Thứ Sáu, 11 tháng 11, 2011

Trò chuyện với nhà ngoại giao "ít nói dối"

Thứ năm, 22 Tháng hai 2007, 00:44 GMT+7
    Trò chuyện với nhà ngoại giao "ít nói dối"

- Trong năm 2006 vừa rồi, cùng với một số nhân vật nổi tiếng, bà Tôn Nữ Thị Ninh xuất hiện nhiều trên truyền thông trong chùm sự kiện liên quan đến việc Việt Nam gia nhập WTO. Đã có những cách nhìn nhận đánh giá khác nhau về vai trò của bà, cũng như của những người này, trong dòng thời sự của cuộc vận động.

Nhưng, tựu trung, bà vẫn được coi là một nhà ngoại giao, và trước hết là một phụ nữ, thông minh, sắc sảo, và, đặc biệt, rất có chính kiến, cũng như dám công khai bộc lộ chính kiến của mình. Cũng với một cách nhìn thẳng vào vấn đề như vậy, bà đã nói với TS về quan niệm làm ngoại giao, và quan niệm về phụ nữ, trong thời đại hội nhập.

Tro chuyen voi nha ngoai giao it noi doi
Bà Tôn Nữ Thị Ninh đang trao đổi với một đại biểu nước ngoài trong một cuộc hội thảo.

Tôi không hợp kiểu phát ngôn bài vở sẵn

Cựu Đại sứ Mỹ tại VN "Pete" Douglas Peterson có nói rằng rất ấn tượng với lần Bà lên phát biểu trên truyền hình ở New York hồi cuối năm 2004. Bà có thể kể lại đôi chút về kỷ niệm đó không?

Tôi không nhớ đâu. Cứ ở đâu tôi quảng bá được cho Việt Nam thì tôi nhận lời tất. Có nhiều người ngại. Tôi từng nói rằng thời chiến tranh mình dũng cảm tiến công như thế, sao bây giờ thời bình mình lại phòng ngự thế.

Tôi không hợp với kiểu phát ngôn của Bộ Ngoại giao, tức là bài vở sẵn hết rồi, chắc nịch từng câu chữ, không được thêm nửa lời. Anh theo dõi thì thấy người phát ngôn Nhà Trắng cũng chỉ phát biểu những câu cộc lốc đã chuẩn bị trước, còn ai hỏi thêm nói: “Tôi chỉ có quyền nói đến thế.” Rồi quay phắt lưng đi.

Ý bà là...

Ý tôi là nếu cho công tác thông tin đối ngoại của mình chỉ bó gọn vào người phát ngôn BNG, và nay có thêm người phát ngôn của Thủ tướng, là đủ, thì hoàn toàn là ngộ nhận. Đó chỉ là một trong nhiều binh chủng cùng tham gia một mặt trận. Tôi nghĩ tôi thuộc "lực lượng triển khai linh hoạt", như người ta thường gọi.

Và như vậy, có thể coi việc Bà chuyển sang Quốc hội là một sự may mắn với Bà?

Cũng có một vài bạn bè cứ tiếc rằng giá mà tôi cứ tiếp tục trụ trong ngành ngoại giao. Về đây, tôi vẫn làm công tác đối ngoại, nhưng cái thú vị ở đây là nhiệm vụ đàm phán ký kết thoả thuận gì gì đó thì hầu như không còn nữa.

Cái mà tôi cho là mình được phát triển nhiều hơn là công tác thông tin đối ngoại. Trên thực tế, khi nước ngoài họ được giới thiệu rằng trước mặt họ là một nhà ngoại giao thì họ không chờ đợi gì nhiều từ sự đổi mới, hay một bộ mặt mới. Còn quốc hội qua lăng kính của họ là một định chế khá mới mẻ, và thú vị.

Khi thì bà đi với tư cách là một nghị sĩ, Phó Ban Đối ngoại Quốc hội, khi thì với tư cách một học giả. Bà đánh giá mình hiện giờ là một nhà ngoại giao chuyên nghiệp, hay là một nhà ngoại giao nhân dân?

Nhà nước bao gồm chính phủ và quốc hội, cho nên đối ngoại của quốc hội là một binh chủng, nhỏ thôi, bên cạnh cái binh chủng lớn là ngoại giao của chính phủ. Ngoại giao chính phủ nó rất gò ép, còn ngoại giao nhân dân thì thoải mái hơn nhiều. Ngoại giao quốc hội có cái gì đó nằm giữa hai cái đó.

Tôi đã từng nói với một thành viên trong Hội đồng An ninh Quốc gia Mỹ, rằng "các ông cứ trách việc VN phản đối việc Mỹ vào Iraq. Ông mới nghe chính phủ thôi, chứ ông có muốn nghe cử tri của tôi nói gì không về hành vi của Mỹ không?"

"Tháng 3 Mỹ đánh, thì tháng 4 tôi đi tiếp xúc cử tri, và có một cựu chiến binh đã thắc mắc rằng Chính phủ VN phản đối không đủ mạnh", tôi trả lời luôn.

Như vậy, làm đối ngoại quốc hội dễ nói hơn, vì có thể truyền đạt lại ý kiến cử tri, nhân danh cử tri, nên đỡ gò ép, hay phải cân nhắc quá mức. Nói tóm lại, đối ngoại quốc hội làm cho đối ngoại của VN nhiều màu sắc, uyển chuyển hơn.

Hơn nữa, chúng tôi cũng dễ kết hợp hơn với ngoại giao nhân dân, tức là Liên hiệp các tổ chức hữu nghị, hay các đoàn thể quần chúng khác.

Từ khi về phụ trách Quốc hội Bắc Mỹ, tôi tự đặt cho mình một câu hỏi: Về đây tôi sẽ là cái gì? Quốc hội cần làm gì để đổi mới, và tôi có thể tham gia như thế nào?

Trong công cuộc Đổi Mới của VN, người ngoài thường đánh giá nhiều ở quá trình dân chủ hoá, và quốc hội có thể là minh chứng cho điều đó một cách thuyết phục và sinh động nhất. Nhưng thực chất mình phải làm hay thì mới nói hay được, chứ mình làm dở thì nói hay cũng khó, chỉ nguỵ biện thôi.

