khẩu Việt Nam đỡ tốn thời gian tìm hiểu thị trường. “Những người mua buôn với số lượng lớn là một kênh bán hàng tốt”, ông Makcimov nói.
Ông Maksimov cho biết RBS sẵn sàng cung cấp các dịch vụ tư vấn, từ cung cấp thông tin về thị trường, tìm đối tác, đến giải quyết thủ tục về pháp lý, thậm chí tố tụng khi có tranh chấp, cho các nhà xuất khẩu Việt Nam.
Huỳnh Phan
Công nghệ sạch – một công đôi việc
Ngày 11.12.2009, 15:55 (GMT+7)
Công nghệ sạch – một công đôi việc
SGTT - Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang Copenhaghen dự hội nghị thượng đỉnh toàn cầu về biến đổi khí hậu (16 – 18.12) không có các doanh nghiệp tháp tùng. Nhưng vẫn có những doanh nghiệp Việt Nam quan tâm đến kết quả của hội nghị này. “Copenhaghen, nhu cầu mua chứng nhận giảm phát thải (CER) sẽ tăng lên, và CER của mỏ Rạng Đông cũng tăng giá”, tổng giám đốc công ty Đức Việt, Mai Huy Tân nhận xét.
Theo Văn phòng Chính phủ, 350 ngàn CER từ dự án thu hồi và sử dụng khí đồng hành mỏ Rạng Đông (Bà Rịa – Vũng Tàu), sẽ được đem ra bán đấu giá tại Hà Nội trong tháng 12 này. Tổng công ty cổ phần Tài chính dầu khí, đơn vị tổ chức đấu giá, đã nhận được hơn 10 thư bày tỏ từ người mua là các ngân hàng và tổ chức hoạt động công nghiệp thuộc EU và Mỹ.
Mỗi CER tương đương với việc giảm phát thải một tấn khí gây hiệu ứng nhà kính. Với chi phí thực hiện dự án là 73 triệu USD để giảm 6,74 triệu tấn CO2 trong thời gian 10 năm, các bên tham gia dự án khí đồng hành ở Rạng Đông có thể thu về khoảng 200 triệu USD, nếu giá được giữ ở mức 24 euro/tấn CO2.
Lợi ích của CDM
Các chuyên gia môi trường ước tính các dự án công nghệ sạch (CDM) ở Việt Nam có thể khiến các bên tham gia thu được khoảng 250 triệu USD chỉ đến cuối năm 2010.
Theo Nghị định thư Kyoto, có hiệu lực từ đầu năm 2005, các quốc gia thành viên phải cắt giảm phát thải khí nhà kính xuống 5% so với mức phát thải năm 1990. Có ba cơ chế mềm dẻo cho các nước công nghiệp hoá thực hiện mục tiêu khó khăn này là đồng thực hiện, buôn bán quyền phát thải, và phát triển sạch. Trong khi hai cơ chế đầu là chuyện riêng giữa các nước công nghiệp phát triển với nhau, thì cơ chế thứ ba là một cơ hội lớn cho những nước đang phát triển.
Với cam kết phải cắt giảm khí nhà kính, các nước công nghiệp hoá, trong nhiều trường hợp, thay vì phải đầu tư để cải tiến công nghệ với chi phí rất tốn kém, họ đã tiến hành đầu tư những dự án CDM ở những nước đang phát triển với chi phí thấp hơn. Đổi lại, các doanh nghiệp đầu tư nhận được chứng chỉ CER để áp dụng vào chỉ tiêu cắt giảm phát thải ở quốc gia mình.
Ở Việt Nam, đã có dự án CDM của hai công ty Nhật Bản là Mitsui và Marubeni tại Mạo Khê. Các công ty thép Hàn Quốc cam kết đầu tư công nghệ finex ở Việt Nam cũng theo định hướng này. Hay các đoàn doanh nghiệp của Đan Mạch, Phần Lan sang Việt Nam cũng giới thiệu nhiều về công nghệ sạch để cùng tìm các cơ hội hợp tác liên doanh với các công ty nội địa.
Chính phủ Việt Nam cũng không phải chưa quan tâm đến lợi ích này, ngoài lợi ích lâu dài của phát triển bền vững.
