Thứ Sáu, 23 tháng 12, 2011

"Nghị quyết Năm Mới" của Đại sứ Hoa Kỳ


"Nghị quyết Năm Mới" của Đại sứ Hoa Kỳ

Chúng tôi muốn thế giới biết rằng hai nước có quan hệ song phương rất tốt, có những lợi ích chung, và cả hai phía đều có thể hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này, không chỉ kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, mà cả ngoại giao và quốc phòng. Quan hệ đối tác chiến lược là cách tốt nhất để điều hành và điều chỉnh mối quan hệ đang phát triển mà chúng ta đang có. Điều thú vị là những người Việt Nam tôi gặp rất quan tâm tới mối quan hệ này - Đại sứ Mỹ David Shear
Mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin trân trọng giới thiệu cuộc trò chuyện khá đặc biệt giữa phóng viên Huỳnh Phan và Đại sứ Mỹ David Shear.
Thứ nhất, cuộc trò chuyện được thực hiện trên xe hơi riêng của Đại sứ David Shear, trong chuyến đi Thái Bình ngày 16.12 vừa rồi của ông.
Thứ hai, đây không hẳn là cuộc phỏng vấn, mà là cuộc trò chuyện thoải mái giữa hai người lần đầu làm quen với nhau trong một chuyến đi. Mặc dù, tất nhiên, để có cuộc gặp đó hoàn toàn không phải do sự tình cờ.
Có điều, phóng viên cũng không cần phải mặt mày căng thẳng, với những câu hỏi "hóc búa" chuẩn bị sẵn, mà tiện đâu hỏi đấy, thích gì hỏi nấy. Còn vị đại sứ cũng không cần "thủ thế", "giữ kẽ", với tư cách là một nhà ngoại giao.
Đại sứ David Shear tự giới thiệu: "Trong nhiệm kỳ làm Phó Đại sứ Mỹ ở Kuala- Lumpur (Malaysia), hai vợ chồng tôi đã đi du lịch Việt Nam vào năm 2007. Chúng tôi rất thích Hà Nội, và Việt Nam nói chung. Lúc đó, tôi không hề nghĩ rằng sẽ có ngày mình sẽ quay trở lại Hà Nội với tư cách Đại sứ Mỹ tại Việt Nam. Tôi nghĩ tôi đã gặp may."
Đại sứ Hoa Kỳ tại  Việt Nam David Shear. Ảnh: Huỳnh Phan
Tôi tò mò không hiểu trải nghiệm về Việt Nam với tư cách một du khách có chút liên quan nào tới việc ông sang đây làm đại sứ không?
Rời Malaysia, tôi trở về Washington làm việc trong ba năm, làm mảng Trung Quốc. Những người ở cấp của tôi bắt đầu tìm chỗ để đi làm đại sứ. Việt Nam chuẩn bị có chỗ trống, và thực sự tôi cũng không hy vọng là mình sẽ được cử sang Việt Nam.
Thế nhưng, vào một ngày đẹp trời, Sếp gọi tôi lên và hỏi tôi có đi Việt Nam không. Ký ức về khoảng thời gian ngắn ngủi đi du lịch Việt Nam đã khiến tôi nghĩ rằng sẽ chẳng có lựa chọn nào tốt hơn. Con người thân thiện, đồ ăn ngon lành, và phong cảnh rất đẹp... Vậy, tại sao lại không đi Việt Nam?
Tôi biết ơn Sếp tôi, và Ngoại trưởng Hillary Clinton đã ủng hộ sự đề cử của tôi. Bởi một khi Bộ Ngoại giao đề cử, Nhà Trắng và Thượng viện phải phê chuẩn. Vì vậy, tôi cũng phải chờ một thời gian, và chỉ sang đây vào tháng 8 năm nay.
Vợ tôi tìm được một thầy dạy làm đồ gốm ngay gần nhà, thế là suốt ngày bà ấy vui thú với việc nặn lọ gốm.
Anh học tiếng Anh ở đâu?
Tôi tự học. Ngoại ngữ tôi được học ở trường lớp là tiếng Nga.
Anh còn nói tiếng Nga tốt chứ.
Cũng lâu không nói, do ít cơ hội giao tiếp.
Anh đã đến Moscow chưa?
Có, tôi học ở đó gần 2 năm, vào cuối những năm '70. Ông đã đến Moscow chưa?
Chưa. Nghề nghiệp của tôi chủ yếu dính dáng đến Nhật Bản, Triều Tiên, Trung Quốc và Đông Nam Á. Tôi đến châu Âu chỉ trong những chuyến công tác ngắn.
Có một lần tôi đã đến Berlin để đàm phán với Bắc Triều Tiên. Một cảm giác rất buồn cười khi đàm phán với người Bắc Triều Tiên ở Berlin.
Trước hay sau khi bức tường Berlin sụp đổ?
Tất nhiên là sau. Vào cuối những năm '90.
Người Mỹ muốn nhìn thấy một điều gì đó tương tự như nước Đức ở bán đảo Triều Tiên?
Có thể là vào một ngày nào đó. Nhưng tôi không hy vọng là sớm đâu.
