Hiển thị các bài đăng có nhãn CNHT. Hiển thị tất cả bài đăng
Hiển thị các bài đăng có nhãn CNHT. Hiển thị tất cả bài đăng

Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Xe bốn bánh gắn máy tìm lối ra cho nghị quyết 32/2007


Ngày 02.06.2010, 09:51 (GMT+7)
Xe bốn bánh gắn máy tìm lối ra cho nghị quyết 32/2007
Kể từ khi ban hành nghị quyết 32/2007 về cấm lưu hành xe ba – bốn bánh tự chế, Chính phủ đã đưa ra một số chính sách hỗ trợ tín dụng cho việc chuyển đổi phương tiện này. Và đến nay, có lẽ vấn đề chuyển đổi sẽ được giải quyết với giải pháp xe bốn bánh gắn máy.
Sản xuất xe bốn bánh gắn máy tại nhà máy của Đức Phương.Ảnh: Huỳnh Phan
Quyết định 1491/QĐ-TTg tháng 11.2007, đưa ra mức hỗ trợ 9 triệu đồng để mua ôtô tải nhẹ của công ty TMT cho các hộ nông dân, đã gây những phản ứng mạnh mẽ trong các nhà sản xuất ôtô tải khác. Trong khi đó, quyết định mới đây của Chính phủ, cho phép hộ nông dân vay 100% giá trị xe từ ngân hàng nông nghiệp và hưởng hỗ trợ 100% lãi suất trong vòng hai năm, khi mua xe bốn bánh có động cơ của tập đoàn ôtô – xe máy Đức Phương, lại chưa thấy điều tiếng gì. Lý do khá đơn giản. Nếu quyết định đầu tiên là sự thiên vị cho một công ty nhà nước, thì quyết định thứ hai là sự công nhận và khuyến khích đúng lúc cho một giải pháp khả thi của một doanh nghiệp tư nhân cho việc thực hiện nghị quyết 32/2007 của Chính phủ.
Tiện nhiều bề cho nông dân
Ông Vũ Khắc Chiến, giám đốc điều hành Đức Phương, cho biết rằng, kể từ đầu năm 2010, Đức Phương đã lắp ráp được khoảng 2.000 xe bốn bánh gắn máy hiệu Damsel, và đã bán được hơn một nửa. “Chỉ riêng giá bán chỉ 50 – 55 triệu đồng, so với khoảng 100 triệu đồng của một chiếc ôtô tải loại 5 tạ, lại tiết kiệm nhiên liệu hơn, không bán chạy mới lạ”, ông Chiến nói, cho biết thêm rằng sự hỗ trợ tín dụng của Chính phủ cũng là một yếu tố giúp xe Damsel bán chạy hơn.
Ông Chiến giải thích rằng, sở dĩ giá xe rẻ bởi động cơ xe máy (250 phân khối của hãng Zongsheng – Trung Quốc) chỉ chiếm 50% giá thành xe, còn động cơ ôtô trong chiếc ôtô tải loại trọng tải 5 tạ trên thị trường chiếm tới 70% giá thành xe. “Theo đánh giá của trung tâm Thử nghiệm quốc gia Trung Quốc, độ an toàn của xe Damsel, cũng điều khiển bằng vô lăng, không hề kém ôtô tải nhẹ”, ông Chiến khẳng định, tuy vẫn thừa nhận rằng độ bền của Damsel chắc chỉ bằng khoảng 70 – 80% so với ôtô tải nhẹ.
Một tiện lợi nữa cho người sử dụng xe Damsel, theo ông Chiến, là khi có hỏng hóc, việc sửa chữa cũng đỡ gây tốn kém hơn. Nhưng, có lẽ điều khiến người nông dân cảm thấy thoải mái nhất là điều khiển xe Damsel, họ chỉ cần lấy bằng lái xe loại A4, thay vì B1, hay B2, khi điều khiển ôtô tải nhẹ.
Bắt đầu từ máy Trung Quốc
Với mục tiêu thay thế các loại xe cơ giới ba – bốn bánh tự chế, theo tinh thần nghị quyết 32/2007, một chương trình nghiên cứu sản xuất, lắp ráp và tiêu thụ thí điểm loại xe bốn bánh đã được thực hiện thí điểm từ tháng 5.2009, với duy nhất Đức Phương được lựa chọn. Tất nhiên, theo ông Chiến, đây là một câu chuyện dài. Nhưng cái cốt lõi nhất là ý tưởng của ông tổng giám đốc Vũ Đình Ngọc.
Thấy loại xe ba bánh loại 5 tạ nhập ngoại, tuy giá thành khá hợp lý để thay thế xe ba – bốn bánh tự chế, bị các cơ quan chức năng đánh giá chưa đủ độ an toàn và không cho phép lưu hành, ông Ngọc chợt nghĩ rằng tại sao lại không nghĩ cách cải tiến lên xe bốn bánh. Ông qua Trung Quốc, nơi sản xuất loại xe này, và phát hiện ra rằng ở Trung Quốc loại xe bốn bánh với công năng tương tự dành cho người nông dân chủ yếu dùng động cơ điện.
Ông đề nghị luôn với các nhà sản xuất Trung Quốc nghiên cứu hộ loại xe bốn bánh chạy bằng động cơ xe máy, trên cơ sở hình dáng và thiết kế thùng của xe tải điện. Năm tập đoàn của Trung Quốc đã tham gia vào quá trình này. Và kết quả là bốn mẫu xe đã được Đức Phương chọn để sản xuất, với một loại động cơ xe máy được dùng chung là của tập đoàn Jongsheng. Cuối tháng 5, xe bốn bánh gắn máy đã qua đăng kiểm kiểm định và được phép lưu thông.
Đến nội địa hoá
Từ tháng 6 này, Đức Phương sẽ bắt đầu quá trình nội địa hoá xe Damsel, với việc tự sản xuất khung xe, và thay lốp Trung Quốc bằng lốp Casumina. Đến cuối năm, sau khi đã nhập xong máy đột dập của Trung Quốc, Đức Phương sẽ tự dập vỏ xe. “Sau đó, chúng tôi sẽ tiếp tục sản xuất nhíp”, ông Chiến tiết lộ.
Tuy được vay ưu đãi để nhập linh phụ kiện lắp ráp, Đức Phương phải tự bỏ 70 tỉ đồng để nhập dây chuyền điện ly và sơn từ Trung Quốc. Tổng đầu tư vào thiết bị sẽ lên tới 100 tỉ khi họ nhập thiết bị đột dập vào cuối năm nay.
Theo ông Chiến, số tiền đó không hề nhỏ, nhưng chưa phải là mối quan tâm lớn nhất của Đức Phương. Điều nhà sản xuất này lo ngại nhất là quyền thí điểm độc quyền của họ chỉ đến cuối năm nay là kết thúc.
“Một số đại gia sản xuất xe tải, trong đó có Trường Hải, đã chuẩn bị nhảy vào phân khúc này”, ông Chiến nói.
Tuy nhiên, Đức Phương vẫn hy vọng rằng sự cạnh tranh trong năm tới cũng chưa quá gắt gao. “Loại xe này được phép chạy trong thành phố, tất nhiên đừng mò ra đường cao tốc, nên khách hàng chắc chắn không chỉ là nông dân”, ông Chiến nói.
BÀI VÀ ẢNH: HUỲNH PHAN

Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Muốn trở thành nhà cung cấp cho Nhật?