Trong Quyết định 130, được ban hành năm 2007, Thủ tướng đã quy định các ưu đãi về các loại thuế, tiền thuê đất… cho doanh nghiệp tham gia dự án CDM. Cho đến nay, ngoài dự án ở Rạng Đông, do sự nghiêm ngặt trong phê chuẩn các dự án CDM, mới chỉ có một số dự án được phê chuẩn như ở hiệu quả sử dụng năng lượng ở nhà máy bia Thanh Hoá, thu gom khí metal (CH4) và phát điện ở Gò Cát (TP.HCM), và khoảng chục dự án khác ở dạng tiềm năng.
Đức Việt là một trong những trường hợp như vậy.
Đức Việt và dự án biogas
Giữa tháng 1.2010, ông Mai Huy Tân – người là chủ đề tài cấp bộ về xây dựng chính sách giá năng lượng trước khi rời bộ Năng lượng năm 1992 – sẽ sang Đức dự Tuần lễ xanh Berlin, và tham dự diễn đàn kinh tế Đức – Việt Nam. Ở đó, ông sẽ có cuộc gặp với lãnh đạo quỹ Carbon Fund, thuộc ngân hàng KFW. “Họ biết chúng tôi đang chuẩn bị triển khai dự án nuôi lợn và xử lý toàn bộ chất thải theo công nghệ biogas của Đức, nên muốn đàm phán mua lại toàn bộ chứng nhận giảm phát thải của chúng tôi”, ông kể.
Theo ông, một dự án của công ty Đức Việt với 600 heo nái (giống Canada) và 12 ngàn heo thịt một năm, có thể cho khoảng trên dưới 50 ngàn chỉ tiêu CER. Với module đầu tiên thực hiện vào năm tới với tổng mức đầu tư khoảng 2,5 triệu USD cho chuồng trại, heo giống, công nghệ xử lý biogas để phát điện, ông hy vọng sẽ đạt được 10 module. “Sau 10 năm, chỉ tiêu giảm phát thải của tôi tương đương với nửa triệu tấn khí CO2”, ông nói.
Cùng với công ty Đức, còn có một công ty Nhật là đối tác với Đức Việt cũng muốn đàm phán mua chỉ tiêu này. “Người Đức tuy trả giá không cao như người Nhật, nhưng, bù lại, họ lại ứng trước tiền cho mình đầu tư, và trừ dần vào tiền bán CER”, ông cho biết.
Nhưng ông cho rằng điều quan trọng hơn là năng lượng được sản xuất ra từ chất thải của các trang trại heo theo công nghệ biogas. Theo tính toán của vị tiến sĩ, nguyên là chuyên gia bộ Năng lượng (cũ), mỗi module sẽ phát ra một sản lượng điện năng và nhiệt năng là 2,5 triệu kWh/năm, và 10 module là 25 triệu kWh/năm.
“Nếu Việt Nam áp dụng mô hình nuôi lợn theo trang trại và sản xuất biogas, chỉ cần 40 triệu con lợn là có thể thay thế nhà máy điện hạt nhân ở Ninh Thuận với mức đầu tư chỉ dưới 1/10”, ông Tân kết luận.
Huỳnh Phan
Muốn trở thành nhà cung cấp cho Nhật?
Ngày 17.11.2009, 07:58 (GMT+7)
Muốn trở thành nhà cung cấp cho Nhật?
SGTT - Ông Nguyễn Tiến Dũng, giám đốc công ty Hùng Dũng, đã rất vui khi được nhà lắp ráp điện tử hàng đầu thế giới Canon quan tâm. Nhưng ông vẫn biết rằng, ngoài việc nỗ lực nghiên cứu làm thử các linh kiện, bảng mạch theo yêu cầu của Canon, công ty ông phải cải thiện sự sắp xếp, bố trí nhà xưởng để hoàn toàn lọt vào “mắt xanh” của họ.
Hùng Dũng chưa áp dụng mô hình quản lý Kaizen/5S. “Việc có hay không có những kiến thức về điều hành nhà máy (5S), hay cải tiến (Kaizen) là yếu tố cực kỳ quan trọng trong khả năng kết nối với các nhà lắp ráp Nhật, bởi các nhà sản xuất Nhật rất coi trọng điều này“, giám đốc dự án thuộc văn phòng Jetro Hà Nội, Keisuke Kobayashi nói.