Ai cũng công nhận rằng những người làm thông tin trên thế giới này cũng sử dụng một phần nguỵ biện, nhưng nguỵ biện có nghệ thuật. Tôi đã từng nói với sinh viên Học viện Quan hệ Quốc tế rằng một nhà ngoại giao giỏi, cũng như là một nhà truyền thông giỏi, phải ít nói dối, càng ít càng tốt.

Quan điểm ngoại giao "truyền thống" đã lỗi thời

Điều đó khác hẳn với định nghĩa rất "classic" về nhà ngoại giao, tức là “nhà ngoại giao là người trung thực, được cử ra nước ngoài nói dối, vì lợi ích quốc gia”?

Nhà ngoại giao, theo quan điểm của tôi, phải cố gắng trung thực tối đa, như mọi con người lành mạnh và tốt đẹp. Nhưng sự khác nhau giữa nhà ngoại giao và những người làm công việc khác như thống kê, hay bán hàng, là nhà ngoại giao phải thể hiện sự trung thực của mình một cách toàn diện, sâu sắc, chứ không phải trung thực một cách hồn nhiên. Hay như cánh truyền thông các anh hay nói: Một nửa sự thật không phải là sự thật.

Sự trung thực một cách sâu sắc đó đòi hỏi phải có kinh nghiệm, phương pháp, nghệ thuật và một phần năng khiếu bẩm sinh nữa. Như vậy, sự ý thức đó trở thành phản xạ, rất tự nhiên.

Lần đó Bà tự nói, hay sinh viên họ chủ động hỏi Bà?

Họ hỏi chứ. Câu hỏi như sau: “Trong đời làm ngoại giao của bà, đã bao giờ bà nói dối chưa?” Tôi trả lời: "Đương nhiên. Nhà ngoại giao cũng là con người, mà đã là con người, liệu có ai trên thế gian này dám vỗ ngực bảo mình chưa từng nói dối không?"

Tuy vậy, tôi vẫn cho nói dối là hạ sách. Tôi tránh ở mức tối đa, mà thay vào đó bằng việc nói ít, nếu không thể nói hết sự thật. Còn nếu hoàn toàn không thể nói sự thật thì tôi làm thinh hoặc tránh. Lúc đó, phải có nghệ thuật lách.

Bà có nhớ trường hợp nào người ta dồn bà, khiến bà không thể "lách" được?

Người ta thắc mắc là tại sao VN chưa quan hệ với Vatican, một nhà nước có quan hệ với hơn 100 nước trên thế giới. Tôi trả lời rằng các thứ trưởng, bộ trưởng của Vatican hàng năm vẫn đến VN, và các giám mục của VN vẫn đi dự hội nghị của Vatican ở Rome đấy thôi. "Thế còn TQ thậm chí không có bất cứ quan hệ gì với Vatican thì sao?", tôi hỏi lại họ, trong sự so sánh.

Tôi thường chọn cách đi vào lịch sử, nói về bối cảnh xã hội, hay nhân tố văn hoá để lý giải một vấn đề mà tôi không thừa nhận là hay, hoặc không hay, đúng hoặc không đúng. Chủ yếu là giúp cho người ta hiểu hoàn cảnh của nó để bớt bức xúc đi, hoặc để người ta hiểu rằng cách làm của VN cũng có cơ sở riêng của mình.

Hay, chẳng hạn, họ hỏi về vấn đề Vatican phong giám mục phải được sự chấp thuận của Chính phủ VN, và gần đây khá hơn là sự thoả thuận với Chính phủ. Họ bảo đó là chuyện nội bộ của Nhà thờ, chứ dính dáng gì đến nhà nước.

Tôi nói rằng quan hệ giữa nhà nước và tín ngưỡng là quan hệ giữa nhà nước và một tổ chức xã hội, bởi nhà thờ cũng là một lực lượng xã hội có tổ chức. Mối quan hệ này phải được xác lập trên một số qui tắc rõ ràng theo luật lệ và luật pháp của từng nước.

Rồi tôi lấy luôn ví dụ ở Bỉ, địa bàn tôi làm việc. Hoá ra mấy ông linh mục ăn lương của nhà nước, còn VN thì linh mục thì không. Đã chấp nhận thực tế của Bỉ, tại sao lại không chấp nhận thực tế ở VN, bởi nước nào cũng có quá trình lịch sử riêng?

Thậm chí có những nước quan hệ giữa nhà nước và tôn giáo đầy đẫm máu, như châu Âu chiến tranh cả trăm năm về tôn giáo. Ối giời ơi, thiếu gì những vụ đẫm máu, như Thập tự chinh chẳng hạn.

Phản ứng của họ ra sao?

Mình cũng đừng ảo tưởng đến mức là mọi câu trả lời của mình với chất vấn của họ là thuyết phục được họ ngay đâu. Nhưng chí ít mình cũng cũng tranh thủ thiện cảm của họ về sự cởi mở, thái độ thẳng thắn, không né tránh của người VN.

Tất nhiên, VN ta cũng có những cái không thể cởi mở như phương Tây. Cách đây mười mấy năm tôi cũng bị bạn bè Mỹ hỏi về vấn đề đồng tính luyến ái. “Cu Ba thì kinh lắm, trong luật cấm đoán rất chặt, còn VN thế nào nhỉ?”, họ hỏi.

Tôi nói rằng việc này chưa phổ biến để trở thành một vấn đề mà cả xã hội phải bận tâm, bức xúc. Còn nếu rằng ai đó mà bảo VN đưa vấn đề này ra bàn để đưa vào trong luật, thì tôi e rằng VN cũng hơi giống Cu Ba. Người ta cười rất thú vị, mặc dù người hỏi là người chủ trương theo kiểu phương Tây.

Tôi hiểu vai trò của tôi là giúp cho họ có một cách nhìn khách quan hơn, đỡ định kiến hơn, sát với thực tế VN hơn, và dần dần có thiện cảm hơn với VN. Chứ tôi kém về số học lắm, không nhớ nổi các con số thống kê, hay tài giỏi như đồng chí Võ Hồng Phúc (Bộ trưởng KHĐT) nhớ từng con số cụ thể. Nhưng luôn cố gắng nắm được ý lớn của vấn đề.

