Thứ Tư, 9 tháng 11, 2011

Sự trở lại của “cố nhân"


Sự trở lại của “cố nhân" (Câu chuyện thứ 3)

Câu chuyện về quá trình làm một bộ phim kể về Việt Nam, liên quan đến một cựu chiến binh Mỹ từng bị bắt giam tại Hoả Lò. Người đó về sau trở thành đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam: ông Pete Peterson.
Cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam: Pete Peterson, một phần nhờ dư luận lên tiếng ủng hộ mạnh mẽ sau khi bộ phim “Our Man in Hanoi” (Người của chúng ta ở Hà Nội) phát trên Kênh Truyền hình CBS News vào khoảng tháng 3/1997, cuối cùng đã vượt qua thử thách tại Quốc hội Hoa Kỳ.
Sau khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao, Tổng thống Mỹ Bill Clinton đã chọn ông Pete Peterson, Hạ nghị sĩ Liên bang của bang Florida, làm đại sứ Mỹ đầu tiên tại Việt Nam. Nhưng việc bổ nhiệm này lại cần có sự thông qua của Thượng viện Mỹ do Đảng Cộng hoà chiếm đa số.
Lúc đó, một số thượng nghị sĩ không muốn cải thiện quan hệ với Việt Nam, đã kịch liệt chống lại việc cử ông Peterson làm đại sứ. Bởi họ hiểu rằng ông Peterson sẽ là người đóng góp vào việc đặt những viên gạch tiếp theo trong quan hệ vừa mới được bình thường hoá giữa hai cựu thù.
Trước đó, sau khi trở lại Việt Nam lần đầu tiên vào năm 1991, ông Pete Peterson đã đưa ra những bài học rút ra từ cuộc chiến đối với lợi ích của nước Mỹ và kêu gọi đóng góp xây dựng lại một đất nước đã bị chiến tranh tàn phá nặng nề.
Khi mọi sự còn chưa ngã ngũ trong bối cảnh mối quan hệ giữa hai nước còn chưa suôn sẻ, mọi động thái, cử chỉ đều bị “soi” dưới nhiều lăng kính, thì một bộ phim dài khoảng 60’ mang tựa đề “Our Man in Hanoi” (Người của chúng ta ở Hà Nội) phát trên Kênh Truyền hình CBS News vào khoảng tháng 3/1997 đã được dư luận Mỹ đánh giá là "có một ý nghĩa rất tích cực".
Một số người phản đối ông Peterson hoàn toàn có thể “lập luận” rằng một con người với một quá khứ không mấy vui vẻ như vậy ở Việt Nam rất dễ mang mặc cảm cá nhân đó trong suốt quá trình thực hiện “mission” (nhiệm vụ) của mình trên đất nước này. Vô hình trung, điều đó sẽ cản trở sự tiến triển trong quan hệ giữa hai nước.
Một số khác lại có thể dùng chuyện ông bị bắt làm tù binh làm cái cớ để cho rằng “chẳng may trong khi bị giam giữ ông đã bị mua chuộc thì sao?”, và nếu vậy, trên cương vị đại sứ, ông sẽ không hành động vì quyền lợi nước Mỹ.
Bộ phim tài liệu về ông Peterson đã giúp trả lời rất nhiều câu hỏi cho cử tri và những nhà hoạch định chính sách đối ngoại của Mỹ, trong đó có các thành viên Uỷ ban Đối ngoại Thượng viện Mỹ - những người (sau đó chừng 1 tháng) trực tiếp bỏ phiếu khẳng định sự bổ nhiệm này .
“Our Man In Hanoi”
Bộ phim của CBS News kể lại cuộc đời của ông Peterson từ trước khi tham gia quân ngũ, sang Việt Nam bị bắn rơi và bắt làm tù binh, nỗi vui mừng khi gặp lại người thân trong lễ trao trả tù binh, việc bắt đầu lại cuộc sống bình thường sau khi giải ngũ với cương vị một ông giáo, rồi một nhà kinh doanh máy tính, trước khi trở thành một chính khách chuyên nghiệp.