Ngày 17.11.2009, 07:58 (GMT+7)
Muốn trở thành nhà cung cấp cho Nhật?
SGTT - Ông Nguyễn Tiến Dũng, giám đốc công ty Hùng Dũng, đã rất vui khi được nhà lắp ráp điện tử hàng đầu thế giới Canon quan tâm. Nhưng ông vẫn biết rằng, ngoài việc nỗ lực nghiên cứu làm thử các linh kiện, bảng mạch theo yêu cầu của Canon, công ty ông phải cải thiện sự sắp xếp, bố trí nhà xưởng để hoàn toàn lọt vào “mắt xanh” của họ.
Hùng Dũng chưa áp dụng mô hình quản lý Kaizen/5S. “Việc có hay không có những kiến thức về điều hành nhà máy (5S), hay cải tiến (Kaizen) là yếu tố cực kỳ quan trọng trong khả năng kết nối với các nhà lắp ráp Nhật, bởi các nhà sản xuất Nhật rất coi trọng điều này“, giám đốc dự án thuộc văn phòng Jetro Hà Nội, Keisuke Kobayashi nói.
Công ty BA AN, chuyên sản xuất ống nhựa xoắn với nhãn hiệu Thăng Long, được mời đến dự triển lãm công nghiệp hỗ trợ Hà Nội lần thứ ba, với tư cách một công ty áp dụng thành công phương thức quản lý Kaizen/5S. Doanh thu của công ty mới được thành lập hơn năm năm này đã tăng từ 12 tỉ đồng năm 2006 lên 52 tỉ đồng chỉ trong 10 tháng năm 2009.
Người Nhật đã đề ra triết lý quản lý Kaizen với nội dung 5S (dịch tương đương tiếng Việt là Sàng lọc - Sắp xếp - Sạch sẽ - Săn sóc và Sẵn sàng. Mục tiêu của phương pháp quản lý này là nhằm tăng năng suất và năng lực cạnh tranh nhờ giảm thiểu những lãng phí bao gồm sản xuất dư thừa, khuyết tật sản phẩm, tồn kho, di chuyển bất hợp lý, sự chờ đợi giữa các khâu, thao tác thừa của công nhân hay máy móc…
“Việc áp dụng những công cụ quản lý tiên tiến như Kaizen/5S, hay một số công cụ khác, đã giúp công ty chúng tôi chiếm được niềm tin của các nhà thầu chính, và được tham gia vào các công trình lớn như trung tâm hội nghị quốc gia, cầu Thanh Trì, hay hạ ngầm hệ thống cáp điện và cáp thông tin Hà Nội”, ông Ngô Kiên Cường, tổng giám đốc BA AN, người trực tiếp tham dự một khóa học về thực hành cải tiến hiện trường do hiệp hội Tu nghiệp kỹ thuật hải ngoại (AOTS) tổ chức vào tháng 4.2007 tại Nhật Bản, nói.
Chương trình AOTS (thuộc bộ Kinh tế và công thương Nhật Bản) là nơi tiếp nhận kỹ thuật viên và nhà quản lý các nước đang phát triển sang Nhật học với tư cách tu nghiệp sinh.
Kể từ năm 1977, AOTS đã đưa ra hình thức mới là tu nghiệp hải ngoại đối với Nhật Bản, hay tu nghiệp tại chỗ đối với các nước thụ hưởng, thông qua việc mời các chuyên gia từ Nhật qua đào tạo theo nhu cầu của từng công ty. “Ngoài giảm chi phí, cái hay của chương trình này là cùng một lúc có thể chuyển giao kỹ thuật và kinh nghiệm quản lý cho nhiều người, và rút ngắn thời gian tu nghiệp”, ông Kondo nhận xét.
Trong khoá học ứng dụng Kaizen/5S diễn ra ngày 19.8.2008, ngay tại nhà máy của BA AN, toàn thể cán bộ công nhân viên của công ty này đã được tham dự.
Huỳnh Phan