Nhiều đàn ông trên 55 có hơn gì phụ nữ đâu

Trong cuộc vận động để phụ nữ tham gia lãnh đạo, VN đã có không ít thứ, bộ trưởng, thậm chí cao hơn, là nữ. Trong khi đó ngành ngoại giao lại không có. Có những ý kiến cho rằng phụ nữ VN rất có năng khiếu về ngoại giao. Một minh chứng rõ nhất là trước năm 1976 ta đã có một Bộ trưởng Ngoại giao (Chính phủ Lâm thời CHMNVN) lừng lẫy. Như Bà chẳng hạn, hiểu biết, kinh nghiệm, và uy tín quốc tế đâu có kém cạnh gì ai?

Xin cám ơn anh. Nhưng đừng hỏi tôi, khó nói cho tôi, mà phải hỏi các cấp lãnh đạo cao hơn chứ. Anh biết rồi đấy, ở một vị trí cao nhất định, có nhiều nhân tố lắm, chứ đâu phải chỉ làm việc hết mình, làm đúng chuyên môn, và đóng góp nhiều.

Nhưng tôi rất thoải mái vì tôi tin rằng ở đâu tôi cũng làm được việc. Ngày mai nếu người ta bố trí tôi ở vị trí thấp hơn mà tôi thấy làm việc tốt hơn, chủ động hơn, thì tôi cũng chấp nhận luôn. Còn cao hơn mà tôi thấy không nên thì tôi cũng không nhận lời.

Đó là vấn đề của cá nhân bà. Nhưng với tư cách là đại diện cho phụ nữ, những người đang cố gắng đấu tranh để có được sự đánh giá và đối xử công bằng hơn so với nam giới trong xã hội, bà nghĩ thế nào. Nếu tự mình cảm thấy xứng đáng ở một cương vị nào đó bà có dám "lobby", theo nghĩa tích cực của từ này, để có thể có được vị trí mà, theo bà, bà sẽ làm tốt hơn người khác không?

Câu trả lời của tôi là chưa bao giờ tôi lobby cho tôi để có vị trí này hay vị trí khác. Công việc cứ tới, thấy hợp thì tôi nhận, không hợp thì thôi. Tôi luôn sẵn sàng lobby cho công việc, cho cái chung của phụ nữ, còn tự lobby cho mình thì chịu.

Chẳng hạn mười mấy năm nay rồi, không phải là vận động đâu mà tôi đấu tranh hẳn hoi cho việc kéo dài tuổi nghỉ hưu của các nhà khoa học, nhà quản lý và trí thức nữ. Tôi hiện nay lại có một thuận lợi nữa là đã qua cái tuổi hưu hành chính rồi, ở Quốc hội người ta không áp dụng cái tuổi hưu hành chính theo kiểu “máy chém”), nên tôi có thể phát biểu thoải mái.

Ta cũng phải hiểu là qui định này được ban hành thời chiến tranh, lúc đó nữ trí thức, khoa học và quản lý không được nhiều, mà số đông là chị em lao động chân tay. Tôi nghĩ chị em lao động chân tay vất vả hơn, sức khoẻ suy giảm nhanh hơn, thì việc được nghỉ hưu sớm hơn với tỷ lệ lương hưu như đàn ông là hợp lý.

Tôi đã đề nghị ở các hội thảo, diễn đàn công thức sau đây: Về mặt pháp lý, ta hãy làm như thế giới là nam và nữ bình đẳng về tuổi hưu, còn ưu ái quan tâm đến phụ nữ là cho phép những chị em vì lý do sức khoẻ, hay riêng tư nào đó, muốn nghỉ thì làm đơn. Cái ưu ái lúc đó sẽ được thể hiện, mà không xúc phạm chị em trí thức, và cũng không áp đặt với chị em lao động chân tay.

Có ý kiến phản biện cho rằng như vậy thì tốn kém. Tôi cho rằng sự tiết kiệm về lương đấy nhỏ nhặt lắm, theo kiểu “cây kim sợi chỉ”, so với bao nhiêu cái phung phí khác, trong khi đó người phụ nữ trí thức đó lại đóng góp được rất nhiều trong 5 năm đỉnh cao về kinh nghiệm và trí tuệ của mình.

Còn nếu nhà nước muốn tiết kiệm, tôi đề nghị một cách tiết kiệm rất hay, rất bình đẳng: Cả nam và nữ nghỉ hưu ở tuổi 58! Tốt chưa? Chứ tại sao chị em phải hy sinh để tiết kiệm một chút ngân sách cho nhà nước, đàn ông cũng phải đóng góp vào đó chứ. Tôi thấy nhiều người đàn ông trên 55 mà năng lực có hơn gì phụ nữ đâu.

Xin cảm ơn bà!

  • Huỳnh Phan thực hiện

Những câu chuyện từ một quán cà phê vỉa hè

Những câu chuyện từ một quán cà phê vỉa hè

Ở câu chuyện thứ ba trong loạt bài về cà phê này, người viết muốn kể về một quán cà phê báo chí tương tự - nơi giao ban báo chí hàng sáng của một nhóm phóng viên người Việt làm cho một số hãng truyền thông nước ngoài.

LTS - Trừ hai quán cà phê báo chí được thành lập theo chủ địnhcủa toà soạn như ở TBKTSG và Báo Quốc tế, hầu hết các quán cà phê, được quen gọi là cà phê báo chí, chủ yếu là nơi tụ tập, theo thói quen, của các phóng viên. Riêng ở Hà Nội, người ta có thể kể đến những quán ở Hàng Hành, Nhà Thờ, hay Trần Quốc Toản - tụ điểm dành riêng cho các phóng viên ảnh...

Thậm chí, một trong số đó, Cà phê Nhân ở 143 Nguyễn Thái Học - hơn chục năm nay là nơi gặp gỡ hàng sáng của các nhà báo thể thao thành danh ở đất Hà Thành - được nhà báo Nguyễn Lưu dành những dòng đầy trân trọng trong cuốn sách "Những nhà báo thể thao mà tôi biết" của mình.

Ở câu chuyện thứ ba trong loạt bài về cà phê này, người viết muốn kể về một quán cà phê báo chí tương tự - nơi giao ban báo chí hàng sáng của một nhóm phóng viên người Việt làm cho một số hãng truyền thông nước ngoài.