Trong con mắt của khán giả Mỹ, hình ảnh của ông Peterson đã hiện lên như một sĩ quan có trách nhiệm cả trong chiến trận lẫn khi bị bắt làm tù binh và một nhà chính khách đầy bản lĩnh đã vượt qua chính mình với kỷ niệm không mấy vui vẻ đó để góp phần vào việc xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hơn với những người đã từng bắn hạ và giam cầm mình.
Một điều khác biệt của bộ phim tài liệu này là tuy nói về “Our man In Hanoi” nhưng cảnh quay ở Việt Nam lại không có nhân vật chính vì lúc đó ông đang phải chờ Thượng viện Mỹ phê chuẩn nên không được phép sang đây với đoàn làm phim.
Chính vì vậy, đoàn làm phim đã phải vất vả thêm rất nhiều trong cố gắng tìm kiếm những đoạn phim tư liệu cũ về các tù binh Mỹ trong đó có viên cựu phi công Peterson trong thời gian bị giam giữ ở Hoả Lò.
Các nhà làm phim đã khai thác được những thước phim tư liệu quí báu ở Việt Nam như cảnh sinh hoạt trong tù ra sao, tù binh Mỹ đón Noel và Lễ Tạ ơn tại “Hanoi Hilton” như thế nào. Khán giả Mỹ còn được thấy cả những con gà tây truyền thống với người phương Tây trong những buổi lễ đó.
Sau này, khi gặp lại Vũ Bình với tư cách phiên dịch cho một nhà lãnh đạo Việt Nam trong một cuộc tiếp xúc, và nghe anh tự giới thiệu đã tham gia thực hiện bộ phim, mắt ông Đại sứ Peterson chợt sáng lên. Ông tươi cười nói với anh: “Bộ phim đó quả là đã giúp tôi được dễ dàng thông qua ở Thượng viện”.
Bản thân những nhà làm phim Mỹ rất bất ngờ và xúc động khi nghe tôi kể rằng mỗi tháng một người dân Hà Nội thời kỳ đó chỉ được cấp mười mấy cân gạo theo sổ và mấy lạng thịt theo phiếu, trong khi đó khẩu phần lương thực và thực phẩm của tù binh Mỹ lại được bảo đảm ở mức cao nhất có thể được”, Vũ Bình kể.
Để có những thước phim quý giá này, nhiều lúc Vũ Bình phải đến trình bày trực tiếp với một lãnh đạo cao cấp của Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam về nội dung cuốn phim, những trục trặc khi thực hiện, và ý nghĩa của nó đối với tiến trình bình thường hoá quan hệ chính trị giữa Việt Nam và Hoa kỳ. Nhà lãnh đạo quân sự cao cấp này sau đó có viết thư cho Bảo tàng Quân đội và Viện Tư liệu Phim Quân đội, yêu cầu họ giúp giải quyết một số vấn đề về tư liệu trực tiếp liên quan đến ông Peterson.
Trong khoảng 10’ của bộ phim quay ở Việt Nam có đoạn phỏng vấn ông Nguyễn Văn Chộp và một cựu dân quân nữa đã cùng bắt ông Peterson khi máy bay của ông bị bắn hạ. Họ đã kể lại một cách rất sinh động câu chuyện ngày xưa, nhất là việc họ đã phải cố sức ngăn những người dân, vốn đang hừng hực lòng căm thù vì bom Mỹ thả xuống quê hương và giết chết người thân của họ, lao vào định đánh cho chết viên phi công Peterson.
Trả lời câu hỏi “Với tư cách là một cựu dân quân ông nhìn nhận quan hệ hai nước thế nào, và với thiệt hại lớn lao của cuộc chiến tranh như thế này ông sẽ đón tiếp ông Peterson khi ông ấy sang đây làm đại sứ ra sao?”,
ông Nguyễn Văn Chộp đã có những câu nói rất hóm hỉnh: “Ngày xưa bắt được ông ấy tôi rất mừng và tôi mãi tự hào vì thành tích bắt sống được một phi công Mỹ. Còn nếu ông ấy được cử sang đây làm đại sứ thì tôi lại càng tự hào hơn vì tôi đã từng bắt sống được một ông đại sứ, nhưng tôi rất sẵn sàng trở thành bạn bè, anh em với ông ấy!”.