Vâng, tôi cũng nghĩ vậy. Bắc Triều Tiên rất khác so với Đông Đức.
Trước khi sang đây, ông biết gì về Việt Nam? Về thời chiến nhiều hơn, hay thời bình nhiều hơn?
Nhiều người già ở Mỹ nghĩ tới Việt Nam là nghĩ tới cuộc chiến nhiều hơn. Nhưng cách nhìn đó đang thay đổi, do sự thay đổi thế hệ.
Còn tôi thì tìm hiểu cả hai, quá khứ lẫn hiện tại của Việt Nam. Tôi hiểu Việt Nam có vị trí địa chiến lược quan trọng.
Trước khi sang đây, tôi còn kịp học hai tháng tiếng Việt nữa. Tôi định tháng Một tới sẽ lại tiếp tục học tiếng Việt. Đó là Nghị quyết Năm Mới (New Year Resolution) của tôi. (Cười)
Tôi hy vọng là trước khi hết nhiệm kỳ ở đây, tôi sẽ có thể nói chuyện dễ dàng hơn với người Việt Nam. Chứ không ngớ ngẩn như lần tôi phải điều trần để Thượng Viện phê chuẩn.
Chuyện đó thế nào?
Khi đi dọc hành lang để vào cuộc điều trần trước Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện về việc phê chuẩn tôi làm đại sứ, tôi gặp TNS Jim Webb, người sẽ chủ toạ buổi điều trần đó. Tôi biết ông rất giỏi tiếng Việt, nên quyết định nói một câu tiếng Việt, với hy vọng lấy được thiện cảm của ông. Lúc đó, tôi mới học tiếng Việt được một tuần.
Khi bắt tay ông tôi trịnh trọng nói: "Rất hân hạnh được gặp chị."
Ông nhướn mắt nhìn tôi, rồi nói" Rất hân hạnh được gặp anh chứ."
Ông có cảm thấy thoải mái trong thời gian vừa qua ở Hà Nội không?
Rất thú vị. Tôi có một thời gian biểu rất bận rộn.
Không biết anh đã xem đoạn video khoảng hai phút tôi làm và đưa lên youtube nhiều tuần trước khi tôi sang đây. Trong đó tôi nói rằng một trong những nhiệm vụ của tôi là đại diện cho nước Mỹ trước chính phủ Việt Nam, và một nhiệm vụ khác là đại diện cho nước Mỹ trước nhân dân Việt Nam.
Để thực hiện được điều đó, tôi phải ra khỏi Hà Nội, tới thăm những tỉnh thành khác.
Trong lúc chờ cơm trưa ở nhà hàng “Cây Trầu”, người lái xe đã mời Đại sứ Shear thử uống nước vối. Trên đường về, ông hỏi liệu có thể tìm được “nước vối” ở Hà Nội không.
Ông đã kịp đi những tỉnh thành nào rồi?
Tôi đến Đà Nẵng hai lần, TP Hồ Chí Minh ba lần, Hội An, Bạc Liêu, Sơn La và Ninh Bình. Tôi cố gắng làm sao đến trước khi về, có thể đi đủ hết các tỉnh thành của Việt Nam, để gặp gỡ người dân những nơi đó và có một hiểu biết đầy đủ về đất nước các bạn.
Vậy chuyến đi này cũng để thực hiện điều đó?
Đúng. Nhưng tôi thực hiện với sự thích thú.
Hai nhiệm vụ với chính phủ và nhân dân khác nhau thế nào?
Tôi nghĩ nếu tôi kết hợp tốt giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân, công việc của tôi ở đây sẽ hiệu quả hơn nhiều.
Thế những người ông gặp ở địa phương có thái độ thế nào với ông?
Họ rất thân thiện và mến khách. Tôi luôn cảm thấy dễ chịu khi gặp họ.
Ông có cảm giác tương tự khi gặp các quan chức chính phủ không?
Có chứ. Trong ba năm trở lại đây, quan hệ hai nước đã được cải thiện nhiều. Hai bên đều cảm thấy dễ lĩnh hội quan điểm của nhau hơn, và dễ hợp tác hơn, so với trước đó.
Chúng ta đã nhận ra rằng chúng ta có nhiều lợi ích chung. Và nhiệm vụ của một đại sứ như tôi là giúp làm sao cả hai bên có thể theo đuổi những lợi ích chung đó.
Tôi đã gặp một số quan chức cao cấp trong chính phủ Việt Nam, và các cuộc trao đổi đều diễn ra khá thân thiện. Thứ trưởng Ngoại giao của chúng tôi William Burns đã thăm Việt Nam cách đây vài ngày, gặp gỡ với Thủ tướng, Ngoại trưởng và một loạt các quan chức cao cấp của chính phủ Việt Nam. Tôi đánh giá các cuộc gặp đó đều thú vị và hiệu quả.
Tôi nghĩ chúng ta có một tiềm năng rất lớn để phát triển quan hệ song phương. Cả ở cấp độ chính phủ và giữa nhân dân hai nước.