Đã ngót 7 năm nay, bà Bích, chủ quán cà phê ở 15B Trần Hưng Đạo, đã quen với việc phục vụ một nhóm khách đặc biệt. Cứ thấy mặt từng người, chả cần họ phải gọi, bà cứ lẳng lặng bưng ly đen nóng, đen đá, hay nâu nóng, nâu đá. Sau đó, bà mang thêm một ấm trà Thái và đĩa đựng tách trà với số tách tuỳ theo số người ngồi quanh bàn, cộng thêm một phích nước sôi.

Thế là xong. Bà đi phục vụ những vị khách khác, hay làm việc của mình. Lúc nào họ đứng dậy, họ tự gọi thanh toán. Cứ theo số ly trên bàn mà tính. Đen, nâu, đá, nóng đều một giá, như ấm trà. Nước sôi khuyến mại hoàn toàn.

Bà Bích đôi khi cũng thấy hơi khó chịu vì cái đám khách "ngồi lâu nói dai" này. Nhất là vào những dịp chất vấn ở Quốc Hội, hay gần đây nhất là Bế mạc Đại hội Đảng, họ còn "tranh kênh", khiến việc theo dõi phim bộ Hàn Quốc của bà bị gián đoạn. Thế nhưng, hôm nào, vì lý do gì đó, cả nhóm không có ai trong số họ ra quán, hôm sau bà lại hỏi thăm.

Bà Bích cũng không hề biết rằng thói quen uống cà phê hàng sáng của hầu hết các thành viên trong nhóm này chỉ hình thành từ khi đến quán của bà. Chứ nếu biết hẳn bà sẽ rất hãnh diện.

Có điều, thời đó, họ đến uống cà phê chẳng phải vì trào lưu thời thượng, và cũng chẳng phải vì họ phát hiện ra mối liên quan thú vị của cà phê với nghề nghiệp của họ. Lý do thay đổi thói quen uống trà sáng của họ đơn giản hơn nhiều.

Ông Trần Huy Công, đại diện hãng sản xuất truyền hình Nhật Bản NDN tại Hà Nội (thứ hai từ phải) đang say sưa kể lại chuyện làm bộ phim về Mặt trận Dân tộc Giải phóng.

Những vị khách chẳng giống ai

Chả là, cùng với việc nền kinh tế nước nhà ngày càng phồn thịnh, cơ thể, nhất là cái bụng, của một thành viên trong nhóm, cũng trở nên ngày một thêm phồn thực. Vào một ngày đẹp trời, sau khi đặt mông quá đà làm gẫy chân một chiếc ghế đòn bằng nhựa ở quán trà và bản thân thì ngã ngửa ra vỉa hè, anh ta đã quyết định chuyển sang quán cà phê.

"Ngồi ghế cao, chân sắt cho lành", người viết, cũng chính là nhân vật vừa được đề cập, thuyết phục các thành viên còn lại.

Có lẽ, chính vì vậy, chẳng ai trong số họ để tâm xem hương vị của cà phê ở đây có gì đặc biệt. Hơn nữa, theo họ, cái mùi đặc biệt ở quán cà phê này lại là mùi "ẩm thực". Bà chủ quán "chiều chồng hơn chiều khách" này luôn xào xào nấu nấu phục vụ cái thói quen "nâng lên đặt xuống" từ sáng sớm của đức ông chồng, một tay giang hồ có hạng ở đất Hà Thành đã về già.

Họ chỉ biết chắc chắn một điều là cà phê ở đây là cà phê La Vie (bởi người bỏ mối đựng cà phê pha sẵn trong vỏ chai La Vie), hay cà phê kho theo cách gọi của người Sài Gòn. Riêng người viết thì vẫn quen gọi là cà phê bít tất. Bởi, thuở thiếu thời, người viết đã chứng kiến ông bác rể của mình là cố nhà thơ Nguyễn Đình pha cà phê bằng chiếc bít tất, tất nhiên là bít tất sạch, để chuẩn bị cho một buổi bình thơ tại gia.

Những thành viên trong nhóm này tuyệt đối không nói chuyện thơ văn, kể cả thơ con cóc. Mặc dù, đôi khi họ vẫn thấy đả động đến tên một số nhà thơ, nhưng chủ yếu liên quan đến cái đặc biệt, độc đáo trong sự nghiệp làm báo, viết báo của những nhân vật này. Hữu Ước, Nguyễn Quang Thiều, hay Hồng Thanh Quang là những cái tên người viết còn nhớ.

Câu chuyện của họ phần lớn là xoay quanh những thông tin thời sự nóng hổi, để mỗi người có thêm chút thông tin, hay hiểu thêm một khía cạnh mới của vấn đề nào đó. Riêng người viết, ngoài việc thu thập những mẩu thông tin quan trọng, để từ đó ráp nối lại hay phát triển tiếp thành bài viết, thỉnh thoảng vẫn thích chọn cách nêu chủ đề định viết một cách hơi thái quá, để được nghe sự phản biện, thậm chí phản bác, từ những người khác. Từ đó, có thể chọn một cách tiếp cận và diễn đạt vấn đề với sự tiết chế nhất định, dù vẫn tiếp tục gây tranh cãi.

Khi cần, họ cũng mang những đề tài chưa biết triển khai thế nào ra hỏi các đồng nghiệp.

Chẳng hạn, đại diện hãng NDN tại Việt Nam Trần Huy Công, khi chuẩn bị tham gia làm những bộ phim đã gây tiếng vang lớn ở Nhật Bản như Chiến tranh Việt Nam, Điện Biên Phủ, Mặt trận Dân tộc Giải phóng, hay Đường mòn Hồ Chí Minh..., đã tham khảo thông tin, cũng như đánh giá của các đồng nghiệp, về từng sự kiện tại quán cà phê này.

Cũng may, người làm báo chính trị, người làm báo kinh tế, người làm báo giấy, người làm báo hình, người làm báo Mỹ, người làm báo Nhật, nên ít khi họ lâm vào trạng thái khó xử, khi phải "cả nể" mà tiết lộ thông tin độc quyền. Vả lại, cái nghề báo này, tuy không ít khi phải cạnh tranh dữ dội, nhưng đa phần vẫn theo cái nguyên tắc "giữa đường thấy cánh hoa rơi, hai tay nâng lấy cũ người mới ta".