Khi sang Việt Nam nhậm chức ông Peterson có mời ông Chộp đến tư dinh của mình “uống rượu” mừng ngày tái ngộ. Sau này, mỗi khi nhắc đến ông Đại sứ Peterson, ông Chộp lại toét miệng cười: “Thằng em tôi đấy!
Sau đó ông Peterson đã nói: “Lúc đó rất có thể tôi đã bị giết, nhưng rất may là có những người ngăn lại, và tôi vô cùng biết ơn vì điều đó!”
Những người dân cùng làng với ông Chộp ở Hải Dương khi được hỏi cũng bày tỏ sự vui mừng nếu ông Peterson được cử làm đại sứ Mỹ tại Việt Nam và tin tưởng rằng một người như ông Peterson chắc chắn dám bỏ qua quá khứ để hướng tới tương lai.
Thông điệp từ Việt Nam
Tôi nói với họ nên quay cảnh đồng quê yên ả dưới ánh nắng chan hoà với một vài người nông dân đang làm công việc đồng áng để thể hiện Việt Nam là một đất nước thiết tha với hoà bình để có thể yên ổn làm ăn, và hình ảnh sẽ thay cho lời bình trong việc chuyển thông điệp”, Vũ Bình nhớ lại.
Anh với đạo diễn bộ phim này là Michael Gavshon đã từng cộng tác trong bộ phim “Sáng kiến cựu binh” trước đó kể về sáng kiến của cựu binh Mỹ trong việc cung cấp thông tin giúp ta tìm hài cốt các liệt sĩ, nên vai trò đồng đạo diễn của anh trong bộ phim này hầu như là mặc nhiên. Gợi ý này của anh được chấp nhận ngay.
Do ý tưởng gặp nhau, nên khác với những bộ phim tôi tham gia trước đây tôi với những nhà làm phim Mỹ hầu như không phải tranh luận gì cả mà chỉ cố làm sao bàn cách thể hiện ý tưởng một cách hiệu quả nhất”, Vũ Bình mỉm cười.
Tuy vậy vẫn có những khác biệt về văn hoá và tâm lý mà anh phải giải thích khá cặn kẽ với Michael Gavshon, chẳng hạn như khi chọn cảnh quay để thể hiện nước Việt Nam đang rất gặp khó khăn về kinh tế.
Đầu tiên, đạo diễn Mỹ định chọn những cảnh sinh hoạt lam lũ của người dân, nhưng theo quan điểm của Vũ Bình, những cảnh đó dễ gây phản cảm với người Việt Nam vì họ nghĩ người nước ngoài bôi bác họ, và như vậy hiệu quả sẽ không trọn vẹn đối với cả hai phía, đó là chưa nói đến việc quay phim cũng không hề dễ dàng.
Tôi bảo Mike là đối với một nước phát triển ở trình độ cao như Mỹ không thiếu gì cách để khán giả hiểu được sự khó khăn của Việt Nam, chẳng hạn hãy chọn cảnh người nông dân Việt Nam dùng tay quay cối xay lúa trong khi ở Mỹ thì người ta đã dùng máy xay từ bao nhiêu thập kỷ nay rồi”, Vũ Bình nhớ lại.
Khi gửi cuốn băng về bộ phim cho Vũ Bình với lời cảm ơn, Mike Jackson có viết: “Không ngờ hình ảnh người phụ nữ nông dân bên chiếc cối xay với sự uyển chuyển của đôi cánh tay và cả thân hình đang chuyển động như trong một vũ điệu lại gây hiệu quả lớn như vậy. Nhiều người sau khi xem cảnh này trong phim đã nói với tôi là họ sẽ sang Việt Nam du lịch”.