Anh nên nhớ rằng hiện có khoảng 15 ngàn sinh viên Việt Nam đang học tập ở khắp nơi trên đất nước Mỹ. Họ là những vị đại sứ tuyệt vời của Việt Nam trên đất Mỹ. Còn khi trở về nước, họ sẽ có những đóng góp quan trọng giúp Việt Nam trở nên giàu mạnh hơn.
Tôi nhắc tới điều đó để nhấn mạnh rằng đối ngoại nhân dân quan trọng như thế nào.
Quả thực là số sinh viên Việt Nam ở Mỹ bây giờ nhiều hơn so với số sinh viên Việt Nam cử sang Liên Xô học ở thời của tôi. Đó là một chỉ dấu rất quan trọng.
Và cũng dễ hiểu thôi, nền giáo dục đại học của Mỹ hấp dẫn không chỉ với giới trẻ Việt Nam, mà hầu như giới trẻ trên toàn thế giới. Con trai tôi chẳng hạn, vừa tốt nghiệp Đại học Ngoại thương được nửa năm và hiện đang làm Công ty Kiểm toán Delotte, cũng đang chuẩn bị để tìm học bổng sang Mỹ học cao học.
Ở sứ quán chúng tôi có một chuyên gia tư vấn về giáo dục. Hãy bảo cậu ấy đến đó để nhận được những chỉ dẫn và lời khuyên hữu ích cho việc tìm kiếm học bổng ở các trường đại học của Mỹ.
Xin cám ơn ông.
(Xe quay đầu trên đường Giải phóng)
Ồ, tôi biết chỗ ngoặt này để chuyển sang đường cao tốc. Tuần trước, tôi đi Ninh Bình, cũng hướng này.
Tôi đã đến Nhà thờ Phát Diệm. Và sau đó, vào bữa trưa chúng tôi ăn thịt dê, dê núi. Tuyệt vời. Sau đó, chúng tôi đi thuyền vào động Trang An.
Ông có uống rượu không?
Ồ, có. Cũng tuyệt.
Rượu tiết dê?
Ồ, không. Tôi chưa dám uống.
Ông có biết rằng tác giả của cuốn "Một người Mỹ trầm lặng" cũng đã từng nằm trên tháp chuông của của Nhà thờ Phát Diệm không?
Graham Green? Hay nhỉ?
Năm 1993, tôi đã dẫn một nhà văn Mỹ, người đang viết sách tiểu sử về Graham Green (tập 2) đến Nhà thờ Phát Diệm. Ông đòi lên Tháp chuông xem và chụp ảnh vì Graham Green đã từng nằm ở đó.
Đó là thông tin bây giờ tôi mới biết.
Ông thích cuộc sống ở đô thị, hay nông thôn, hơn?
Tôi mong rằng, sau khi nghỉ hưu, tôi sẽ có hai ngôi nhà, một ở thành phố, một ở thôn quê. Tôi sẽ để ý tiết kiệm tiền hơn để thực hiện được ý định đó.
Anh đã tới Thái Bình lần nào chưa?
Rồi. Lần trước, cách đây hơn 3 năm, tôi đã đi theo những người làm dự án về sự tham gia của người dân vào việc điều hành ở thôn xã.
Cách đây hơn 10 năm, ở Thái Bình đã xảy ra bất ổn lớn. Sau đó, cả chính quyền và một tổ chức NGO đã vào cuộc để xây dựng cơ chế dân chủ cơ sở, tức là tổ chức do người dân lập ra tự giải quyết một phần các mối quan hệ trong đời sống cộng đồng.
Kết quả ra sao?
Rất tốt, ít nhất là tốt hơn nhiều so với trước đó. Chính quyền thôn xã cũng thừa nhận rằng công việc của họ cũng đỡ phức tạp đi nhiều.
Ông nói là ông có lên Sơn La. Vậy ông nhìn nhận như thế nào về sự chênh lệch về trình độ phát triển ở đó với dưới này?
Quả thật là tôi có nhận thấy sự chênh lệch đó. Nhưng tôi cũng nhìn thấy cố gắng của Sơn La. Bằng chứng là tôi nhìn thấy rất nhiều xe máy trên đó, và việc canh tác trong những thung lũng ở Sơn La tỏ ra khá có hiệu quả.
Tôi rất muốn quay trở lại Tây Bắc để tìm hiểu thêm, và lưu lại lâu hơn, bởi tôi đã ở Sơn La chỉ có một ngày. Và tôi cũng muốn đến thăm Điện Biên Phủ.
Đúng vậy. Và lần tới, ông nên đi sâu hơn nữa vào vùng núi, nơi ông sẽ nhìn thấy ít xe máy hơn, và cuộc sống của người dân khó khăn hơn nhiều.
Con gái tôi hiện sống và làm việc ở New York. Cô bé sẽ sang Việt Nam chơi vào tháng Một, hay tháng Hai tới. Cô bé muốn đi du lịch Sa Pa. Có lẽ, chúng tôi sẽ đi tàu hoả lên đó, và chơi ở đó khoảng đôi ba ngày. Con gái tôi đã đi cùng chúng tôi trong chuyến du lịch Việt Nam năm 2007.