Thỉnh thoảng, có những người mới, do một mối quan hệ nào đó, đến tham dự. Cuộc tranh luận lại càng thêm sôi nổi. Họ có thể là phóng viên báo trong nước, hoặc chuyên gia về một lĩnh vực nào đó, thảng hoặc là phóng viên nước ngoài.

Phóng viên ảnh Việt Thanh, người được coi là có hobby sưu tầm các giải thưởng nhiếp ảnh quốc tế, là một trong số những vị khách như vậy, mỗi khi anh ghé thăm hàng bún riêu cua nằm bên cạnh quán cà phê.

Thế là các thành viên của nhóm lại "mắt tròn mắt dẹt" nghe anh giải thích về kỹ thuật chụp ảnh, hay kể những chuyến xuất ngoại kỳ thú. Những nơi anh đã đặt chân tới có khi là Mỹ, nhưng nhiều hơn là Thượng Hải, và nhiều nhất là Quảng Châu. Anh cũng cho họ xem những bộ ảnh mới chụp, cài trong chiếc iphone xịn, chứ không phải loại 2 sim 2 sóng đánh từ Quảng Châu về, như những vật chứng xác thực.

Vào những hôm như vậy, bà Bích phải tiếp đến phích nước sôi thứ ba.

Cho đến nay, số thành viên còn trụ lại ở báo nước ngoài chiếm không tới một nửa. Có người bỏ đi kinh doanh, có người chuyển sang viết cho báo trong nước. Đặc biệt, lại có người lại chuyển lên một cơ quan quản lý báo chí nữa.

Mặc dù vậy, nếu không bận, đầu giờ sáng họ vẫn cứ ghé qua quán cà phê này. Dù chỉ ngồi lại được 15-20 phút. Có lẽ, họ thực sự đã "ghiền" cái không khí tranh luận, nhiều khi đến to tiếng, với nhau.

Cũng ở đây, người viết có niềm tin chắc chắn rằng những bài báo mình viết cũng có người đọc. Bởi những tiếng khen nồng nhiệt nhất, cũng như những lời chỉ trích gay gắt nhất, người viết cũng nhận được từ cái quán này.

Nhưng, có lẽ, sự níu kéo lớn nhất ở quán cà phê này, đối với riêng người viết, là việc từ khoảng 4 năm nay nó đã trở thành một văn phòng di động, khi không ít bài báo được người viết được thực hiện, hay hoàn chỉnh, ngay bên bàn cà phê. Có lẽ cũng vì thói quen đó, người viết đã hơn một lần đã thất bại trong việc từ bỏ quán cà phê này.

Những lúc ngồi cà phê với chiếc laptop đặt trên đùi như vậy, người viết gọi vui là "cà phê một mình".

Cà phê một mình

Sau gần 20 năm bỏ cái nghề gõ đầu trẻ, nói kiểu thời thượng là "xoa tóc sinh viên", với đặc trưng là sự chỉn chu, chuẩn mực, để chuyển sang cái nghề đậm chất phong trần này, người viết đã tự rút cho riêng mình một định nghĩa về nghề phóng viên. Đó là cái nghề tương tự như nghề của anh đánh dậm (tất nhiên, không phải bất cứ cái gì của anh đánh dậm, như dân gian vẫn nói, cũng giống của anh phóng viên).

Sáng sáng rời nhà với cái dậm trên vai, lang thang hết ao trong, mương ngoài, nhiều khi bị đuổi chạy toé khói. Chiều chiều vác dậm về, đa phần trong giỏ có mươi con cua, con ốc, dăm ba con diếc, con rô. Không ít hôm, vác giỏ không về, cả đêm đói bụng không ngủ được. Gần sáng thiếp đi, lại mơ thấy bắt được con cá sộp.

Thế mà, có lần anh chàng đánh dậm có "dậm danh" là Huỳnh Phan này đã bắt được cá sộp thật, chứ không phải trong mơ. Và không chỉ có một con.

Vào một buổi sáng thứ sáu, cách đây ngót nghét một năm, nhờ ngồi cà phê một mình, người viết đã may mắn được cameraman Nguyễn Văn Vinh của hãng Thomson Reuter, người thi thoảng cũng đến quán cà phê này với tư cách một diễn giả, ghé vào thăm hỏi, khi phóng xe ngang qua. Trong câu chuyện, ông Vinh hé ra thông tin về cuộc hội ngộ lần đầu tiên ở Phnom Penh, sau 35 năm của các cựu phóng viên chiến trường phương Tây.

Có lẽ cũng nhờ có thông tin "độc" đó, cũng như contact của người đứng ra tổ chức, mà một phóng viên ở văn phòng đại diện tại Hà Nội của một tờ báo Sài Gòn, đã được phép tháp tòng nhóm truyền hình của tờ báo sang làm loạt phóng sự về các cựu phóng viên chiến trường. Trước khi theo họ quay trở lại Việt Nam để nhập với một nhóm cựu phóng viên chiến trường khác trong cuộc Hội ngộ Sài Gònlần thứ tư.

Trong chuyến đi kéo dài hai tuần lễ đó, người viết đã chộp được khoảng mươi "con cá sộp" như vậy, như Peter Arnett, Tim Page, Mike Morrow, Don North, Elizabeth Becker, Jim Laurie, hay Carl Robinson... Đặc biệt, với không ít người trong số họ, điều người viết thu nhận được không chỉ là những trải nghiệm khi đưa tin chiến sự, những câu chuyện đáng nhớ, mà là cả một triết lý sống, triết lý làm nghề, và một hoài bão thời trai trẻ.

Tất cả những điều đó, nói một cách rất thực lòng, đã tác động không nhỏ tới người viết. Và không chỉ trong quan niệm nghề báo.

Kể từ đó, người viết luôn cố sắp xếp thời gian để sáng thứ sáu hàng tuần có thể ra ngồi ở quán cà phê 15B Trần Hưng Đạo. Mặc dù, đã nửa năm nay, một cơn tai biến nhẹ đã tước đi của người viết cái thú vui được nhấp từng hớp cà phê đen nóng không đường, xen kẽ với việc rít từng hơi thuốc.

Cũng chẳng phải vì người viết chờ đợi một cơ hội "đánh dậm được cá sộp" lần thứ hai. "Hoạ vô đơn chí, phúc bất trùng lai", các cụ đã bảo rồi. Nói là nhớ về một kỷ niệm đẹp cũng đúng. Mà bảo rằng nhờ đó mà cố "giữ lửa" cho mình cũng chẳng sai.