Nỗ lực từ một phía


Ngày 13.11.2009, 10:25 (GMT+7)
Phát triển công nghiệp hỗ trợ
Nỗ lực từ một phía
SGTT - Triển lãm Công nghiệp hỗ trợ lần thứ ba, khai mạc ngày 12.11.2009 tại Hà Nội, đã có sự tham gia của 54 công ty Nhật Bản giới thiệu sản phẩm cần mua, và 62 công ty Việt Nam giới thiệu sản phẩm cần bán. “So với triển lãm diễn ra cách đây hai năm, số lượng doanh nghiệp cả hai phía tham gia cũng không mấy thay đổi.
Khách hàng Nhật đang xem sản phẩm trước khi ký hợp đồng
Nhưng khác biệt lớn nhất ở lần này là chúng tôi đã điều tra trước năng lực của các nhà cung cấp phía Việt Nam rồi mới gửi thư mời họ tham gia, và vì vậy khả năng kết nối giữa người mua và người bán chắc chắn sẽ lớn hơn nhiều”, ông Keisuke Kobayashi, giám đốc dự án thuộc văn phòng JETRO Hà Nội, nhận xét. Ông Kobayashi cho biết thêm triển lãm lần này là một trong những bước đầu tiên thực hiện hiệp định đối tác kinh tế Việt – Nhật (VJEPA), có hiệu lực từ đầu tháng trước.
Tuy nhiên, trong cuộc hội thảo về chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ, diễn ra bên lề triển lãm, vào sáng 12.11, những người tham dự lại không cảm thấy những thay đổi mang tính khác biệt.
Việt Nam vẫn chưa mặn mà với công nghiệp hỗ trợ
Bí thư thứ hai đại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam Ryosuke Fujii đã sang Việt Nam được hai năm, với tư cách đại diện bộ Kinh tế – thương mại và công nghiệp Nhật Bản phụ trách thúc đẩy công nghiệp hỗ trợ. Ông đã chứng kiến nhiều thay đổi trong chính sách phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam. “Nhưng có những câu hỏi chính vẫn chưa được trả lời là những lĩnh vực nào cần phát triển, phát triển như thế nào, đến khi nào xong, do ai thực hiện, và nguồn vốn ở đâu. Tất cả những cái đó được phía Nhật đưa ra trong dự thảo kế hoạch hành động để phía Việt Nam tham khảo, bổ sung và thông qua”, ông Fujii nói.
Nhưng ông Fujii cảm thấy hơi thất vọng, khi kế hoạch hành động này, cũng như nghị định Chính phủ về ưu đãi phát triển công nghiệp hỗ trợ, vẫn chưa được thông qua cho tới thời điểm hội thảo công nghiệp hỗ trợ này diễn ra. Ông Fujii cho rằng cho đến nay việc thúc đẩy phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam gần như là nỗ lực đơn phương của phía Nhật Bản.
Trong vòng một tháng rưỡi, kết hợp với công ty V-MEX, một công ty chuyên điều tra của Nhật Bản, Jetro đã gửi phiếu điều tra tới 297 doanh nghiệp ở miền Bắc và miền Trung, và nhận được kết quả từ 164. Trên cơ sở đó, họ đã đi khảo sát 149 doanh nghiệp, và cuối cùng chọn ra 100 doanh nghiệp xuất sắc nhất để in thành sách giới thiệu với các nhà lắp ráp Nhật Bản, và 34 doanh nghiệp trong danh sách này đã tham dự triển lãm.
“Khó khăn mấu chốt ở đây dường như là sự khác biệt về văn hoá. Bộ Công thương Việt Nam, dù rất nỗ lực, nhưng đã không thuyết phục được Chính phủ Việt Nam cấp vốn để thực hiện việc hỗ trợ cho ngành công nghiệp hỗ trợ, cũng như sự hợp tác cần thiết của các bộ ngành khác”, ông Fujii nhận xét. Ông cho biết thêm rằng ưu đãi về thuế, một trong những điểm mấu chốt của nghị định, vẫn chưa được bộ Tài chính Việt Nam chấp thuận, vì họ cho rằng quy định ưu đãi thuế là chuyện của luật chứ không phải nghị định.
Phó vụ trưởng Công nghiệp nặng, bộ Công thương Ngô Văn Trụ, chia sẻ thêm: “Dự thảo nghị định chúng tôi đã hoàn tất từ hồi tháng 6, nhưng theo quy định phải đưa sang bộ Tư pháp thẩm định. Sau ba tháng, vừa rồi họ mới yêu cầu chúng tôi làm rõ một số vấn đề mang tính pháp lý, như sự cần thiết phải có nghị định khi chưa có luật về công nghiệp hỗ trợ”. Tuy nhiên, ông Trụ vẫn tin rằng muộn nhất thì nghị định này sẽ được thông qua vào cuối năm nay, với các ưu đãi về công nghệ, hạ tầng, phát triển nguồn nhân lực, và nhất là thuế, cho các doanh nghiệp hoạt động trong lĩnh vực này.
Nhật Bản tiếp tục nỗ lực đơn phương
Theo Jetro, các doanh nghiệp Nhật rất kỳ vọng vào sự phát triển của công nghiệp hỗ trợ tại Việt Nam trong những năm tới. Theo kết quả phỏng vấn gần đây của Jetro tại Trung Quốc và Thái Lan, có những nhà lắp ráp lớn của Nhật Bản tại đó đã coi Việt Nam là địa chỉ đầu tư tiếp theo, do chi phí nhân công ở hai nước này tiếp tục tăng cao. Jetro cũng cho biết rằng trong những tháng vừa rồi đã có những làn sóng ngầm xem xét đầu tư vào Việt Nam của các doanh nghiệp nội địa Nhật Bản, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ địa phương, trong trào lưu mới là toàn cầu hoá hoạt động của mình.
Ông Fujii thì lại nhấn mạnh tới một nguy cơ khác, nếu Việt Nam không nhanh chóng phát triển công nghiệp hỗ trợ. “Đến năm 2018, hiệp định Thương mại tự do ASEAN (AFTA) sẽ chính thức có hiệu lực đầy đủ, và khi đó thuế suất nhập phụ tùng, linh kiện từ các nước ASEAN khác vào Việt Nam sẽ bị bãi bỏ. Không có đủ những nhà cung cấp, Việt Nam sẽ mất các lợi thế tương đối của mình, và không loại trừ là nhiều nhà lắp ráp sẽ bỏ sang các nước khác, để lại một mất mát lớn cho nền kinh tế Việt Nam”, ông Fujii giải thích.
Theo ông Fujii, thời gian không còn nhiều, nên chắc chắn Việt Nam không thể làm tất cả, mà phải chọn ngành chiến lược trong công nghiệp hỗ trợ, để tập trung hỗ trợ. Ông Fujii cho biết phía Nhật Bản đang thu thập các yêu cầu của các doanh nghiệp Nhật xem họ cần Việt Nam phát triển những ngành công nghiệp hỗ trợ nào, những sản phẩm nào, và, muộn nhất đến đầu sang năm, bảng điều tra này sẽ được công bố. Tuy nhiên, ông Fujii cũng hé lộ những lĩnh vực mà các nhà sản xuất Nhật Bản quan tâm trong ba – năm năm tới, bao gồm dệt may, xe hai bánh, điện gia dụng, gia công kim loại, thiết bị văn phòng, thiết bị vệ sinh và ô tô.
Cũng theo đại diện bộ Kinh tế, công nghiệp và thương mại Nhật Bản (METI) tại sứ quán Nhật Bản tại Việt Nam, bộ Công thương Việt Nam có thể hy vọng vào sự hỗ trợ tài chính từ Chính phủ Nhật Bản cho việc thúc đẩy ngành công nghiệp hỗ trợ. “Đằng nào thì trong hiệp định Đối tác kinh tế Nhật – Việt phía Việt Nam đã yêu cầu chúng tôi giúp họ làm việc này”, ông Fujii nói.
Ông Fujii cũng cho biết rằng các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam phát triển công nghiệp phụ trợ cũng có thể hy vọng vào các khoản tín dụng ưu đãi, thông qua ODA, từ chính phủ Nhật Bản. “Tháng trước một khoản ODA giá trị 117 triệu USD đã được thông qua và chuyển cho ngân hàng Phát triển Việt Nam, và tôi hy vọng trong những năm tới công việc này sẽ được tiếp tục”, ông Fujii nói.
Huỳnh Phan