Công ty BA AN, chuyên sản xuất ống nhựa xoắn với nhãn hiệu Thăng Long, được mời đến dự triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội lần thứ ba, với tư cách một công ty áp dụng thành công phương thức quản lý Kaizen/5S. Doanh thu của công ty mới được thành lập hơn năm năm này đã tăng từ 12 tỉ đồng năm 2006 lên 52 tỉ đồng chỉ trong 10 tháng năm 2009.
Người Nhật đã đề ra triết lý quản lý Kaizen với nội dung 5S (dịch tương đương tiếng Việt là Sàng lọc - Sắp xếp - Sạch sẽ - Săn sóc và Sẵn sàng. Mục tiêu của phương pháp quản lý này là nhằm tăng năng suất và năng lực cạnh tranh nhờ giảm thiểu những lãng phí bao gồm sản xuất dư thừa, khuyết tật sản phẩm, tồn kho, di chuyển bất hợp lý, sự chờ đợi giữa các khâu, thao tác thừa của công nhân hay máy móc…
“Việc áp dụng những công cụ quản lý tiên tiến như Kaizen/5S, hay một số công cụ khác, đã giúp công ty chúng tôi chiếm được niềm tin của các nhà thầu chính, và được tham gia vào các công trình lớn như trung tâm hội nghị quốc gia, cầu Thanh Trì, hay hạ ngầm hệ thống cáp điện và cáp thông tin Hà Nội”, ông Ngô Kiên Cường, tổng giám đốc BA AN, người trực tiếp tham dự một khóa học về thực hành cải tiến hiện trường do hiệp hội Tu nghiệp kỹ thuật hải ngoại (AOTS) tổ chức vào tháng 4.2007 tại Nhật Bản, nói.
Chương trình AOTS (thuộc bộ Kinh tế và công thương Nhật Bản) là nơi tiếp nhận kỹ thuật viên và nhà quản lý các nước đang phát triển sang Nhật học với tư cách tu nghiệp sinh.
Kể từ năm 1977, AOTS đã đưa ra hình thức mới là tu nghiệp hải ngoại đối với Nhật Bản, hay tu nghiệp tại chỗ đối với các nước thụ hưởng, thông qua việc mời các chuyên gia từ Nhật qua đào tạo theo nhu cầu của từng công ty. “Ngoài giảm chi phí, cái hay của chương trình này là cùng một lúc có thể chuyển giao kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý cho nhiều người, và rút ngắn thời gian tu nghiệp”, ông Kondo nhận xét.
Trong khoá học ứng dụng Kaizen/5S diễn ra ngày 19.8.2008, ngay tại nhà máy của BA AN, toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty này đã được tham dự.
Huỳnh Phan
Nỗ lực từ một phía
Ngày 13.11.2009, 10:25 (GMT+7)
Phát triển công nghiệp hỗ trợ
Nỗ lực từ một phía
SGTT - Triển lãm Công nghiệp hỗ trợ lần thứ ba, khai mạc ngày 12.11.2009 tại Hà Nội, đã có sự tham gia của 54 công ty Nhật Bản giới thiệu sản phẩm cần mua, và 62 công ty Việt Nam giới thiệu sản phẩm cần bán. “So với triển lãm diễn ra cách đây hai năm, số lượng doanh nghiệp cả hai phía tham gia cũng không mấy thay đổi.
![]() |
Khách hàng Nhật đang xem sản phẩm trước khi ký hợp đồng
|
Nhưng khác biệt lớn nhất ở lần này là chúng tôi đã điều tra trước năng lực của các nhà cung cấp phía Việt Nam rồi mới gửi thư mời họ tham gia, và vì vậy khả năng kết nối giữa người mua và người bán chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều”, ông Keisuke Kobayashi, giám đốc dự án thuộc văn phòng JETRO Hà Nội, nhận xét. Ông Kobayashi cho biết thêm triển lãm lần này là một trong những bước đầu tiên thực hiện hiệp định đối tác kinh tế Việt – Nhật (VJEPA), có hiệu lực từ đầu tháng trước.
Tuy nhiên, trong cuộc hội thảo về chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, diễn ra bên lề triển lãm, vào sáng 12.11, những người tham dự lại không cảm thấy những thay đổi mang tính khác biệt.