Vả lại, ngay cả mớ cá sộp đánh dậm được năm ngoái, người viết đã kịp chế biến đâu. Loạt bài dự định kéo tới ít nhất là 10 kỳ, với lớp lang đàng hoàng, vì một lý do nào đó, đã được lãnh đạo báo bảo dừng lại ở kỳ thứ ba.

Thế mà đã gần tròn một năm kể từ chuyến đi đó. Chắc chắn, bằng cách nọ cách kia, người viết sẽ phải nhanh chóng tiếp tục cái dự định đang còn dang dở kể trên. Có lẽ, sau loạt bài viết về cà phê này.

Quán cà phê ở Tuần báo Quốc tế

Quán cà phê ở Tuần báo Quốc tế

(VEF.VN) - Người viết đã từng được nghe chính cố Thứ trưởng Lê Mai – người được coi là “bà đỡ” cho những ý tưởng đột phá của báo Quốc tế - hào hứng kể lại câu chuyện về một quán cà phê đặc biệt khác tại Tuần báo Quốc tế. Và đó cũng chính là cảm hứng để từ đó người viết bắt đầu thu thập thông tin cho loạt bài về những câu chuyện xung quanh ly cà phê này.

LTS: Cà phê vẫn được coi là năng lượng cho sáng tạo. Với người làm báo, quán cà phê không chỉ là nơi thưởng thức thứ đồ uống tuyệt vời này, mà còn là nơi giao lưu, gặp gỡ đồng nghiệp và nguồn tin.

Diễn đàn Kinh tế Việt Nam tiếp tục giới thiệu một bài viết về cà phê và những người làm báo trong loạt bài Kinh tế sáng tạo - giải pháp đột phá cho Việt Nam bật lên?"

Trong cuộc đời làm báo của mình ông Trần Ngọc Châu, hiện là giám đốc kênh truyền hình tài chính - kinh doanh FBNC, đã gặp không biết bao nhiêu người, thuộc rất nhiều giới khác nhau. Nhưng, với ông, cuộc gặp, cách đây khoảng 22 năm tại toà soạn báo Tuổi Trẻ, với ông Đinh Hoàng Thắng vẫn để lại một ấn tượng khó quên.

"Một nhà ngoại giao từ Hà Nội vào, ăn mặc rất nghiêm chỉnh. Ông trịnh trọng rút ra từ ca táp tờ giấy giới thiệu của Bộ Ngoại giao đưa cho chúng tôi, và nói muốn học hỏi chuyện làm báo", nguyên Tổng Thư ký Toà soạn Báo Tuổi Trẻ nhớ lại.

Sự ra đời của tờ tạp chí đối ngoại đầu tiên

"Năm 1989, trước các biến động ở Đông Âu và Liên Xô, Bộ trưởng Ngoại giao lúc đó là Nguyễn Cơ Thạch nhận thấy rằng Bộ Ngoại giao cần phải có ấn phẩm định kỳ để thông tin cho xã hội, và đồng thời cũng định hướng cho xã hội hiểu rõ những biến động đầy kịch tính trên thế giới lúc đó", TBT Báo Thế giới & Việt Nam Sơn Thuỷ nhớ lại trong bài viết nhân kỷ niệm 20 năm ngày ra đời của Tạp chí Quan hệ Quốc tế - tiền thân của báo TG&VN.

Để thực hiện ý tưởng của ông Thạch, nhóm adhoc chuẩn bị thành lập tạp chí, gồm 5 thành viên đều là các viên chức ngoại giao, do ông Nguyễn Ngọc Trường làm trưởng nhóm, đã được cấp tốc lập ra. Và một trong những việc họ cần làm là cử người vào Sài Gòn, nơi mà báo chí có một môi trường năng động và thị trường sôi động

Dân gian hay nói: Mồm tuyên giáo, áo ngoại giao! Nhưng, theo ông Thắng, sự chỉn chu, ngăn nắp của nhà ngoại giao không chỉ dừng ở trang phục, mà, quan trọng hơn, ở cách tư duy và lời nói.

"Chính vì vậy, anh ngoại giao đi làm báo xem chừng không ăn nhập vào đâu cả", ông Thắng giải thích lý do ông được cử vào Sài Gòn.

Hơn nữa, theo ông Thắng, Chánh Văn phòng BNG Nguyễn Phú Bình, một trong hai quan chức được giao nhiệm vụ chỉ đạo việc ra tạp chí, đã nói rõ tôn chỉ mục đích của Tạp chí Quan hệ Quốc tế là không phải là làm báo cho Bộ Ngoại giao, mà làm báo cho nhân dân đọc. "Ông Bình, theo tôi còn nhớ, đã yêu cầu chúng tôi phải đưa được tờ tạp chí ra sạp", ông Thắng nói.

Tháng 11/1989, Tạp chí Quan hệ Quốc tế phát hành số đầu tiên. Sau bao gian nan vất vả trong khâu chuẩn bị, từ lo chạy bài, "thiết kế", "mi", lãnh đạo báo phải đọc bông và sửa ngay trong nhà in. Tất cả làm trong đêm, đến ba giờ sáng hôm sau mới rời khỏi nhà in. Chỉ ít lâu sau, tạp chí này đã gây được tiếng vang lớn.

"Một phần do nó rất mới lạ ở nước ta lúc bấy giờ. Mặt khác, Ban Biên tập cũng rất mạnh dạn đưa ra các vấn đề nóng hổi và không kém phần nhạy cảm", TBT Sơn Thuỷ lý giải

Theo ông Sơn Thuỷ, loạt bài với tiêu đề Làn sóng văn minh thứ ba (tên một luận thuyết rất có tiếng lúc bấy giờ của Nhà tương lai học Alvin Tofler), lý giải những thay đổi là do khủng hoảng bên trong Liên Xô - Đông Âu là chủ yếu và do sự chuyển tiếp các nền văn minh gây ra, đã được đón nhận nồng nhiệt từ Bắc chí Nam.

Còn ông Thắng cho biết thêm tác giả của bài báo, nhà ngoại giao Tôn Nữ Thị Ninh, đã được tuyên giáo tỉnh ủy ở một số địa phương mời tới nói chuyện.