Kết hợp giữa ngoại giao nhà nước và ngoại giao nhân dân là triết lý ngoại giao riêng của ông?
Không. Các đại sứ quán của Mỹ trên khắp thế giới đều làm như vậy.
Và đại sứ quán Việt Nam tại Washington, cũng như các lãnh sự quán ở vài bang khác, cũng làm điều tương tự.
Tất nhiên, ở cương vị đại sứ, tôi xuất hiện nhiều hơn trước những người dân Việt Nam, ở những sự kiện khác nhau, như tôi sắp làm trong chuyến đi này.
Nhưng không chỉ có tôi. Mọi nhân viên đại sứ quán đều phải ra ngoài làm nhiệm vụ này ở các sự kiện khác nhau.
Họ có phải xin phép khi phát biểu ở đâu đó không?
Tôi nghĩ là chúng tôi phải được sự cho phép của chính quyền phía Việt Nam để đi thăm một nơi nào đó. Nhưng, theo tôi biết, chúng tôi không cần xin phép khi phát biểu.
Điều mà tôi thấy thú vị là người Việt Nam rất tò mò về mọi khía cạnh trong quan hệ giữa hai nước chúng ta. Và tôi cũng rất thích thú khi hỏi họ về những điều họ suy nghĩ, họ quan tâm. Cứ mỗi lần đi tỉnh trở về, là lại một lần kiến thức của tôi về Việt Nam, về công việc của mình, lại dày dặn thêm.
Người dân thường hỏi ông những gì? Hay loại câu hỏi nào mà ông thường phải trả lời nhất?
Chẳng hạn, khi tôi gặp gỡ những người trẻ tuổi, tôi thường hay phải trả lời về việc làm thế nào để một thanh niên Việt Nam có thể qua Mỹ học, làm cách nào để tìm trường phù hợp, xin được visa, hay kiếm học bổng... Và chúng tôi cố gắng đáp ứng nguyện vọng của họ thông qua website của sứ quán, thông qua Văn phòng Education USA ở Hà Nội và Tp Hồ Chí Minh.
Nhưng tôi nghĩ đó là mối quan tâm của giới trẻ ở đô thị, nơi có điều kiện tiếp cận giáo dục tốt hơn. Còn ở nông thôn, chắc giới trẻ quan tâm đến chuyện khác nhiều hơn, bởi chuyện đi học ở Mỹ với họ, theo tôi nghĩ, có vẻ hơi xa xỉ?
Ngay cả ở Bạc Liêu, tôi cũng gặp những thanh niên muốn sang Mỹ học. Tất nhiên, ở đó họ cũng quan tâm nhiều tới việc thu hút đầu tư từ Mỹ đến địa phương của họ.
Một mối quan tâm nữa của những người Việt tôi gặp là làm sao cải thiện hệ thống giáo dục của Việt Nam. Vì vậy, một trong những ưu tiên của tôi là tìm cách cải thiện hạ tầng giáo dục, và cả hạ tầng y tế, ở đây.
Tôi tò mò, không hiểu người dân thường ở Việt Nam mà ông gặp có quan tâm tới mối quan hệ đối tác chiến lược mà hai chính phủ chúng ta đang hướng tới không?
Có chứ, họ cũng rất quan tâm. Tuyên bố của Ngoại trưởng Hillary Clinton vào tháng 10 năm ngoái tại Hà Nội, rằng hai nước mong muốn xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, chính là một cách báo hiệu tốt nhất cho thế giới về quan hệ ngày càng được cải thiện giữa hai nước. Chúng tôi muốn thế giới biết rằng hai nước có quan hệ song phương rất tốt, có những lợi ích chung, và cả hai phía đều có thể hưởng lợi rất nhiều từ mối quan hệ này, không chỉ kinh tế, giáo dục, y tế, môi trường, mà cả ngoại giao và quốc phòng.
Quan hệ đối tác chiến lược có một nội hàm rất rộng, rất toàn diện, và là cách tốt nhất để điều hành và điều chỉnh mối quan hệ đang phát triển mà chúng ta đang có.
Điều thú vị là những người Việt Nam tôi gặp rất quan tâm tới mối quan hệ này, và tôi luôn nhấn mạnh tới những lợi ích chung của Việt Nam và Mỹ.
Tôi muốn khẳng định lại là những người Việt Nam bình thường khi nói chuyện với ông hỏi ông về quan hệ đó, chứ không phải ông chủ động nói với họ. Bởi dường như vế đầu tiên thực sự có ý nghĩa hơn?
Đúng, họ luôn hỏi tôi về mối quan hệ đối tác chiến lược. Và, anh nói đúng, điều đó thực sự có ý nghĩa quan trọng.
Tôi có đọc thông cáo báo chí của Đại sứ quán Mỹ liên quan đến chuyến đi của Thứ trưởng William Burns sang Việt Nam. Trong đó có nói rằng hai bên đang xác định nội hàm của khái niệm đối tác chiến lược. Ông có nghĩ rằng cả phía Việt Nam cũng hiểu khái niệm như phía Mỹ hiểu không? Xin lỗi vì câu hỏi hơi ngớ ngẩn của tôi, nhưng trên thực tế Việt Nam đã có quan hệ đối tác chiến lược với một loạt quốc gia, thậm chí cả Tây Ban Nha nữa.