Lấy lắp ráp nuôi giấc mơ sản xuất xe hơi


Ngày 11.11.2009, 16:45 (GMT+7)
Lấy lắp ráp nuôi giấc mơ sản xuất xe hơi
SGTT - Ông Bùi Ngọc Huyên được Jetro mời tham gia hội chợ Công nghiệp phụ trợ Hà Nội lần thứ ba, được tổ chức vào ngày 12 và 13.11.2009, bởi một số doanh nghiệp Nhật Bản đang định đặt hàng Vinaxuki. Từ nhà lắp ráp đến nhà sản xuất và cung cấp là một chặng đường dài...
Công nghiệp xe hơi vẫn chủ yếu là lắp ráp. Ảnh: TL
Năm 2004, Chính phủ Việt Nam cho phép hai công ty tư nhân là Xuân Kiên và Trường Hải được phép sản xuất – lắp ráp xe hơi trễ chín năm kể từ khi có liên doanh xe hơi đầu tiên với nước ngoài. Ông Bùi Ngọc Huyên, tổng giám đốc Xuân Kiên – Vinaxuki, nhớ lại: “Tôi đã phải chạy khắp sáu cửa trong suốt một năm trời, và Thủ tướng chỉ đặt bút phê duyệt khi bộ luật Doanh nghiệp thống nhất sắp ra đời (năm 2005), xác lập quyền bình đẳng của các thành phần kinh tế. Nếu Nhà nước cho Vinaxuki ra đời cách đó năm năm, tôi đã có thể thu hồi vốn vào lúc đó, và Việt Nam đã có xe hơi giá rẻ”.
Lắp ráp: lấy ngắn nuôi dài
Vinaxuki đã bắt đầu quá trình kinh doanh của mình với việc lắp ráp xe tải nhẹ, tải trung, rồi bán tải, trước khi lắp ráp xe con và tải nặng. “Giấc mơ từ lâu của tôi là sản xuất xe mang nhãn hiệu Việt Nam, nhưng phải lắp ráp để lấy ngắn nuôi dài, và cũng là từng bước mình làm quen với kỹ thuật sản xuất xe hơi”, ông Huyên nói. Ông cho biết đối với linh phụ kiện nhập khẩu từ Trung Quốc, ông chỉ chọn những nhà máy dùng công nghệ Mỹ, Đức, hay Nhật Bản, để đảm bảo uy tín cho sản phẩm mang nhãn hiệu riêng của Vinaxuki sau này.
Khi khánh thành nhà máy Song Lộc (Thanh Hoá), nhà máy lắp ráp xe tải nặng đầu tiên do trong nước đầu tư hoàn toàn với 14 mẫu và tỷ lệ nội địa hoá khoảng 20%, ông Huyên cho biết mục tiêu của Vinaxuki là tăng tỷ lệ nội địa hoá lên 50–60% vào cuối năm 2011 với tất cả các loại xe, kể cả xe con. Vinaxuki hiện đã xây dựng được xưởng hàn than vỏ xe, cabin xe, thùng hàng và khung gầm, xưởng cắt, dập ép ở Đông Anh, và đang xây dựng nhà máy khuôn mẫu, trong đó có trung tâm thiết kế khuôn mẫu và sản phẩm cơ khí chính xác ở Thái Nguyên. Vinaxuki đã có quan hệ hợp tác với hãng ABB (Thuỵ Điển), chuyên về robot, Mitsubishi (Nhật Bản), chuyên về máy công cụ hạng nặng, và nhất là tập đoàn Nagara (Nhật), chuyên về thiết kế và đúc khuôn mẫu.
“Toyota họ nói với tôi rằng, công nghệ làm cabin là phức tạp nhất trong quá trình chế tạo một chiếc xe, và cũng là công đoạn quan trọng nhất để tạo một thương hiệu riêng”, ông Huyên kể lại. Ông cho biết riêng việc thiết kế và đúc khuôn để dập một mẫu cabin thường mất tới 2,5 – 3 năm.
Ông cũng từng liên hệ với các nhà cung cấp của Honda, hay Toyota, tại các nước ASEAN, hay Đài Loan, nhưng họ cho biết đây là những công ty có cổ phần của các hãng trên và chỉ được cung cấp theo kiểu độc quyền. “Họ bảo, nếu muốn họ cung cấp cho Vinaxuki, chúng tôi phải cùng họ góp vốn lập công ty mới. Tôi nghĩ, thôi mình tự làm cho khoẻ”, ông Huyên nói.
Những rào cản
“Để tiếp tục những dự án kể trên, tôi cần một khoản vay trung hạn khoảng 400 tỉ đồng, bên cạnh 800 tỉ đồng công ty tái đầu tư từ nguồn lợi nhuận và khấu hao tài sản cố định”, ông Huyên nói tiếp.
Tuy nhiên, theo ông Huyên, chính sách đất đai của Việt Nam luôn là sự cản trở lớn, khiến doanh nghiệp khó tiếp cận tín dụng ngân hàng, và khiến vốn đầu tư hạ tầng bị đội lên quá cao.
Theo ông Huyên, dường như chưa có thống nhất về chủ trương phát triển ngành công nghiệp xe hơi. “Bộ Công thương thì ủng hộ, nhưng bộ Tài chính lại đánh thuế cao. Chẳng hạn xe tải là công cụ sản xuất lại chịu thuế giá trị gia tăng tới 10%”, ông Huyên dẫn chứng.
Chủ trương nội địa hoá, trên văn bản, chính phủ ủng hộ, nhưng thực tế lại khác. “Cách đây hai năm, khi có chủ trương thay xe công nông và xe tải cũ ở 22 tỉnh, thay vì đấu thầu công khai và ưu tiên cho các doanh nghiệp có tỷ lệ nội địa hoá cao, Chính phủ lại chọn công ty Cửu Long thuộc Vinamotor là doanh nghiệp nhà nước, và hỗ trợ cho họ chín triệu đồng mỗi xe, mặc dù ai cũng biết xe họ giá thì cao mà tỷ lệ nội địa hoá thấp”, ông Huyên bức xúc.
Bất chấp những bức xúc kể trên, ông già đã xấp xỉ thất tuần này vẫn một mình tiếp tục mơ giấc mơ “xe hơi thương hiệu Việt Nam”. Ông biết mình có thể hy vọng từ sự trợ giúp của Chính phủ Nhật Bản, thông qua chương trình hỗ trợ phát triển công nghiệp phụ trợ. Toyota đã đặt hàng ông gia công khuôn mẫu, và hay vài doanh nghiệp khác đã dạm đặt hàng đúc khuôn mẫu, và những chi tiết bằng gang, kể cả thân máy, khi quá trình chuyển giao công nghệ được hoàn tất.
“Tôi nghĩ với tổng cộng 10 nhà máy được xây dựng sau 2 – 3 năm nữa (hiện nay là 4 nhà máy), ngoài việc tăng tỷ lệ nội địa hoá, Vinaxuki sẽ trở thành nhà cung cấp cho các công ty Nhật ở đây, cũng như những doanh nghiệp Việt Nam trong ngành công nghiệp xe hơi”, ông Huyên khẳng định.
Huỳnh Phan