Trong khi đó, bài Thế giới thay đổi, còn chúng ta? của Thứ trưởng Nguyên Dy Niên đã tạo ra hai luồng dư luận trái chiều. Mặc dù, cũng theo ông Sơn Thuỷ, chiều ủng hộ vẫn chiếm đa số.

Theo ông Thắng, khi đã lên làm bộ trưởng, ông Nguyễn Dy Niên, mỗi lần đến làm việc với ban biên tập, vẫn nửa đùa nửa thât: "Vì bài trên báo các cậu tớ suýt bị kiểm điểm."

"Bây giờ nhìn lại mới thấy các loạt bài này đã được thực tế chứng minh là đúng", TBT Sơn Thuỷ nhìn nhận một cách thận trọng. Còn ông Nguyễn Ngọc Trường, người tổng biên tập đầu tiên, ngay từ lúc đó đã coi sự tiếp nhận trái chiều này như một hướng đi đúng.

"Bài viết mà không gây tranh cãi làm sao gọi là thành công được. Ngoài việc chuyển tải thông tin, báo chí còn phải khiến dư luận quan tâm đến thông tin mà nó chuyển tải, thông qua việc thể hiện quan điểm của họ", ông Trường, người sau này trở thành một chuyên gia bình luận quốc tế có tiếng, đoan chắc.

Báo Thế giới & Việt Nam, "hậu sinh" của tuần báo Quốc tế.

Sau chuyến đi "mở đường" của ông Thắng, có ba phóng viên trẻ, cũng vốn xuất thân từ ngành ngoại giao như ông Thắng, đã được cử vào thực tập ba tháng tại Báo Tuổi Trẻ. Đối với ông Sơn Thuỷ đó là khoá đào tạo báo chí đầu tiên, trước khi ông tham dự những khoá đào tạo ở nước ngoài như Thái Lan, Nhật Bản, hay Hàn Quốc.

Còn ông Thắng, kể từ chuyến đi đó, hầu như năm nào cũng vào lại Sài Gòn. Tuy đã có thành công bước đầu, tờ tạp chí của họ vẫn còn có rất nhiều điều cần học.

"Chẳng hạn, điều chúng tôi đau đáu nhất và luôn đặt ra với những người làm báo ở Sài Gòn là thị trường báo chí có phân khúc nào dành cho chúng tôi" ông Thắng nói.

Không chỉ dừng ở Tuổi Trẻ, ông Thắng còn đến nhiều toà báo khác. Ông còn nhờ cả Sở Ngoại vụ giới thiệu để gặp nhiều nhân vật nổi tiếng trong làng báo Sài Gòn, kể cả Tướng Tình báo Phạm Xuân Ẩn - nguyên phóng viên của Tuần báo Time, để học hỏi kinh nghiệm, nhất là cách đưa một tờ báo ngoài Bắc vào "đứng chân" được ở Sài Gòn.

Riêng với ông Châu, điều ông Thắng nhận được còn hơn cả những mối quan hệ công việc. Họ đã trở thành những người bạn ngoài đời.

Khi ông Châu chuyển qua Saigon Times Group, ông Thắng lại tìm đến đó. Câu chuyện vẫn vậy, xung quanh chuyện làm báo và viết báo.

Tại đây, ông Thắng đã học thêm nhiều bí quyết nhà nghề khác trong việc tổ chức khai thác và cập nhật thông tin. Tất cả để chuẩn bị cho một bước ngoặt quan trọng của tờ tạp chí đối ngoại.

Tờ "weekly" và giờ "happy"

Nửa đầu của những năm '90 đánh dấu bước khởi đầu mạnh mẽ trong quá trình hội nhập của Việt Nam, theo phương châm "Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước". Những dấu mốc quan trọng có thể kể ra là việc bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc năm 1991, bình thường hoá quan hệ với Mỹ năm 1995, và gia nhập ASEAN cùng năm đó.

"Trước nhu cầu thông tin nhanh hơn, đầu năm 1994, tạp chí Quan hệ Quốc tế (hàng tháng) đã chuyển thành tuần báo", ông Sơn Thuỷ giải thích về bước ngoặt quan trọng này, nhằm phục vụ cho hội nhập quốc tế - một sứ mạng của toàn dân tộc, chứ không chỉ riêng ngành ngoại giao.

Nhưng chủ trương dù đúng, dù hay, là một chuyện, việc có thực hiện có thành công hay không lại là một chuyện khác. "Những báo cáo tuần, báo cáo tháng khô khan, công thức,mà phần lớn là phục vụ nội bộ của các đơn vị chức năng trong bộ dường như đã không đủ độ cập nhật cho một tờ tuần báo", ông Thắng nhớ lại về thách thức hồi đó.

Cũng chính Thứ trưởng Lê Mai, theo lời ông Thắng, đã đưa ra tiêu chí cho tờ tuần báo là bài viết trên Báo Quốc Tế phải khác với các báo cáo của các đơn vị trong bộ. "Ông Lê Mai bảo phải hấp dẫn, nhưng vẫn phải an toàn, tức là không được sai sót về chính trị", ông Thắng nói.

"Gần như cùng một lúc với việc chuyển sang làm tuần báo, chúng tôi, dưới sự chỉ đạo của Thứ trưởng Lê Mai (người đã từng là một diễn giả ngẫu hứng tại quán cà phê của CLB SGT - NV), đã cho mở một quán cà phê nho nhỏ ở ngay trên đầu toà soạn", ông Thắng kể tiếp.

Hàng sáng, sau giờ giao ban ở Bộ Ngoại giao, một số cán bộ cấp vụ lại rảo chân sang bên số 6 Chu Văn An, leo cầu thang lên tầng trên cùng để uống cà phê. Các phóng viên và biên tập viên của Báo Quốc Tế tranh thủ hỏi han về những vấn đề thời sự quốc tế, tuỳ theo khu vực, hay lĩnh vực, mà họ phụ trách.

"Gọi nó là quán cà phê 2 trong 1 cũng được. Bởi quanh cái khu toàn công sở đó, thời bấy giờ khó mà kiếm được một quán cà phê nào khác. Đó là cách làm chúng tôi học được ở SGT Group, nhưng với qui mô nhỏ hơn nhiều", ông Thắng nói.

Ngoài ra, theo ông Thắng, còn có một điều khác biệt nữa. Đó là quán cà phê ở Báo Quốc Tế do các công đoàn viên xinh đẹp của tờ báo điều hành.