(Cười lớn) Tôi nghĩ, riêng về mối quan hệ đối tác chiến lược Việt - Mỹ, cả hai bên đều hiểu rõ điều đó thực sự có ý nghĩa gì. Trong những tháng tới cả hai bên sẽ làm việc để xác định những lĩnh vực cụ thể. Nhưng tôi muốn khẳng định lại rằng đây là một mối quan hệ toàn diện, bao gồm tất cả các lĩnh vực. Đây là cách để hình thành một lối tư duy mới cả từ hai phía để làm sao đưa mối quan hệ lên một tầm cao mới.
Ông có cho rằng hiệp định đối tác xuyên Thái Bình Dương (TPP) sẽ là một bộ phận cấu thành quan trọng của quan hệ đối tác chiến lược Mỹ - Việt?
Theo tôi hiểu, Việt Nam mong muốn hội nhập sâu hơn nữa vào nền kinh tế toàn cầu. Việc tham gia TPP sẽ giúp Việt Nam có thể giúp Việt Nam thực hiện mong muốn đó, và còn hơn nữa - hội nhập đầy đủ vào nền kinh tế toàn cầu.
Ông nghĩ thế nào về triển vọng ký TPP trong vòng một năm nữa?
Các nguyên thủ của các quốc gia đang đàm phán TPP đã gặp nhau hồi tháng 10 ở Honolulu trong cuộc gặp thượng đỉnh (lần thứ hai). Họ đã cam kết sẽ hoàn tất đàm phán TPP trong năm 2012. Đó là một quá trình phức tạp, với những cam kết mở cửa rất rộng, nên sẽ phải có nhiều việc phải làm. Các nhà đàm phán Việt Nam là những nhà đàm phán giỏi, cứng rắn, nhưng cũng có nét thú vị riêng, và quan trọng, là họ hiểu được tất cả những lợi ích của Việt Nam khi ký hiệp định này.
Tôi tin là cuối cùng mọi chuyện sẽ ổn thoả, bởi các nguyên thủ đã cam kết sẽ thúc đẩy mạnh trong năm tới.
(Còn tiếp...)

Niềm tin và thất vọng


Niềm tin và thất vọng

Liên quan đến việc BTA không ký được tại Aukland vào tháng 9.1999), theo suy đoán của tôi, đã có cái gì đó xảy ra trong chuyến thăm Hà Nội của Ngoại trưởng Madeleine Albright, trên đường sang dự APEC. Chắc bà ta đã nói gì đấy khiến lãnh đạo Việt Nam phải cân nhắc lại việc có nên ký BTA với Mỹ hay không. Bởi mọi thứ gần như đã hoàn thiện cho việc ký kết rồi - Trưởng đoàn đàm phán BTA Mỹ - Việt Joe Damond.
Tức là đã có lúc nào ông nghĩ rằng ông và đối tác của mình sẽ không đi được tới đích?
Đúng vậy.
Bản fax ông nhận được đầu năm 1998 là từ ai, và nội dung thế nào?
Ngay vào ngày làm việc đầu tiên của năm mới 1998, sau kỳ nghỉ Giáng sinh, tôi đã nhận được một bức fax, vì hồi đó chưa có Internet. Đó là bức thư của ông Lương, khoảng 5-6 trang gì đó. Trong thư ông Lương nêu rõ những bước mà phía Việt Nam sẽ tiến hành, một cách tổng quát nhất.
Đọc xong tôi hiểu rằng chúng tôi có thể tiếp tục đàm phán để ký hiệp định.
Đó chính là bước ngoặt của đàm phán?
Đúng vậy. Tôi đã thực sự ngỡ ngàng khi đọc bức thư đó. Mặc dù trước đó Ginny Foote và Dan Price, người tư vấn cho ông Lương, đã báo với tôi rằng tôi có thể hy vọng ở một cách tiếp cận hoàn toàn khác từ phía Việt Nam.
Bà Ginny Foote thì tôi có biết. Nhưng Dan Price đóng vai trò gì trong tiến trình đàm phán?
Ginny đã rất sáng suốt khi giới thiệu Dan cho ông Lương. Tôi biết rõ Dan, vì ông từng làm cùng với tôi ở USTR, tất nhiên là ở vị trí cao hơn.  Dan là một người tuyệt vời, bởi ông có nhiều kinh nghiệm trong đàm phán BTA với Liên Xô.
Chẳng hạn, lúc đầu phía Việt Nam đề nghị chúng tôi cho biết lộ trình mở cửa thị trường của Việt Nam như thế nào thì phía Mỹ mới có thể chấp nhận.
Tất nhiên là tôi biết, nhưng làm sao tôi có thể nói cho họ được, bởi đơn giản là tôi không đàm phán vì lợi ích của Việt Nam. Phía Việt Nam phải "ra giá" trước, và tôi sẽ "trả giá".