Và một hình ảnh mới về Việt Nam được quay trực tiếp tại Việt Nam đã được giới thiệu đến công chúng Mỹ từ những tháng ngày như vậy.
  • Hoàng Ngọc
Cựu đại sứ Hoa Kỳ tại Việt Nam, ông Pete Peterson, tại Diễn đàn "Quan hệ Việt Nam - Hoa Kỳ, Con đường đi tới", tổ chức tại Hà Nội.
Khi chuẩn bị cho Diễn đàn “Quan hệ Việt Nam – Hoa Kỳ: Con đường đi tới” , thay mặt cho Hội Việt - Mỹ, Vũ Bình đã thuyết phục được ông Peterson tham gia (vì có lúc ông đã có ý định từ chối vì chuyện này hay chuyện khác).
Khi đến Hà Nội và được thông báo về chương trình, bà Peterson (Vi Lê) có phàn nàn với anh: “Chúng tôi cứ tưởng ông nhà tôi chỉ đến đây đọc tham luận, hay cùng lắm là tham gia hết buổi sáng thôi, ai ngờ anh lại bắt tội ông ấy phải chủ toạ thảo luận cả một ngày, rồi dự cả Gala Dinner nữa”. (Ông Peterson đến Việt Nam ngoài việc dự diễn đàn còn kết hợp thực hiện thêm một chương trình riêng nữa).
Vũ Bình cảm nhận lời trách “thân mật” này đồng nghĩa với sự nhận lời và sự khẳng định cho mối quan hệ giữa anh và ông Peterson.
Tại diễn đàn, ông Peterson đã thể hiện rất tốt vai trò chủ toạ của mình và nhóm của ông thảo luận rất sôi nổi, đóng góp được nhiều ý kiến hữu ích cho việc thúc đẩy quan hệ Việt - Mỹ nói chung và cho chuyến đi Mỹ của Thủ tướng Phan Văn Khải nói riêng.
Câu chuyện thứ 4: Cái bắt tay trên chiến trường xưa...
Vi

Thao thức ở Vịnh Hạ Long


Thứ ba, 12 Tháng bảy 2005, 01:56 GMT+7
    Câu chuyện thứ 2: Thao thức ở Vịnh Hạ Long
Lần thứ 2, Vũ Bình thuyết phục một người Mỹ khác nhìn nhận lại quan điểm nhân quyền của họ nhìn về Việt Nam. Người bị thuyết phục là sử gia nổi tiếng Stanley Karnow.
Cau chuyen thu 2: Thao thuc o Vinh Ha Long
Bìa cuốn sách nổi tiếng của sử gia Stanley Karnow: “Vietnam: A History” (Việt Nam: Thiên Lịch sử)...
Sau đó khoảng một năm, Vũ Bình lại có dịp tranh luận vấn đề nhân quyền với một người khác đến từ Mỹ, nhưng không phải là một nhà báo mà là một sử gia nổi tiếng – ông Stanley Karnow, tác giả cuốn “Vietnam: A History” (Việt Nam: Thiên Lịch sử).
Cuốn sách này đã được dựng thành bộ phim tài liệu nhiều tập “Vietnam: A Television History” (Việt Nam - Thiên lịch sử truyền hình).
... Sau khi đã phỏng vấn xong Đại tướng Võ Nguyên Giáp để chuẩn bị tư liệu cho bài viết về Điện Biên Phủ, vợ chồng ông Stanley Karnow đi Vịnh Hạ Long chơi.
Trên suốt chặng đường dài, "phải chờ qua mấy cái phà. Hồi đó chưa có con đường mới và tốt như hiện nay", nhà sử học có tiếng là hiểu biết về Việt Nam đã nói rất nhiều về chuyện quan hệ Bắc - Nam, hay chính sách cải tạo sĩ quan chế độ Sài Gòn...
Tôi biết không thể sử dụng cái cách “phản bác trực diện” với Stanley Karnow như đã làm với Henry Kamp, bởi một sử gia chắc chỉ có thể bị thuyết phục bởi những lập luận mang tính lịch sử”, Vũ Bình nhớ lại.