Việt Nam vẫn chưa mặn mà với công nghiệp hỗ trợ
Bí thư thứ hai đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam Ryosuke Fujii đã sang Việt Nam được hai năm, với tư cách đại diện bộ Kinh tế – thương mại và công nghiệp Nhật Bản phụ trách thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ. Ông đã chứng kiến nhiều thay đổi trong chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. “Nhưng có những câu hỏi chính vẫn chưa được trả lời là những lĩnh vực nào cần phát triển, phát triển như thế nào, đến khi nào xong, do ai thực hiện, và nguồn vốn ở đâu. Tất cả những cái đó được phía Nhật đưa ra trong dự thảo kế hoạch hành động để phía Việt Nam tham khảo, bổ sung và thông qua”, ông Fujii nói.
Nhưng ông Fujii cảm thấy hơi thất vọng, khi kế hoạch hành động này, cũng như nghị định Chính phủ về ưu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợ, vẫn chưa được thông qua cho tới thời điểm hội thảo công nghiệp hỗ trợ này diễn ra. Ông Fujii cho rằng cho đến nay việc thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam gần như là nỗ lực đơn phương của phía Nhật Bản.
Trong vòng một tháng rưỡi, kết hợp với công ty V-MEX, một công ty chuyên điều tra của Nhật Bản, Jetro đã gửi phiếu điều tra tới 297 doanh nghiệp ở miền Bắc và miền Trung, và nhận được kết quả từ 164. Trên cơ sở đó, họ đã đi khảo sát 149 doanh nghiệp, và cuối cùng chọn ra 100 doanh nghiệp xuất sắc nhất để in thành sách giới thiệu với các nhà lắp ráp Nhật Bản, và 34 doanh nghiệp trong danh sách này đã tham dự triển lãm.
|
“Khó khăn mấu chốt ở đây dường như là sự khác biệt về văn hoá. Bộ Công thương Việt Nam, dù rất nỗ lực, nhưng đã không thuyết phục được Chính phủ Việt Nam cấp vốn để thực hiện việc hỗ trợ cho ngành công nghiệp hỗ trợ, cũng như sự hợp tác cần thiết của các bộ ngành khác”, ông Fujii nhận xét. Ông cho biết thêm rằng ưu đãi về thuế, một trong những điểm mấu chốt của nghị định, vẫn chưa được bộ Tài chính Việt Nam chấp thuận, vì họ cho rằng quy định ưu đãi thuế là chuyện của luật chứ không phải nghị định.
Phó vụ trưởng Công nghiệp nặng, bộ Công thương Ngô Văn Trụ, chia sẻ thêm: “Dự thảo nghị định chúng tôi đã hoàn tất từ hồi tháng 6, nhưng theo quy định phải đưa sang bộ Tư pháp thẩm định. Sau ba tháng, vừa rồi họ mới yêu cầu chúng tôi làm rõ một số vấn đề mang tính pháp lý, như sự cần thiết phải có nghị định khi chưa có luật về công nghiệp hỗ trợ”. Tuy nhiên, ông Trụ vẫn tin rằng muộn nhất thì nghị định này sẽ được thông qua vào cuối năm nay, với các ưu đãi về công nghệ, hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, và nhất là thuế, cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Nhật Bản tiếp tục nỗ lực đơn phương
Theo Jetro, các doanh nghiệp Nhật rất kỳ vọng vào sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam trong những năm tới. Theo kết quả phỏng vấn gần đây của Jetro tại Trung Quốc và Thái Lan, có những nhà lắp ráp lớn của Nhật Bản tại đó đã coi Việt Nam là địa chỉ đầu tư tiếp theo, do chi phí nhân công ở hai nước này tiếp tục tăng cao. Jetro cũng cho biết rằng trong những tháng vừa rồi đã có những làn sóng ngầm xem xét đầu tư vào Việt Nam của các doanh nghiệp nội địa Nhật Bản, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương, trong trào lưu mới là toàn cầu hoá hoạt động của mình.
Ông Fujii thì lại nhấn mạnh tới một nguy cơ khác, nếu Việt Nam không nhanh chóng phát triển công nghiệp hỗ trợ. “Đến năm 2018, hiệp định Thương mại tự do ASEAN (AFTA) sẽ chính thức có hiệu lực đầy đủ, và khi đó thuế suất nhập phụ tùng, linh kiện từ các nước ASEAN khác vào Việt Nam sẽ bị bãi bỏ. Không có đủ những nhà cung cấp, Việt Nam sẽ mất các lợi thế tương đối của mình, và không loại trừ là nhiều nhà lắp ráp sẽ bỏ sang các nước khác, để lại một mất mát lớn cho nền kinh tế Việt Nam”, ông Fujii giải thích.