Và sự xuất hiện của Dan thật đúng lúc. Dan hiểu lộ trình mở cửa ở mức nào thì Mỹ có thể chấp nhận được, và ông đã có sự tư vấn tốt cho phía Việt Nam.
Một điều khác khiến tôi ngạc nhiên là làm sao ông Lương và ông Dan có thể thuyết phục được các bộ liên quan của Việt Nam đồng ý với bản dự thảo đó.
À, có một điều này, tuy anh không hỏi, nhưng tôi vẫn muốn nói ý kiến của mình. Đó là sau khi gửi bản thiết kế nội dung đàm phán cho tôi, ông Tuyển và ông Lương vẫn tiếp tục phải giải thích và thuyết phục trong nội bộ Việt Nam để đạt được sự đồng thuận.
Tại sao ông biết?
Thì họ gửi thư cho tôi, yêu cầu tôi khẳng định rõ rằng chỉ có với bản thiết kế vừa rồi phía Mỹ mới có thể ngồi lại cùng phía Việt Nam để đàm phán một cách thực chất. Tôi hiểu bức thư trả lời của tôi là cơ sở để họ thuyết phục trong nội bộ chính phủ Việt Nam.
Đúng là lần đầu tôi mới được nghe câu chuyện như thế này.
Tôi vẫn nghĩ ông Lương lúc đó bất đắc dĩ phải bày những "kỹ xảo" như vậy để đạt được mục đích cuối cùng. Ông còn yêu cầu tôi phải hết sức mạnh mẽ và cứng rắn khi nêu lập trường của mình với đoàn đàm phán Việt Nam.
Tức là ông Lương muốn thông qua ông để làm "nhúc nhắc" những người đứng sau khỏi sức ỳ vốn có của họ?
Chính xác. Ít nhất là tôi cảm nhận được điều đó một cách rõ ràng. Và, nhờ đó, phía Việt Nam đã quay lại bàn đàm phán vào tháng 5.1998 với một bản chào tốt hơn hẳn.
À, còn một chi tiết quan trọng nữa mà không thể không nhắc tới.
Đó là vào mùa hè năm 1997, Bộ Thương mại Việt Nam đã gửi một nhóm sang Geneva (Thuỵ sĩ) làm việc với bộ phận chuyên môn trong ban thư ký WTO để tìm hiểu về WTO, trong đó có luật sư của đoàn đàm phán Việt Nam Nguyễn Hồng Dương, con rể của ông Lương. Sau khi trở về, họ thực sự là những chuyên gia thực thụ. Thậm chí, họ hỏi tôi những câu mà tôi không thể trả lời ngay được, và phải về tra cứu lại tài liệu.
Từ thời điểm đó, họ hiểu những điều chúng tôi đưa ra. Điều quan trọng nhất họ hiểu là những tiêu chuẩn trong đó không phải là tiêu chuẩn Mỹ, mà là tiêu chuẩn của WTO.
Trong khi Việt Nam đàm phán BTA với Mỹ, thì đồng thời Trung Quốc cũng đàm phán với Mỹ về việc gia nhập WTO. Ông có thỉnh thoảng liếc mắt sang tiến trình đó không?
Có chứ. Bộ phận phụ trách đàm phán với Trung Quốc ở USTR ở ngay gần văn phòng tôi, nên tôi cũng học được nhiều từ họ.
Ông học được gì?
Nền kinh tế Việt Nam và nền kinh tế Trung Quốc tương tự nhau, bởi nằm cùng trong một hệ thống kinh tế XHCN. Có điều Trung Quốc đi trước Việt Nam khá xa mà thôi.
Để tôi kể một ví dụ.
Khi đó, một trong những vấn đề lớn trong đàm phán giữa Mỹ và Việt Nam là quyền thương mại và quyền phân phối. Ở Việt Nam chỉ có doanh nghiệp nhà nước độc quyền làm thương mại.
Các đồng nghiệp đang đàm phán với Trung Quốc đã cho tôi xem một tập tài liệu, khoảng ba trang gì đó, là những gì họ đã làm với Trung Quốc.
Đọc xong, tôi thốt lên: "Hoàn toàn tương tự như những gì tôi đang làm với phía Việt Nam, và tôi có thể sử dụng nó để điều chỉnh phương án của mình."
Trưởng đoàn đàm phán BTA Mỹ - Việt Joe Damond.Ảnh: Thái An
Tôi biết rằng khi Việt Nam đàm phán gia nhập WTO, quyền thương mại và quyền phân phối cũng là những điểm họ cố gắng bảo vệ cho DNNN?
Đúng vậy. Đó chính là hai điểm khó khăn nhất khi tôi đàm phán với Việt Nam. Nếu anh nhìn hiệp định, sẽ thấy một danh sách dài những lĩnh vực cần được tự do hoá quyền thương mại. Tất nhiên, lúc đó, chúng tôi tách riêng quyền phân phối ra.
Và chúng tôi đành chấp nhận nhượng bộ, vì chúng tôi muốn hiệp định có tính khả thi, nhưng không phải cho mọi lĩnh vực. Có lĩnh vực mười năm, nhưng có lĩnh vực chỉ năm năm, thậm chí là hai năm thôi.