Chỗ đứng từ linh kiện thay thế


Ngày 20.10.2009, 14:09 (GMT+7)
Câu chuyện doanh nghiệp
Chỗ đứng từ linh kiện thay thế
SGTT - Từ một thầy giáo tiếng Nga phải bỏ nghề vì không kiếm sống nổi, Nguyễn Tiến Dũng đã mở một cửa hàng sửa xe máy, trước khi trở thành một nhà sản xuất phụ tùng điện xe máy được nhiều người biết với nhãn hiệu HD.
Phòng nghiên cứu gồm sáu kỹ sư này đã có hai sản phẩm được xem là có tiềm năng xuất khẩu sang Hàn Quốc. Ảnh: H.P
Vào trung tuần tháng 11 tới, Nguyễn Tiến Dũng, giám đốc công ty Hùng Dũng ở Hải Dương, tham dự hội chợ triển lãm Công nghiệp phụ trợ Việt Nam – Nhật Bản lần thứ ba với một gian hàng miễn phí. Cách đây hơn một tháng, một đại diện được uỷ quyền của tổ chức Ngoại thương Nhật Bản (JETRO), sau khi tìm hiểu thông tin trên mạng internet, đã tìm đến gặp Nguyễn Tiến Dũng và, sau khi xem các sản phẩm của công ty, đã chính thức mời ông tham gia hội chợ triển lãm. “Ông ta khuyên tôi nên mang các phụ tùng điện xe máy và bộ nguồn điện (dùng trong các sản phẩm điện tử) đến trưng bày”, ông Dũng kể lại.
Ông cho biết, lần hội chợ triển lãm trước, ông đã đứng hàng tiếng đồng hồ trước cổng triển lãm để phát các catalogue giới thiệu sản phẩm của công ty, nhưng sau đó chẳng nhận được một hồi âm nào cả.
Từ sửa tới sản xuất
Hiện nay, trên thị trường thay thế đối với phụ tùng điện xe máy, HD là một thương hiệu được nhiều người biết tới. Công ty Hùng Dũng đã có một kênh phân phối khắp các tỉnh thành từ Đà Nẵng trở ra. Đối với các tỉnh phía Nam, năm 2003 công ty đã mở một chi nhánh ở TP.HCM. Một bước tiến dài khi gần 15 năm trước, Dũng phải chở xe máy mang đi bỏ mối cho từng cửa hàng ở Phố Huế.
Nguyễn Tiến Dũng bắt đầu lập nghiệp với một cửa hiệu sửa xe máy tại nhà ở thị xã Hải Dương, vào năm 1991. Ngoài việc sửa chữa xe, hàng tháng ông vẫn dành thời gian chạy xe máy đi các tỉnh mua các phụ tùng điện xe máy bị hỏng. Sửa xong, ông lại mang đi đổi cho các hiệu sửa xe lấy phụ tùng hỏng, và ăn tiền công sửa. “Đó là khoảng thời gian tôi học nghề, không biết thì tìm sách đọc, đi hỏi các chủ hiệu sửa xe máy khác, hay tìm đến các kỹ sư điện. Hồi đó chủ yếu sửa bộ đánh lửa, bộ nạp và cuộn cung cấp nguồn cho bộ đánh lửa. Nhưng sau mấy năm trời, thấy kiếm sống bằng cách đó mệt quá, tôi đã quyết định thử sản xuất xem sao,” Dũng kể.
Năm 1995, bộ đánh lửa của xe Simpson (Đông Đức) mang nhãn hiệu HD xuất hiện ở một số cửa hàng phụ tùng xe máy ở Phố Huế (Hà Nội). Có tín nhiệm dần dần, từ một cửa hàng, rồi hầu như toàn bộ khu Phố Huế lấy hàng của Dũng. Mỗi tháng Dũng bán được hàng chục ngàn bộ đánh lửa. Năm 1998, Dũng quyết định nâng cấp xưởng gia đình thành công ty Hùng Dũng, vừa làm đại lý bán dầu nhờn Caltex, vừa sản xuất. “Ngoài nguồn thu nhập ổn định, việc làm đại lý cho Caltex cũng giúp tôi dùng xe của Caltex kết hợp chở hàng đi tiêu thụ ở Hà Nội đỡ bị nhân viên thị trường, hay thuế vụ, làm khó dễ”, Dũng kể.
Nhưng rồi, xe Simpson cũng hỏng dần, nhu cầu bộ đánh lửa sụt giảm nhanh (đến cuối năm 1999 chỉ còn vài ngàn bộ/tháng), Dũng lại nghiên cứu rồi chuyển sang sản xuất bộ nạp điện cho xe Honda, và nhất là xe Trung Quốc, khi bắt đầu có sự bùng nổ nhập khẩu đầu những năm 2000. “Thời cao điểm, có tháng tôi bán được hàng trăm ngàn bộ nạp”, Dũng nói.
Cho đến nay, có khoảng 20 chủng loại mặt hàng phụ tùng điện xe máy mang nhãn hiệu HD, từ bộ đánh lửa, bộ nạp, rơ le, cuộn lửa đến cuộn đèn. Và không chỉ cho xe số mà cả xe tay ga, không chỉ cho xe Honda, mà cả Suzuki và Yamaha nữa.
Chen chân vào nhóm cung ứng
Sản phẩm ông Dũng mang tới hội chợ triển lãm không chỉ thuộc hai mảng nói trên. “Tôi có hai mặt hàng chiến lược lần đầu tiên giới thiệu là bộ điều khiển đèn và bộ điều khiển quạt”, Dũng bật mí. Ông giải thích rằng những bộ này khi lắp thêm vào đèn hay quạt thường sẽ giúp cho chúng trở thành những thiết bị có thể điều khiển từ xa qua chiếc điều khiển tivi.
Theo Dũng, với giá bán đến người tiêu dùng khoảng 60.000 – 70.000đ/bộ, chắc chắn thị trường sẽ chào đón, bởi người già và trẻ em cũng dễ dàng sử dụng được. Ông cho biết thêm rằng một vài doanh nhân Hàn Quốc sau khi xem các kỹ sư của ông biểu diễn đã đánh tiếng muốn đặt hàng để xuất ngược về nước. “Hai mặt hàng chiến lược này chính là do các kỹ sư phòng nghiên cứu và phát triển (R&D) thực hiện. Tôi nghĩ đã đến lúc chúng tôi nghĩ tới việc bước ra thị trường nước ngoài”, ông Dũng nói.
Ý định mở phòng R&D đến với ông cách đây hơn 10 năm, sau khi phải thu hồi đến 50% số sản phẩm đưa ra thị trường, khi khách hàng phàn nàn là sản phẩm hỏng. “Hồi đó, tôi cứ lắp ráp từ các linh kiện nhập từ Liên Xô cũ và các nước Đông Âu, mà không hề có thiết bị đo đầu vào và đầu ra. Sự mất mát về uy tín, công sức và tiền bạc đã cho tôi một bài học lớn về kiểm tra, kiểm nghiệm sản phẩm”, Dũng nhớ lại.
Năm 2000, Dũng mở phòng R&D với nhân viên duy nhất chính là ông chủ công ty. Hai năm sau, Dũng mời được một chuyên gia sửa tivi, vốn là một kỹ sư được đào tạo điều khiển tên lửa ở Liên Xô vào đầu những năm 1960. Thiết bị cứ sắm dần từng năm, người cũng tuyển và đào tạo dần. “Ngoài tiền đầu tư cho các thiết bị khoảng một tỉ đồng, hàng năm chi phí dành cho việc nghiên cứu và trả lương cho phòng này (hiện nay là sáu kỹ sư) chiếm khoảng 500 triệu đồng”, Dũng nói.
“Tôi hy vọng sẽ không bỏ lỡ cơ hội trở thành nhà cung cấp cho các nhà sản xuất xe máy Nhật Bản, hay nước ngoài khác. Nhất là khi việc xây dựng ngành công nghiệp hỗ trợ đã trở thành một nhu cầu cấp bách đảm bảo tính cạnh tranh cho các sản phẩm sản xuất trong nước, và bản thân công ty tôi cũng đã có sự chuẩn bị tốt hơn nhiều so với lần trước”, Dũng tâm sự. Ông cho biết hiện công ty cũng đã thành lập được một xưởng cơ khí để sản xuất các chi tiết cơ khí chính xác, và các bộ khuôn cho các chi tiết nhựa và tôn sắt đột giập.
Huỳnh Phan

Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Thời cơ đang trôi qua


Ngày 19.06.2009, 09:12 (GMT+7)
SGTT - “Tôi nghĩ đây là thời cơ vô cùng thuận lợi để Việt Nam thu hút một làn sóng đầu tư của các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Nhật trong ngành công nghiệp phụ trợ, không chỉ riêng từ Nhật, mà cả từ Trung Quốc”
Nhân chuyến sang Việt Nam ngắn ngủi của GS Ohno, Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với ông về tiến độ phát triển ngành công nghiệp này ở Việt Nam.
Dành gần một thập kỷ rưỡi thúc đẩy ý tưởng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam, kể từ năm ngoái giáo sư Kenichi Ohno đã cảm thấy nhẹ bớt gánh nặng đi nhiều, khi Đại sứ Sakaba “xắn tay vào cuộc”. Ông dành nhiều thời gian hơn cho công việc đào tạo ở Nhật Bản, và phát triển ý tưởng này ở Ethiopia, nơi theo ông nhận định đi sau Việt Nam hai thập kỷ về GDP trên đầu người, nhưng đi trước một thập kỷ về tư duy hoạch định chiến lược và kế hoạch phát triển công nghiệp.
Sang Việt Nam lần này, ông thấy có những bước tiến mới gì về phát triển công nghiệp hỗ trợ ở Việt Nam?
Đã có một khu công nghiệp dành cho các doanh nghiệp Nhật Bản trong lĩnh vực công nghiệp phụ trợ được triển khai xây dựng ở Bắc Ninh. Nhưng tôi ngờ rằng đây là nỗ lực của một doanh nghiệp tư nhân có mối quan hệ mật thiết với các nhà lắp ráp Nhật Bản (tập đoàn Kinh Bắc – NV) nhiều hơn là vai trò của Chính phủ. Bởi cho đến nay, Chính phủ Việt Nam vẫn chưa có một kế hoạch hành động về phát triển công nghiệp hỗ trợ nói chung, mặc dù quá trình làm việc giữa hai phía Nhật Bản và Việt Nam về việc này đã được bắt đầu từ tháng 3 năm ngoái.
Ông có hiểu lý do vì sao không?
Trong khi phía Nhật rất tích cực, thì phía Việt Nam có vẻ lần lữa. Chúng tôi lập năm nhóm đặc trách để xây dựng kế hoạch hành động, nhưng họ không tìm thấy sự hợp tác từ phía các cơ quan Việt Nam.
Cuối cùng, thay vì chờ đợi phía Việt Nam tham gia, chúng tôi phải tự soạn thảo dưới dạng những đề nghị để cho phía Việt Nam tham gia góp ý, chuyển cho phía Việt Nam hôm 16.6.
Qua quá trình soạn thảo sáng kiến chung Nhật – Việt, chúng tôi nhận ra rằng các nhà hoạch định chính sách Việt Nam có vẻ mạnh về bình luận hơn là đề xuất ý tưởng trên cơ sở phân tích những điều tra thực tế. Dường như họ vẫn nghĩ rằng đây không phải là việc của họ, xuất phát từ lợi ích của nền kinh tế Việt Nam.
Cũng có ý kiến cho rằng sở dĩ bộ Công thương vẫn chưa cảm thấy sự cấp bách trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ vì họ thấy những công ty toàn cầu như Canon, hay Panasonic, hay Toyota, phải thu hẹp sản xuất, sa thải công nhân do suy thoái kinh tế, và họ chờ khi nào kinh tế phục hồi lại rồi mới tính tiếp. Nếu quả thực họ nghĩ như vậy thì quá thiển cận, bởi kinh tế thế giới rồi sẽ phục hồi, và lúc đó Việt Nam, nếu không chuẩn bị đón thời cơ mới, thì lại phải xuất phát từ đầu.
Nếu càng nhanh chóng sản xuất được phụ tùng, phụ kiện, Việt Nam sẽ giảm được nhập siêu, thay vì trông chờ vào việc xuất tài nguyên, như đề án khai thác bauxite ở Tây Nguyên.
Liệu bao giờ kế hoạch hành động này có thể được thông qua?
Chúng tôi hy vọng là vào tháng 9 này. Tuy nhiên, trong quan niệm về công nghiệp hỗ trợ, giữa Nhật Bản và Việt Nam có khác biệt lớn.
Trong mục lục ưu tiên phát triển công nghiệp hỗ trợ của từng lĩnh vực, Việt Nam đã quá tham khi liệt kê tất cả các hạng mục sản phẩm phụ trợ. Chẳng hạn, trong lĩnh vực sản xuất ôtô, họ đưa ra cả sản xuất động cơ vào công nghiệp phụ trợ, một điều khó khả thi, do sự phân công sản xuất trên toàn cầu.
Sau khi đọc dự thảo nghị định trên, tôi đã phải nhờ đại diện JETRO ở Việt Nam hỏi các đồng nghiệp của ông tại Thái Lan, Indonesia và Malaysia, những nước mà Nhật Bản đã giúp phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ từ rất lâu rồi, xem họ quan niệm về ngành công nghiệp này thế nào. Tuy nhiên, theo tôi được biết, họ không liệt kê chi tiết từng hạng mục như Việt Nam, mà phân chia theo cách thức sản xuất chẳng hạn đúc, rèn, dập, nhựa, tráng, mạ…
Để có thể nhanh chóng phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ, Việt Nam cần phải làm ngay những gì?
Về phía bộ Công thương, cơ quan chủ trì việc này, họ cần phải chú trọng đến việc phát triển nguồn nhân lực cho công nghiệp hỗ trợ, và nhanh chóng xây dựng bộ tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, kỹ năng, và chuyển giao công nghệ… Bởi trong chương trình hợp tác với Việt Nam phát triển công nghiệp hỗ trợ, người Nhật chúng tôi hoàn toàn không muốn công nghệ thấp lẫn vào.
Theo tôi, điều này rất phù hợp với chiến lược thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghệ cao ở Việt Nam. Bởi muốn thu hút những nhà lắp ráp các sản phẩm công nghệ cao, nhất thiết cần phải có những doanh nghiệp nhỏ và vừa sản xuất chi tiết, linh kiện ở trình độ công nghệ cao.
Phía VCCI, một trong những cách thực hiện công nghiệp hỗ trợ một cách hữu hiệu với quá trình thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ Nhật Bản là thành lập các hiệp hội ngành nghề đối với từng loại công nghiệp hỗ trợ, tương ứng với các hiệp hội ở Nhật Bản, và đặt quan hệ hợp tác trực tiếp.
Huỳnh Phan thực hiện

Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Tín hiệu lạc quan bước đầu


Ngày 29.04.2009, 14:59 (GMT+7)
Một lễ khởi công một khu công nghiệp mà mục tiêu chỉ thu hút 50 doanh nghiệp loại nhỏ, với quy mô vốn trung bình khoảng 2 – 3 triệu USD/dự án, lại có sự tham dự của cả một phó thủ tướng và một bộ trưởng phụ trách lĩnh vực công nghiệp là ông Hoàng Trung Hải và ông Vũ Huy Hoàng. Có thể thấy Chính phủ Việt Nam đã thực sự cảm thấy sự thúc bách phải phát triển ngành công nghiệp hỗ trợ.
Giáo sư Kenichi Ohno, giám đốc Diễn đàn phát triển Việt Nam (VDF), người đã bền bỉ thuyết phục các nhà hoạch định chính sách công nghiệp Việt Nam về tầm quan trọng của công nghiệp hỗ trợ, giải thích: “Đối với ngành lắp ráp, chi phí linh phụ kiện chiếm tới 70 – 90% giá thành, còn nhân công lao động chỉ chiếm dưới 10%. Nếu linh phụ kiện phải nhập từ các nước ASEAN khác, hoặc Trung Quốc, chi phí vận chuyển và lưu kho sẽ phát sinh thêm, làm sản phẩm kém cạnh tranh. 
Đại sứ Nhật Bản Sakaba còn đi xa hơn nói thẳng ra về mối nguy cơ cho nền công nghiệp Việt Nam nếu thiếu ngành công nghiệp hỗ trợ. “Do cam kết trong khu vực thương mại tự do ASEAN (AFTA), 10 năm sau, hầu như toàn bộ các sản phẩm nhập từ các nước ASEAN sẽ được miễn thuế. Tức là, năm năm sau, nhiều ngành sản xuất đang hoạt động tại Việt Nam, không phân biệt của nước nào, sẽ buộc phải lựa chọn chiến lược tiếp tục sản xuất trong nước Việt Nam hay nhập khẩu và bán tại Việt Nam các sản phẩm đã sản xuất tại các nước ASEAN khác”.
Nhưng, nếu yếu tố hiện diện của một ngành công nghiệp phụ trợ chỉ tác động đến quyết định của các nhà đầu tư nước ngoài hiện đang triển khai các dự án sản xuất – lắp ráp ở Việt Nam, như Canon, sau năm năm nữa, thì tại thời điểm hiện nay nó hẳn đang tác động tới sự cân nhắc của những công ty mà Việt Nam đang cố mời gọi.
Theo lãnh đạo công ty phát triển đô thị Kinh Bắc, nhà đầu tư khu công nghiệp này, sang tháng 5 những doanh nghiệp Nhật có định đầu tư vào khu công nghiệp này sẽ sang Việt Nam và đặt yêu cầu cụ thể về nhà xưởng với Kinh Bắc để tiến hành xây dựng. Chủ tịch Đặng Thành Tâm cho biết tổng vốn đầu tư cho 50.000m2 nhà xưởng vào khoảng 200 tỉ VND. Ông Phạm Văn Liêm, viện phó viện Nghiên cứu chiến lược, chính sách công nghiệp, lại nói: “Chúng ta đã chậm hơn các nước trong khu vực hơn chục năm, nên phải có chính sách ưu đãi thật tốt để thu hút họ vào thật nhanh, thật nhiều”. Theo ông Liêm, trong dự thảo nghị định đang được bộ Công thương soạn thảo và sắp trình Chính phủ, các doanh nghiệp đầu tư vào ngành công nghiệp hỗ trợ sẽ được hưởng ưu đãi bằng 1,2 – 1,5 mức ưu đãi bình thường.
Ông đại sứ Sakaba cho biết, trước mắt các doanh nghiệp nước ngoài, dẫn đầu là Nhật Bản, sẽ đi tiên phong trong việc phát triển công nghiệp hỗ trợ, và kéo các doanh nghiệp trong nước vào cùng. “Tôi nghĩ là về vấn đề tài chính, Nhật Bản có thể hợp tác được bằng cách tăng số tiền này lên và dành nó cho ngành công nghiệp phụ trợ”, ông Sakaba nói.
Huỳnh Phan