Theo ông Fujii, thời gian không còn nhiều, nên chắc chắn Việt Nam không thể làm tất cả, mà phải chọn ngành chiến lược trong công nghiệp hỗ trợ, để tập trung hỗ trợ. Ông Fujii cho biết phía Nhật Bản đang thu thập các yêu cầu của các doanh nghiệp Nhật xem họ cần Việt Nam phát triển những ngành công nghiệp hỗ trợ nào, những sản phẩm nào, và, muộn nhất đến đầu sang năm, bảng điều tra này sẽ được công bố. Tuy nhiên, ông Fujii cũng hé lộ những lĩnh vực mà các nhà sản xuất Nhật Bản quan tâm trong ba – năm năm tới, bao gồm dệt may, xe hai bánh, điện gia dụng, gia công kim loại, thiết bị văn phòng, thiết bị vệ sinh và ô tô.
Cũng theo đại diện bộ Kinh tế, công nghiệp và thương mại Nhật Bản (METI) tại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, bộ Công thương Việt Nam có thể hy vọng vào sự hỗ trợ tài chính từ Chính phủ Nhật Bản cho việc thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ. “Đằng nào thì trong hiệp định Đối tác kinh tế Nhật – Việt phía Việt Nam đã yêu cầu chúng tôi giúp họ làm việc này”, ông Fujii nói.
Ông Fujii cũng cho biết rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phát triển công nghiệp phụ trợ cũng có thể hy vọng vào các khoản tín dụng ưu đãi, thông qua ODA, từ chính phủ Nhật Bản. “Tháng trước một khoản ODA giá trị 117 triệu USD đã được thông qua và chuyển cho ngân hàng Phát triển Việt Nam, và tôi hy vọng trong những năm tới công việc này sẽ được tiếp tục”, ông Fujii nói.
Huỳnh Phan
Lấy lắp ráp nuôi giấc mơ sản xuất xe hơi
Ngày 11.11.2009, 16:45 (GMT+7)
Lấy lắp ráp nuôi giấc mơ sản xuất xe hơi
SGTT - Ông Bùi Ngọc Huyên được Jetro mời tham gia hội chợ Công nghiệp phụ trợ Hà Nội lần thứ ba, được tổ chức vào ngày 12 và 13.11.2009, bởi một số doanh nghiệp Nhật Bản đang định đặt hàng Vinaxuki. Từ nhà lắp ráp đến nhà sản xuất và cung cấp là một chặng đường dài...
![]() |
Công nghiệp xe hơi vẫn chủ yếu là lắp ráp. Ảnh: TL
|
Năm 2004, Chính phủ Việt Nam cho phép hai công ty tư nhân là Xuân Kiên và Trường Hải được phép sản xuất – lắp ráp xe hơi trễ chín năm kể từ khi có liên doanh xe hơi đầu tiên với nước ngoài. Ông Bùi Ngọc Huyên, tổng giám đốc Xuân Kiên – Vinaxuki, nhớ lại: “Tôi đã phải chạy khắp sáu cửa trong suốt một năm trời, và Thủ tướng chỉ đặt bút phê duyệt khi bộ luật Doanh nghiệp thống nhất sắp ra đời (năm 2005), xác lập quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế. Nếu Nhà nước cho Vinaxuki ra đời cách đó năm năm, tôi đã có thể thu hồi vốn vào lúc đó, và Việt Nam đã có xe hơi giá rẻ”.
Lắp ráp: lấy ngắn nuôi dài
Vinaxuki đã bắt đầu quá trình kinh doanh của mình với việc lắp ráp xe tải nhẹ, tải trung, rồi bán tải, trước khi lắp ráp xe con và tải nặng. “Giấc mơ từ lâu của tôi là sản xuất xe mang nhãn hiệu Việt Nam, nhưng phải lắp ráp để lấy ngắn nuôi dài, và cũng là từng bước mình làm quen với kỹ thuật sản xuất xe hơi”, ông Huyên nói. Ông cho biết đối với linh phụ kiện nhập khẩu từ Trung Quốc, ông chỉ chọn những nhà máy dùng công nghệ Mỹ, Đức, hay Nhật Bản, để đảm bảo uy tín cho sản phẩm mang nhãn hiệu riêng của Vinaxuki sau này.