Tại Aukland vào tháng 9.1999, các ông có cả đoàn đàm phán?
Đúng vậy.
Và các ông ngồi chơi xơi nước ở đó?
(Cười to) Đúng vậy. Cho đến tận giây phút cuối cùng.
Nói chính xác hơn, là chúng tôi có làm việc với ông Lương về lời văn của hiệp định.
Hiệp định được đàm phán bằng tiếng Anh, được viết bằng tiếng Anh, rồi phía Việt Nam mới dịch ra tiếng Việt. Tôi phải dùng chuyên gia giỏi tiếng Việt của chúng tôi kiểm tra lại xem bản dịch có thể hiện chính xác hay không.
Điều làm tôi đau đầu là chuyên gia tiếng Việt của chúng tôi tranh luận với Luật sư Nguyễn Hồng Dương của phía Việt Nam, không ai chịu ai. Tôi đứng giữa không biết phải phán xử thế nào.
Chúng tôi cứ làm việc như vậy cho đến khi Bộ trưởng Trương Đình Tuyển xuất hiện cùng Thủ tướng Việt Nam cho sự kiện APEC. Khi họ đến sân bay, họ vẫn chưa biết quyết định cuối cùng từ lãnh đạo cao cấp của Việt Nam.
Vậy ai báo cho ông biết là hiệp định sẽ không được ký ở Aukland?
Tôi có một phòng suite ở khách sạn, nơi tôi và ông Lương cùng làm việc với nhau về văn bản.
Khi đang ngồi trong đó, tôi nhận được cú điện thoại từ Đại Sứ quán Việt Nam tại Hà Nội rằng một thứ trưởng ngoại giao Việt Nam đã báo với Đại sứ Peterson là hiệp định không ký được.
Cảm giác của ông lúc đó?
Tôi bị sốc thực sự.
Tôi ra ngoài, và nói với ông Lương rằng tôi đã nhận được một cú điện thoại như vậy.
Lương không hề biết. Ông ấy bảo ông Tuyển vừa hạ cánh được một giờ, và ông gọi cho Bộ trưởng Tuyển để kiểm tra lại.
Rồi ông thở dài và nói: "Anh nói đúng."
Ông có nghĩ rằng ông Lương thực sự chưa biết điều đó khi ông thông báo không?
Tôi tin chắc là ông không biết. Bởi tôi theo dõi rất kỹ sự thay đổi sắc diện của ông khi gọi điện thoại cho ông Tuyển.
Tổng thống Clinton có được thông báo trước rằng hiệp định sẽ được ký ở Aukland, và ông sẽ chứng kiến thời khắc lịch sử đó?
Đúng vậy. Tôi đã nói chuyện với Nhà Trắng về lễ ký. Và tôi chờ đợi giây phút được hiện diện cùng với Tổng thống Clinton trong sự kiện trọng đại đó, điều mà tôi chưa từng được cảm nhận trước đó.
Tôi đã hình dung sẽ lật trang cho Trưởng Đại diện Thương mại Mỹ Barshefski ký, còn Tổng thống Clinton đứng đằng sau sẽ dõi theo từng động tác của tôi.
Ông có tình cờ biết được phản ứng của Tổng thống Clinton khi biết sự kiện ông mong chờ để hoàn tất tiến trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam, từ ngoại giao đến thương mại, mà ông chính là người khởi đầu, trước sự hiện diện của nguyên thủ hai chục nền kinh tế APEC, bị đổ bể, không?
Không.
Đến lúc nào thì ông biết nguyên nhân của việc đình lại chuyện ký kết?
Tất cả những gì chúng tôi được biết là Hà Nội đã không đạt được sự đồng thuận cuối cùng. Có ai đó trong giới lãnh đạo Việt Nam đã phản đối vào phút chót, rằng chưa phải thời điểm thích hợp để ký BTA với Mỹ.
Tại buổi hội thảo nhân kỷ niệm 10 năm thực thi BTA (9.12.2011), ông bảo ông đã nghĩ rằng ông sẽ phải mất thêm năm năm nữa để đàm phán lại từ đầu. Ông thực sự lo sợ đến như vậy?
Tôi e rằng người ta sẽ gọi ông Lương đến, và chỉ thị rằng "ông và ông Tuyển đã cho phía Mỹ quá nhiều, và bây giờ nhiệm vụ của ông là phải đòi lại".
Tức là xoá bàn cờ đi, chơi lại từ đầu?
Tôi đã e là như vậy.
Theo ông, nguyên nhân chính là gì?
Tôi thực sự không biết rõ ràng điều gì đã xảy ra. Nhưng, theo suy đoán của tôi, đã có cái gì đó xảy ra trong chuyến thăm Hà Nội của Ngoại trưởng Madeleine Albright, trên đường sang dự APEC. Chắc bà ta đã nói gì đấy khiến lãnh đạo Việt Nam phải cân nhắc lại việc có nên ký BTA với Mỹ hay không.
Bởi mọi thứ gần như đã hoàn thiện cho việc ký kết rồi. Và như ông Lương và tôi cùng khẳng định tại buổi hội thảo đó, rằng chúng tôi chỉ mất có nửa tiếng đồng hồ để giải quyết gọn gàng 12 điều khoản kỹ thuật còn lại, khi chúng tôi gặp nhau ở Washington DC vào tháng 7.2000.