Phát triển công nghiệp hỗ trợ: Góc nhìn từ doanh nghiệp Việt Nam


Ngày 09.03.2009, 09:32 (GMT+7)

Những loại máy công nghiệp của Nhật tại một triển lãm ở TP.HCM. Ảnh: Lê Hồng Thái
Hôm nay 9.3, một phái đoàn của viện Công nghệ thực phẩm Nhật Bản do giáo sư Ramon Reguro dẫn đầu sẽ bắt đầu chuyến tìm hiểu Việt Nam kéo dài một tuần. Mục đích chuyến đi là khảo sát hiện trạng của ngành công nghiệp thực phẩm, thị trường nội địa và khả năng xuất khẩu sang Nhật, chính sách khuyến khích đầu tư của Việt Nam và cơ hội đầu tư vào Việt Nam đối với các doanh nghiệp chế biến thực phẩm của Nhật.
Theo ông Đỗ Kim Lang, trưởng phòng thông tin – đối ngoại của cục Xúc tiến thương mại (Vietrade), bộ Công thương, với chuyến khảo sát này, Nhật muốn tìm đến nguồn cung cấp thực phẩm khác an toàn hơn trước thái độ tẩy chay thực phẩm nhập từ Trung Quốc sau những sự cố “melamine trong sữa”, hay ngộ độc do bánh bao.
Những thông tin thu thập trong chuyến đi này sẽ phục vụ cho các doanh nghiệp Nhật tham dự hội thảo “Đầu tư vào ngành công nghiệp thực phẩm tại Việt Nam và bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ” do viện này tổ chức vào 26.3 tới tại Tokyo. Vietrade hy vọng, nếu mọi chuyện diễn ra tốt đẹp, nhiều nhà chế biến thực phẩm Nhật có thể chuyển hẳn cơ sở sản xuất của mình từ Trung Quốc qua Việt Nam.
“Sáng kiến chung Nhật – Việt đã nhấn mạnh rằng phía Việt Nam không chỉ mong muốn phía Nhật đầu tư vào một ngành công nghiệp nhất định nào đó, mà còn muốn Nhật giúp Việt Nam phát triển nó, tức là giúp phát triển ngành công nghiệp phụ trợ với sự tham gia của các doanh nghiệp Việt Nam”, ông Hiroshi Kobayashi, đại diện phụ trách dự án tại Hà Nội của tổ chức Xúc tiến thương mại Nhật Bản (Jetro) nói.
Về vấn đề này, giáo sư Kenichi Ohno, giám đốc Diễn đàn phát triển Việt Nam, nhận xét: “Tuy phía Việt Nam tha thiết yêu cầu chúng tôi giúp đỡ, nhưng gần một thập kỷ rưỡi qua, các nhà hoạch định chính sách phát triển ngành công nghiệp phụ trợ vẫn cứ bình chân như vại. Có vẻ như họ coi đó là việc riêng của người Nhật chúng tôi”.
Triển lãm ngược
Theo ông Kobayashi, một điều tra của Jetro cách đây 5 – 6 năm cho thấy, nhiều doanh nghiệp Việt Nam có cảm giác tự ti, khi cho rằng làm sao “với” được mấy ông Nhật “cành cao”. Cũng theo điều tra này, các doanh nghiệp Nhật lại cho rằng, tuy thực trạng của doanh nghiệp cũng là một yếu tố khi lựa chọn đối tác, nhưng yếu tố quan trọng hơn là nhận thức và quyết tâm của người đứng đầu doanh nghiệp.
Xuất phát từ nhận thức đó, cách đây năm năm Jetro đã lần đầu tiên tổ chức triển lãm về nội địa hoá tại TP.HCM, trước khi tổ chức tiếp hai cuộc nữa ở Hà Nội và TP.HCM vào cuối các năm 2007 và 2008. Mục đích của các nhà tổ chức kiểu “triển lãm ngược” này là tạo cơ hội cho doanh nghiệp Việt Nam, ngoài việc tiếp xúc, có thể “tai nghe, mắt thấy, tay sờ” vào các sản phẩm phía Nhật muốn đặt hàng, để từ đó xem có thể đáp ứng được hay không.
Bày tỏ thiện chí
Tại lần triển lãm đầu tiên, ông Kobayashi kể, mỗi giám đốc doanh nghiệp Việt Nam, được tháp tùng bởi một cô thư ký mặc áo dài, xinh đẹp và chân dài, thường chỉ trao đổi vài câu, trước khi để lại brochure về công ty mình. Tất nhiên, không có hợp đồng nào được ký kết. Tại lần triển lãm thứ hai, khi đã biết doanh nghiệp Nhật cần gì, phía Việt Nam đã có những trao đổi sâu hơn về chuyên môn. Kết quả là có 5 – 6 hợp đồng được ký kết.
Theo ông Kobayashi: “Khi tiếp xúc với các doanh nghiệp Nhật, các bạn đừng vội nản lòng, bởi các công ty Nhật luôn muốn thử thách bạn thông qua thái độ tích cực và chủ động trong việc cung cấp thông tin”.
Sau khi gửi tài liệu giới thiệu, hay bản fax giới thiệu về công ty mình, các doanh nghiệp Việt Nam thường phàn nàn rằng các doanh nghiệp Nhật không hề phản hồi lại. Trong khi đó, các doanh nghiệp Nhật lại nói rằng họ chờ đợi các phía Việt Nam gọi điện khẳng định lại tài liệu đã đến chưa, có cần thêm thông tin gì hơn không… Điều này thể hiện rằng doanh nghiệp Việt Nam thực sự muốn hợp tác với doanh nghiệp Nhật”, ông Kobayashi giải thích.
Các doanh nghiệp Nhật, trước tiên, thường quan tâm các thông tin rất cụ thể về định lượng, như số lượng nhân viên, vốn pháp định, doanh thu, khách hàng là ai… Đây là điều kiện cần, bởi theo quan niệm của người Nhật, một lãnh đạo doanh nghiệp nghiêm túc không thể không biết điều này. Sau đó, doanh nghiệp Nhật sẽ hỏi tiếp chủ doanh nghiệp Việt Nam đánh giá về doanh nghiệp mình thế nào, tình hình thị trường, kế hoạch và chiến lược phát triển doanh nghiệp… Đây là điều kiện đủ để xác lập mối quan hệ đối tác bền vững.
Huỳnh Phan

Thu hút FDI Nhật: Liên kết với miền Nam Trung Quốc?