Ông Trường bổ sung thêm rằng để duy trì cái quán cà phê đó với những happy hours (giờ miễn hoặc giảm giá), sau đó có phục vụ thêm ăn sáng và buffet, Báo Quốc Tế của ông đã tìm cách liên doanh được với Tập đoàn Truyền thông Ringier (Thuỵ sĩ) trong lĩnh vực quảng cáo và phát hành.

Ông Trường cũng cho biết, hàng tuần họ luôn mời một quan chức ngoại giao nào đó đến trình bày về một chủ đề nổi cộm nhất định. Thảng hoặc, cũng có các nhà văn, hay nghệ sĩ, đến đó nói chuyện.

"Gọi là happy hours cho nó văn vẻ, chứ mời được các nhà ngoại giao đến đó uống cà phê để phóng viên có thông tin và kiến thức để viết báo là quí lắm rồi", ông Trường nói.

Từ những happy hours đó, nhiều thông tin báo chí nóng hổi đã được phóng viên báo khai thác. Một trong số những breaking news mà ông Thắng còn nhớ là thông tin về chủ trương trả lương hưu cho những người làm việc cho Pháp trước đây.

Khi bài viết này xuất hiện trên Báo Quốc Tế, nó đã gây chấn động ở Sài Gòn đến mức nhưng công chức từng làm cho Pháp đã ầm ầm kéo đến Sở Ngoại vụ để xác nhận thông tin. "Ông Giám đốc đã gọi điện ra cho báo với ý trách móc. Nhưng chúng tôi đã bảo lưu quan điểm rằng đã là chủ trương thì trước sau cũng phải công khai, không nên giấu làm gì", ông Thắng kể lại.

Hướng đi mới và hội quán sáng tạo

"Nhưng chỉ hai năm sau bắt đầu có xu hướng phát triển chậm lại. Phía Thuỵ Sỹ rút khỏi liên doanh",ông Sơn Thuỷ nhớ lại, nhưng không giải thích nguyên nhân.

Trong khi đó, đầu năm 1996, ông Nguyễn Ngọc Trường rời tờ báo đi làm đại sứ ở Mexico. Những nỗ lực cải tiến của những người kế nhiệm như ông Đinh Hoàng Thắng, rồi ông Nguyễn Văn Vĩnh, tình hình phát hành vẫn khó khăn. Đặc biệt là từ khi tờ báo buộc phải ra ở riêng.

Hội quán sáng tạo ở Hà Nội. Ảnh: TTO

Quán cà phê cũng cũng bị dẹp, tuy những người lập ra nó không nhớ rõ vào thời điểm nào. "Tôi được phân công về báo năm 1999. Tôi không thấy còn quán cà phê đó nữa", nguyên Phó Tổng Biên tập Nguyễn Thiệp nhớ lại.

Nhiều người hay nhắc tới một sự cố mà họ cho là yếu tố quan trọng ảnh hưởng tới sự phát triển của tờ báo. Đó là sự ra đi đột ngột của Thứ trưởng Lê Mai, người được coi là "bà đỡ" cho những bước đột phá trước đó của tờ báo.

Sau 5 năm chuyển sang làm công tác nghiên cứu, năm 2005, ông Sơn Thuỷ đã quay lại Báo Quốc Tếvới cương vị Tổng Biên tập. Để rồi hơn một năm sau, ông trình làng đề án đổi mới toàn diện tờ báo với cái tên mới "Báo Thế giới & Việt Nam".

Ông Sơn Thuỷ giải thích: "Nội dung Báo dựa trên một khái niệm hội nhập là con đường hai chiều: thế giới vào Việt Nam và Việt Nam ra thế giới."

Với tôn chỉ mục đích mới, tờ báo nhận được rất nhiều lời khen ngợi. Từ Chủ nhiệm VPCP Nguyễn Xuân Phúc, TBT Thời báo Kinh tế Đào Nguyên Cát, đến TBT Báo Hà Nội Mới Đại tá Hồ Quang Lợi...

Có điều, chỉ hơn một năm sau, số phát hành của tờ báo lại đi theo chiều ngược lại. "Số phát hành của báo giảm dần và chạm đáy vào năm 2009 trong cơn bão suy giảm kinh tế và báo chí chung trên thế giới và Việt Nam", ông Sơn Thuỷ lý giải.

Mặc dù vậy, ông Sơn Thuỷ nói rằng ông vẫn tự tin vào hướng đi mà mình đã chọn. Cơ sở để ông Sơn Thuỷ tự tin là báo TG&VN sở hữu một nguồn tài nguyên lớn, mà ông nói văn hoa là mỏ sắt Thạch Khê, với hơn 90 đại sứ quán và tổng lãnh sự quán - những cần ăng ten trên toàn cầu -, và hơn 2000 cán bộ nhân viên ngoại giao.

Khoảng 20 năm trước, những đồng nghiệp ở Sài Gòn cũng nói với ông Đinh Hoàng Thắng rằng những người làm báo ngoại giao đang ngồi trên một mỏ vàng mà chưa biết cách đào. Ông Trường và ông Thắng đã mở cái quán cà phê ở số 6 Chu Văn An để tìm cách khai thác mỏ vàng đó. Họ đã có những thành công nhất định, dù không trọn vẹn.

Để khai thác mỏ sắt Thạch Khê, ông Sơn Thuỷ đã không cần phải mở lại quán cà phê ở số 6 Chu Văn An nữa. Bởi đã có Trung Nguyên làm việc đó thay ông, với Hội quán Sáng tạo được mở ngay trước cổng Bộ Ngoại giao vào giữa năm 2009. Mặc dù, Đặng Lê Nguyên Vũ có những mục tiêu riêng của mình.

Chắc hẳn ông Sơn Thuỷ đang tìm phương cách tốt nhất để khai thác mỏ sắt đó, trong khi mong đợi cơn bĩ cực của làng báo sớm qua đi. Tuy nhiên, ít nhất, ông cũng có thể tìm thấy ở Hội quán Sáng tạo này sự chia sẻ các trải nghiệm thành bại từ ông Chủ tịch Tập đoàn Trung nguyên - người luôn kiên định với tư duy sáng tạo và đột phá, dù hơn một lần đã phải trả giá vì chúng.