Khi khánh thành nhà máy Song Lộc (Thanh Hoá), nhà máy lắp ráp xe tải nặng đầu tiên do trong nước đầu tư hoàn toàn với 14 mẫu và tỷ lệ nội địa hoá khoảng 20%, ông Huyên cho biết mục tiêu của Vinaxuki là tăng tỷ lệ nội địa hoá lên 50–60% vào cuối năm 2011 với tất cả các loại xe, kể cả xe con. Vinaxuki hiện đã xây dựng được xưởng hàn than vỏ xe, cabin xe, thùng hàng và khung gầm, xưởng cắt, dập ép ở Đông Anh, và đang xây dựng nhà máy khuôn mẫu, trong đó có trung tâm thiết kế khuôn mẫu và sản phẩm cơ khí chính xác ở Thái Nguyên. Vinaxuki đã có quan hệ hợp tác với hãng ABB (Thuỵ Điển), chuyên về robot, Mitsubishi (Nhật Bản), chuyên về máy công cụ hạng nặng, và nhất là tập đoàn Nagara (Nhật), chuyên về thiết kế và đúc khuôn mẫu.
“Toyota họ nói với tôi rằng, công nghệ làm cabin là phức tạp nhất trong quá trình chế tạo một chiếc xe, và cũng là công đoạn quan trọng nhất để tạo một thương hiệu riêng”, ông Huyên kể lại. Ông cho biết riêng việc thiết kế và đúc khuôn để dập một mẫu cabin thường mất tới 2,5 – 3 năm.
Ông cũng từng liên hệ với các nhà cung cấp của Honda, hay Toyota, tại các nước ASEAN, hay Đài Loan, nhưng họ cho biết đây là những công ty có cổ phần của các hãng trên và chỉ được cung cấp theo kiểu độc quyền. “Họ bảo, nếu muốn họ cung cấp cho Vinaxuki, chúng tôi phải cùng họ góp vốn lập công ty mới. Tôi nghĩ, thôi mình tự làm cho khoẻ”, ông Huyên nói.
Những rào cản
“Để tiếp tục những dự án kể trên, tôi cần một khoản vay trung hạn khoảng 400 tỉ đồng, bên cạnh 800 tỉ đồng công ty tái đầu tư từ nguồn lợi nhuận và khấu hao tài sản cố định”, ông Huyên nói tiếp.
Tuy nhiên, theo ông Huyên, chính sách đất đai của Việt Nam luôn là sự cản trở lớn, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, và khiến vốn đầu tư hạ tầng bị đội lên quá cao.
Theo ông Huyên, dường như chưa có thống nhất về chủ trương phát triển ngành công nghiệp xe hơi. “Bộ Công thương thì ủng hộ, nhưng bộ Tài chính lại đánh thuế cao. Chẳng hạn xe tải là công cụ sản xuất lại chịu thuế giá trị gia tăng tới 10%”, ông Huyên dẫn chứng.
Chủ trương nội địa hoá, trên văn bản, chính phủ ủng hộ, nhưng thực tế lại khác. “Cách đây hai năm, khi có chủ trương thay xe công nông và xe tải cũ ở 22 tỉnh, thay vì đấu thầu công khai và ưu tiên cho các doanh nghiệp có tỷ lệ nội địa hoá cao, Chính phủ lại chọn công ty Cửu Long thuộc Vinamotor là doanh nghiệp nhà nước, và hỗ trợ cho họ chín triệu đồng mỗi xe, mặc dù ai cũng biết xe họ giá thì cao mà tỷ lệ nội địa hoá thấp”, ông Huyên bức xúc.
Bất chấp những bức xúc kể trên, ông già đã xấp xỉ thất tuần này vẫn một mình tiếp tục mơ giấc mơ “xe hơi thương hiệu Việt Nam”. Ông biết mình có thể hy vọng từ sự trợ giúp của Chính phủ Nhật Bản, thông qua chương trình hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ. Toyota đã đặt hàng ông gia công khuôn mẫu, và hay vài doanh nghiệp khác đã dạm đặt hàng đúc khuôn mẫu, và những chi tiết bằng gang, kể cả thân máy, khi quá trình chuyển giao công nghệ được hoàn tất.