Ngày 15.12.2006, 11:03 (GMT+7)
Ngay trong buổi chiều 19.11, khi Thủ tướng Shinzo Abe bắt đầu chuyến thăm chính thức Việt Nam, các tập đoàn hi-tech của Nhật mà Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng ngỏ lời mời đầu tư vào khu công nghệ cao Hoà Lạc đã đến thăm khu này. Sau đó, Thủ tướng Abe khẳng định trong "Diễn đàn đầu tư Việt - Nhật" là sẽ có một làn sóng đầu tư thứ hai từ Nhật. SGTT đã có cuộc trao đổi với giáo sư Kenichi Ohno, người được coi là chuyên gia hàng đầu về đầu tư Nhật tại Việt Nam xung quanh vấn đề này
Theo ông, làm cách nào để thu hút sự chú ý của các doanh nghiệp Nhật vào khu công nghệ cao Hoà Lạc?
Jetro (Tổ chức Ngoại thương Nhật) vừa dẫn một đoàn gồm 30 doanh nghiệp sang khảo sát đường giao thông, thủ tục hải quan (từ Quảng Châu đến Lạng Sơn, về Hà Nội và vào TP.HCM)
Không chỉ riêng khu này mà cả miền Bắc nói chung. Theo tôi, sự liên kết với miền Nam Trung Quốc – nơi tập trung các nhà cung cấp linh phụ kiện Đài Loan, Nhật Bản và Trung Quốc – là một lợi thế rất lớn mà cho đến bây giờ vẫn chưa được khai thác. Làm sao có thể vận chuyển nhanh từ miền Nam Trung Quốc đến Việt Nam và từ Việt Nam ra thế giới.
Theo tôi hiểu, miền Bắc Việt Nam cũng muốn trở thành một trung tâm sản xuất hàng điện tử như máy in, máy photocopy... Canon và Brothers đã có mặt ở đây, nhưng nếu chỉ có 2 hãng thì chưa bao nhiêu, bởi phải có nhiều hãng để cùng chia sẻ với nhau một số nhà cung cấp nhất định. Để các nhà cung cấp ở miền Nam Trung Quốc có thể chuyển linh kiện xuống lắp ráp ở Việt Nam, dịch vụ hậu cần phải được hoàn thiện. Các nhà lắp ráp hi-tech sẽ vào nếu nguồn cung cấp linh phụ kiện từ miền Nam Trung Quốc được bảo đảm với giá cạnh tranh.
Liệu phía Trung Quốc có hài lòng về việc này không? Bởi vì một mặt những doanh nghiệp thuộc ngành công nghiệp phụ trợ ở miền Nam Trung Quốc có thể mở rộng sản xuất để bán hàng cho các nhà lắp ráp ở miền Bắc Việt Nam, nhưng mặt khác cũng có nguy cơ một số nhà cung cấp này sẽ chuyển sang Việt Nam theo xu hướng "Trung Hoa cộng một".
Theo tôi được biết, thị trường chính của các nhà cung cấp ở đó là cả thế giới, nhất là Mỹ và Nhật, chứ bán nội địa chỉ là một phần nhỏ thôi. Tôi không nghĩ đó sẽ là một nguy cơ lớn đối với họ. Điều khiến tôi quan tâm là sau khi những xe tải chở hàng từ Trung Quốc qua Việt Nam, họ sẽ về xe không, và như vậy, Việt Nam cần phải kiếm một cái gì đó cho họ chở ngược lại.
Giữa Việt Nam và Trung Quốc cũng cần cải tiến thủ tục hải quan cho thuận tiện, nhanh chóng, nhất là việc không nên để cảnh hàng hoá phải chuyển từ xe Trung Quốc sang xe Việt Nam tại cửa khẩu, như vậy vừa mất thời gian vừa tốn thêm chi phí. Việc "kết nối nhanh" không chỉ nằm ở khía cạnh thời gian (đầu tư vào đường sá), mà còn là vấn đề quản lý xuất nhập khẩu bằng hệ thống máy tính, cũng như hệ thống kho bãi...
Việt Nam nên theo dõi những động thái về tình hình đầu tư của nước láng giềng Trung Quốc (sự đối đầu về chính trị, các cuộc biểu tình chống Nhật, quy định đầu tư mới buộc phải chuyển giao công nghệ) để có những bước đi cần thiết đúng lúc nhằm lôi kéo các nhà đầu tư Nhật sang Việt Nam
Việc liên kết giữa miền Bắc Việt Nam và miền Nam Trung Quốc, theo tôi, là một trong những nhân tố quan trọng cho việc thu hút các nhà lắp ráp Nhật Bản vào đây, và phải được Chính phủ nghiên cứu để vạch ra một chiến lược dài hạn và một quy hoạch tổng thể. Với động thái như vậy, Chính phủ sẽ chứng tỏ với các nhà đầu tư Nhật rằng họ rất nghiêm túc trong ý định thu hút đầu tư.
Jetro vừa dẫn một đoàn gồm 30 doanh nghiệp sang khảo sát đường giao thông, thủ tục hải quan (từ Quảng Châu đến Lạng Sơn, về Hà Nội và vào TP.HCM).
Cách đây mấy năm, Sumitomo cũng có một đoàn khảo sát như vậy. Họ đi ô tô từ Bangkok đến Đà Nẵng, rồi ra Hà Nội, trước khi qua Trung Quốc. Họ tính chính xác xem từng đoạn đường đi mất bao nhiêu thời gian, có những trạm kiểm soát nào, thời gian làm thủ tục hải quan mất bao lâu.
Theo tôi nghĩ, cần có những khảo sát mang tính hệ thống hơn, tiến hành trong cả năm trời chứ không phải qua một chuyến đi. Việc khảo sát này phải do Chính phủ, Bộ Kế hoạch đầu tư, hay Bộ Công nghiệp chủ trì và mời các doanh nghiệp FDI tham gia như một chương trình tiếp thị đầu tư, để sau đó nghe những ý kiến của họ về những gì cần cải thiện được. Phía Việt Nam thụ động quá, thu hút đầu tư là việc của Việt Nam cơ mà, tại sao cứ để cho World Bank hay Jetro làm.
Ông nghĩ gì về xu hướng "Trung Hoa cộng một" của các doanh nghiệp Nhật?
Việt Nam nên theo dõi những động thái về tình hình đầu tư của nước láng giềng Trung Quốc (sự đối đầu về chính trị, các cuộc biểu tình chống Nhật, quy định đầu tư mới buộc phải chuyển giao công nghệ) để có những bước đi cần thiết đúng lúc nhằm lôi kéo các nhà đầu tư Nhật sang Việt Nam.
Canon chẳng hạn, họ có rất nhiều nhà máy ở Trung Quốc rồi, nên quyết định đầu tư một vài cái ở Việt Nam để "san trứng" ra. Tức là khi muốn mở rộng sản xuất, các tập đoàn của Nhật có thể tính tới Việt Nam .
Còn đối với những công ty lần đầu tiên đầu tư ra nước ngoài, Trung Quốc bao giờ cũng là ưu tiên số một bởi thị trường hơn 1 tỉ dân là một yếu tố cực kỳ quan trọng để các nhà đầu tư tính đến. Trong các khảo sát đối với doanh nghiệp Nhật, câu hỏi không phải là đầu tư ở Trung Quốc hay một nước khác, mà là ở vùng nào của Trung Quốc. Thứ tự ưu tiên sau đó mới là Thái Lan, Mỹ và Việt Nam.
Huỳnh Phan