Anh nói với Stanley Karnow: “Người Mỹ các ông, và kể cả bản thân ông trong cuốn sách của mình, đã có một sự lầm lẫn nghiêm trọng khi bắt đầu cuộc chiến và đánh giá về sự kết thúc khi gọi nó là Chiến tranh Việt Nam. Có lẽ các ông đã quá bị ám ảnh bởi cách nhìn vào cuộc nội chiến ở Trung Quốc, giữa những người Cộng sản (Communists) và Quốc dân Đảng (nationalists)”.
Cau chuyen thu 2: Thao thuc o Vinh Ha Long
... đã được dựng thành bộ phim tài liệu nhiều tập “Vietnam: A Television History” (Việt Nam - Thiên lịch sử truyền hình) nổi tiếng.
What did you say, young man?” (Anh nói gì vậy, anh bạn trẻ?), Stanley Karnow quay sang hỏi, giọng giật lên khác hẳn với cái nhịp điệu đều đều trước đó. Đôi mắt nhà sử học nổi tiếng này mở to nhìn chằm chằm vào Vũ Bình, người mà cách đây một phút ông vẫn chỉ coi là một phiên dịch và một người bạn đường biết nghe chuyện.
Vũ Bình hiểu là anh đã gây được sự chú ý của nhà sử học vốn rất ý thức được tầm hiểu biết của bản thân mình. “Người Mỹ các ông đã giúp nhầm những người tự nhận là nationalists (quốc gia) như Ngô Đình Diệm, hay Nguyễn Văn Thiệu để chống lại chúng tôi, những người patriots (yêu nước) và nationalists (vì dân tộc) thực sự - những người đã tập hợp được đông đảo quần chúng để đấu tranh giành độc lập dân tộc”, Vũ Bình nói tiếp.
Nếu người Mỹ không can thiệp, chúng tôi sẽ giải quyết vấn đề thống nhất đất nước trong vòng 2 năm thôi thông qua tổng tuyển cử. Hoặc nếu có phải đánh nhau thì cuộc chiến cũng kết thúc không lâu hơn 2 năm”, Vũ Bình đưa ra cái lập luận “2 năm” của mình.
Từ lúc đó trở đi Stanley Karnow trở nên im lặng, có vẻ như ông chấp nhận “đổi vai” với Vũ Bình.
Ông là người giỏi tiếng Pháp và hiểu rõ lịch sử Pháp, thì ông chắc còn nhớ vào năm 1945, trên con đường về Thủ đô Paris, có rất nhiều giá treo cổ được dựng lên. Một nước mà các ông coi là dân chủ như vậy, một nước chỉ trải qua có 4 năm chiến tranh (cũng do ảnh hưởng của bên ngoài), mà đã như vậy, thì chuyện trại cải tạo ở đất nước chúng tôi sau khoảng 20 năm chiến tranh đâu có to tát gì.
Ở Việt Nam sau năm 1975 không hề có chuyện xử bắn, trong khi trước đó phía bên kia (Chính quyền Sài Gòn) đã bỏ tù hàng trăm ngàn người của chúng tôi, chém đầu hàng ngà người khácn, còn số bị xử bắn chắc còn phải nhiều hơn nữa”, Vũ Bình kể tiếp câu chuyện với Stanley Karnow.
Vũ Bình còn nhắc lại với nhà sử học về truyền thống của Phương Đông khi một triều đại mới lên cầm quyền bao giờ cũng “triệt tận gốc” những người của triều đại cũ, thậm chí còn “tru di tam tộc, lục tộc, cửu tộc”, hay tàn phá cung điện, đền đài, đốt sách vở...
Anh cũng không quên kể cho Stanley Karnow về chuyện nhà Nguyễn khi lên ngôi đã đào mộ nhà Tây Sơn lên để lấy xương nhồi cùng thuốc súng cho nổ tan thành tro bụi.
Ông phải ghi nhận rằng rõ ràng chính quyền của chúng tôi đã đi ngược lại cái truyền thống rất lâu đời của Phương Đông”, Vũ Bình kết luận.