“Tôi nghĩ với tổng cộng 10 nhà máy được xây dựng sau 2 – 3 năm nữa (hiện nay là 4 nhà máy), ngoài việc tăng tỷ lệ nội địa hoá, Vinaxuki sẽ trở thành nhà cung cấp cho các công ty Nhật ở đây, cũng như những doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp xe hơi”, ông Huyên khẳng định.
Huỳnh Phan
Chỗ đứng từ linh kiện thay thế
Ngày 20.10.2009, 14:09 (GMT+7)
Câu chuyện doanh nghiệp
Chỗ đứng từ linh kiện thay thế
SGTT - Từ một thầy giáo tiếng Nga phải bỏ nghề vì không kiếm sống nổi, Nguyễn Tiến Dũng đã mở một cửa hàng sửa xe máy, trước khi trở thành một nhà sản xuất phụ tùng điện xe máy được nhiều người biết với nhãn hiệu HD.
![]() |
Phòng nghiên cứu gồm sáu kỹ sư này đã có hai sản phẩm được xem là có tiềm năng xuất khẩu sang Hàn Quốc. Ảnh: H.P
|
Vào trung tuần tháng 11 tới, Nguyễn Tiến Dũng, giám đốc công ty Hùng Dũng ở Hải Dương, tham dự hội chợ triển lãm Công nghiệp phụ trợ Việt Nam – Nhật Bản lần thứ ba với một gian hàng miễn phí. Cách đây hơn một tháng, một đại diện được uỷ quyền của tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO), sau khi tìm hiểu thông tin trên mạng internet, đã tìm đến gặp Nguyễn Tiến Dũng và, sau khi xem các sản phẩm của công ty, đã chính thức mời ông tham gia hội chợ triển lãm. “Ông ta khuyên tôi nên mang các phụ tùng điện xe máy và bộ nguồn điện (dùng trong các sản phẩm điện tử) đến trưng bày”, ông Dũng kể lại.
Ông cho biết, lần hội chợ triển lãm trước, ông đã đứng hàng tiếng đồng hồ trước cổng triển lãm để phát các catalogue giới thiệu sản phẩm của công ty, nhưng sau đó chẳng nhận được một hồi âm nào cả.
Từ sửa tới sản xuất
Hiện nay, trên thị trường thay thế đối với phụ tùng điện xe máy, HD là một thương hiệu được nhiều người biết tới. Công ty Hùng Dũng đã có một kênh phân phối khắp các tỉnh thành từ Đà Nẵng trở ra. Đối với các tỉnh phía Nam, năm 2003 công ty đã mở một chi nhánh ở TP.HCM. Một bước tiến dài khi gần 15 năm trước, Dũng phải chở xe máy mang đi bỏ mối cho từng cửa hàng ở Phố Huế.
Nguyễn Tiến Dũng bắt đầu lập nghiệp với một cửa hiệu sửa xe máy tại nhà ở thị xã Hải Dương, vào năm 1991. Ngoài việc sửa chữa xe, hàng tháng ông vẫn dành thời gian chạy xe máy đi các tỉnh mua các phụ tùng điện xe máy bị hỏng. Sửa xong, ông lại mang đi đổi cho các hiệu sửa xe lấy phụ tùng hỏng, và ăn tiền công sửa. “Đó là khoảng thời gian tôi học nghề, không biết thì tìm sách đọc, đi hỏi các chủ hiệu sửa xe máy khác, hay tìm đến các kỹ sư điện. Hồi đó chủ yếu sửa bộ đánh lửa, bộ nạp và cuộn cung cấp nguồn cho bộ đánh lửa. Nhưng sau mấy năm trời, thấy kiếm sống bằng cách đó mệt quá, tôi đã quyết định thử sản xuất xem sao,” Dũng kể.
Năm 1995, bộ đánh lửa của xe Simpson (Đông Đức) mang nhãn hiệu HD xuất hiện ở một số cửa hàng phụ tùng xe máy ở Phố Huế (Hà Nội). Có tín nhiệm dần dần, từ một cửa hàng, rồi hầu như toàn bộ khu Phố Huế lấy hàng của Dũng. Mỗi tháng Dũng bán được hàng chục ngàn bộ đánh lửa. Năm 1998, Dũng quyết định nâng cấp xưởng gia đình thành công ty Hùng Dũng, vừa làm đại lý bán dầu nhờn Caltex, vừa sản xuất. “Ngoài nguồn thu nhập ổn định, việc làm đại lý cho Caltex cũng giúp tôi dùng xe của Caltex kết hợp chở hàng đi tiêu thụ ở Hà Nội đỡ bị nhân viên thị trường, hay thuế vụ, làm khó dễ”, Dũng kể.