Ông Joe Damond và ông Nguyễn Đình Lương. Ảnh: Thái An
Nhưng nếu chỉ có vậy, tại sao ông lại lo sợ rằng việc đàm phán sẽ bắt đầu từ đầu và kéo dài thêm 5 năm nữa?
Tôi đoán rằng ở trong giới lãnh đạo Việt Nam, kể cả trong chính phủ, vẫn có những người không muốn mở cửa thị trường cho Mỹ. Họ sẽ nhân cơ hội đó để chỉ trích rằng ông Lương và ông Tuyển đã nhượng bộ quá nhiều, và như thế là không thể chấp nhận được.
Vậy trong thời gian 10 tháng giữa Aukland và Washington ông có trao đổi gì với ông Lương không?
Mãi sau này. Chứ còn lúc đầu, chúng tôi quyết định rằng họ muốn ký thì ký, còn không thì thôi. Chúng tôi không muốn nhắc lại chuyện này nữa.
Ông Lương có gửi thư mời tôi sang Hà Nội vào khoảng giữa tháng Ba. Tôi cũng rất muốn sang để nói chuyện với ông Lương xem có cách nào cứu vãn được bản hiệp định mà hai chúng tôi cùng hai đoàn đàm phán đã lao tâm khổ tứ suốt mấy năm ròng không, tuy chỉ là về những vấn đề kỹ thuật.
Nhưng cả bà Barshefski, cả phó của bà là ông Fisher, và cả Đại sứ Peterson, đều nói tôi không được sang Việt Nam. Nếu trưởng đoàn đàm phán phía Mỹ sang Việt Nam, điều đó sẽ là một tín hiệu cho phía Việt Nam hiểu rằng phía Mỹ sẵn sàng đàm phán lại.
Quả thật, trong thời gian đó tôi rất lúng túng. Tôi không biết phải làm gì, mặc dù rất muốn làm một cái gì đó.
Vậy bế tắc được phá vỡ như thế nào, để sau đó bốn tháng, hai bên cuối cùng lại ký được hiệp định?
Lại là vai trò của Ginny Foote. Dan Price sang Hà Nội, và mọi chuyện trở nên rõ ràng hơn.
Đến tháng 7.2000, đi cùng với ông Lương sang Washington DC có cả ông Vũ Khoan, người thay thế ông Trương Đình Tuyển tại Bộ Thương mại. Tôi hiểu là mọi chuyện đã OK thật rồi.
Sau khi BTA được ký, ông có tiếp tục làm cho USTR không?
Chỉ thêm một năm thôi.
Tại sao?
Tôi đã rất may mắn ký được một hiệp định rất quan trọng, mang tính lịch sử. Tôi đã được vào Nhà Trắng, được bắt tay Tổng thống Mỹ.
Tôi nghĩ vận may đó sẽ không lặp lại. Phúc bất trùng lai mà.
Vì vậy, tôi đã quyết định rời USTR để tìm thách thức mới. Đó cũng là lý do tôi viết hồi ký đàm phán BTA.
Tôi muốn toàn bộ quá khứ đó được cất giữ trong cuốn sách, chứ không theo tôi trên con đường tôi đang đi, trước khi tôi trao lại nó cho con cái mình, để chúng hiểu về một thời đáng nhớ của cha chúng. Thật hạnh phúc khi hình dung cái thời khắc đó, khi tôi đã già.
Bao giờ tập hồi ký này sẽ được xuất bản?
Hy vọng là năm sau. Tôi đã cùng ông Lương đến Nhà Xuất bản Thế giới để làm việc với họ.
Bản tiếng Anh đã xuất bản bên Mỹ chưa?
Chưa. Hy vọng là nó sẽ được in bên Mỹ, sau khi đã ra mắt ở Việt Nam.
Xin cám ơn ông.
Đại sứ "Pete" Douglas Peterson nói với tác giả vào tháng 7.2010, bên lề cuộc hội thảo ở Hà Nội kỷ niệm 10 năm bình thường hoá quan hệ ngoại giao Việt - Mỹ:
"Khi Việt Nam, vào mùa xuân năm 2000, gửi tín hiệu sang bên Mỹ về việc muốn nối lại đàm phán, phía Mỹ muốn chờ thêm một thời gian nữa để khẳng định thêm rằng Việt Nam thực sự muốn ký BTA với Mỹ. Chúng tôi không muốn thảm hoạ ở Aukland bị lặp lại.
Với việc chậm ký BTA, Việt Nam đã lỡ mất ít nhất hai năm để khởi động đàm phán cho việc gia nhập WTO của Việt Nam, và cũng vì vậy lỡ mất cơ hội gia nhập WTO sớm hơn. Hơn nữa, khi Việt Nam khởi động đàm phán song phương gia nhập WTO một cách thực sự (năm 2004), mức xà đã được nâng lên, và Việt Nam buộc phải nhảy cao hơn. Tức là phải cam kết nhiều hơn."