Nhưng rồi, xe Simpson cũng hỏng dần, nhu cầu bộ đánh lửa sụt giảm nhanh (đến cuối năm 1999 chỉ còn vài ngàn bộ/tháng), Dũng lại nghiên cứu rồi chuyển sang sản xuất bộ nạp điện cho xe Honda, và nhất là xe Trung Quốc, khi bắt đầu có sự bùng nổ nhập khẩu đầu những năm 2000. “Thời cao điểm, có tháng tôi bán được hàng trăm ngàn bộ nạp”, Dũng nói.
Cho đến nay, có khoảng 20 chủng loại mặt hàng phụ tùng điện xe máy mang nhãn hiệu HD, từ bộ đánh lửa, bộ nạp, rơ le, cuộn lửa đến cuộn đèn. Và không chỉ cho xe số mà cả xe tay ga, không chỉ cho xe Honda, mà cả Suzuki và Yamaha nữa.
Chen chân vào nhóm cung ứng
Sản phẩm ông Dũng mang tới hội chợ triển lãm không chỉ thuộc hai mảng nói trên. “Tôi có hai mặt hàng chiến lược lần đầu tiên giới thiệu là bộ điều khiển đèn và bộ điều khiển quạt”, Dũng bật mí. Ông giải thích rằng những bộ này khi lắp thêm vào đèn hay quạt thường sẽ giúp cho chúng trở thành những thiết bị có thể điều khiển từ xa qua chiếc điều khiển tivi.
Theo Dũng, với giá bán đến người tiêu dùng khoảng 60.000 – 70.000đ/bộ, chắc chắn thị trường sẽ chào đón, bởi người già và trẻ em cũng dễ dàng sử dụng được. Ông cho biết thêm rằng một vài doanh nhân Hàn Quốc sau khi xem các kỹ sư của ông biểu diễn đã đánh tiếng muốn đặt hàng để xuất ngược về nước. “Hai mặt hàng chiến lược này chính là do các kỹ sư phòng nghiên cứu và phát triển (R&D) thực hiện. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng tôi nghĩ tới việc bước ra thị trường nước ngoài”, ông Dũng nói.
Ý định mở phòng R&D đến với ông cách đây hơn 10 năm, sau khi phải thu hồi đến 50% số sản phẩm đưa ra thị trường, khi khách hàng phàn nàn là sản phẩm hỏng. “Hồi đó, tôi cứ lắp ráp từ các linh kiện nhập từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, mà không hề có thiết bị đo đầu vào và đầu ra. Sự mất mát về uy tín, công sức và tiền bạc đã cho tôi một bài học lớn về kiểm tra, kiểm nghiệm sản phẩm”, Dũng nhớ lại.
Năm 2000, Dũng mở phòng R&D với nhân viên duy nhất chính là ông chủ công ty. Hai năm sau, Dũng mời được một chuyên gia sửa tivi, vốn là một kỹ sư được đào tạo điều khiển tên lửa ở Liên Xô vào đầu những năm 1960. Thiết bị cứ sắm dần từng năm, người cũng tuyển và đào tạo dần. “Ngoài tiền đầu tư cho các thiết bị khoảng một tỉ đồng, hàng năm chi phí dành cho việc nghiên cứu và trả lương cho phòng này (hiện nay là sáu kỹ sư) chiếm khoảng 500 triệu đồng”, Dũng nói.
“Tôi hy vọng sẽ không bỏ lỡ cơ hội trở thành nhà cung cấp cho các nhà sản xuất xe máy Nhật Bản, hay nước ngoài khác. Nhất là khi việc xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ đã trở thành một nhu cầu cấp bách đảm bảo tính cạnh tranh cho các sản phẩm sản xuất trong nước, và bản thân công ty tôi cũng đã có sự chuẩn bị tốt hơn nhiều so với lần trước”, Dũng tâm sự. Ông cho biết hiện công ty cũng đã thành lập được một xưởng cơ khí để sản xuất các chi tiết cơ khí chính xác, và các bộ khuôn cho các chi tiết nhựa và tôn sắt đột giập.
Huỳnh Phan
Đăng ký:
Bài đăng (Atom)