Bữa tối hôm đó họ ăn cùng nhau. Nhưng bữa ăn kết thúc khá nhanh, trong im lặng. Sáng hôm sau, trước khi xuống tàu đi thăm Vịnh, Stanley Karnow, với vẻ mặt và ánh mắt mệt mỏi, chậm rãi nói với Vũ Bình: “Này, Bình ơi, cả đêm hôm qua tôi không ngủ được và có trao đổi nhiều với vợ tôi về chuyện lúc chiều. Tôi nhận thấy rằng nhiều điều anh nói có lý”.
  • Huỳnh Phan
Vài nét về người kể chuyện:
Cau chuyen thu 2: Thao thuc o Vinh Ha Long
Vũ Bình, nhân chứng và cũng là nhân vật của những câu chuyện đã và sẽ tiếp tục được đăng tải trên TS, nhân kỷ niệm 10 năm bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ.
Vũ Bình tuổi Tân Sửu, vào Trường Đại học Ngoại giao năm 1978, cùng khoá với những nhân vật đầy cá tính khác như Người phát ngôn Bộ Ngoại giao (BNG) Lê Dũng, nguyên Đại sứ Việt Nam tại UNESCO Phạm Sanh Châu...
Vào Trung tâm báo chí năm 1984, cùng với những người đi trước như nguyên Giám đốc Nguyễn Công Quang, nguyên Phó Giám đốc Nguyễn Hải Sơn (đã mất)..., anh đã góp phần vào việc xây dựng “văn hoá Trung tâm Báo chí” một thời, nơi mọi người đã coi nhau anh em một nhà, sống và làm việc hết mình. Anh cũng giúp đào tạo được một số cán bộ hướng dẫn báo chí có năng lực và triển vọng.
Trong thời gian gần 10 năm làm việc tại Trung tâm Báo chí BNG, anh đã có dịp làm việc với nhiều nhà báo và đoàn làm phim nổi tiếng của Mỹ. Quá trình làm việc đó, anh đã đóng góp vào việc xây dựng thành công những bộ phim có vai trò thúc đẩy quan hệ giữa Việt Nam và Hoa Kỳ, cũng như tác động đến những suy nghĩ và hiểu biết về Việt Nam của các nhà báo Mỹ, giúp họ có cái nhìn khách quan và toàn diện hơn về Việt Nam trong quá trình phát triển.
Anh cũng là một trường hợp khá đặc biệt trong số các cán bộ hướng dẫn báo chí thường bắt đầu công việc với phóng viên Mỹ bằng những cuộc tranh luận khá gay gắt, nhưng kết thúc bằng một tình bạn.
Trong thời gian công tác ở Sứ quán Việt Nam tại Mỹ với cương vị Tham tán phụ trách mảng quan hệ với Quốc hội, vài người trong số họ đã có dịp giúp đỡ anh với những bài báo phản ánh tích cực những vấn đề về Việt Nam vốn đang gây tranh cãi tại Quốc hội Mỹ, đóng góp một phần dư luận ngăn chặn việc thông qua những dự luật nhân quyền trong mấy năm vừa rồi...
Anh thuộc tuýp người quyết đoán trong công việc chung, hay việc của người khác, nhưng lại lần chần vì cả nể trong những chuyện liên quan đến cá nhân mình.
Kỳ tớiCâu chuyện thứ 3: Sự trở lại của “cố nhân"
Về vai trò của truyền thông trong việc hàn gắn, chia sẻ, tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau giữa 2 nước, từ những ngày đầu, qua những câu chuyện và con người cụ thể.

Đằng sau một thông điệp


Ngày 26.09.2007, 11:06 (GMT+7)
Đằng sau một thông điệp
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng đã có mặt ở New York dự phiên thảo luận chung cấp cao khoá họp thường niên lần thứ 62 Đại hội đồng Liên hiệp quốc. Vào ngày 27 tới, ông sẽ có bài phát biểu chính thức trước toàn thể các thành viên đại hội đồng.
Cú hích cuối cùng
Trong cuộc vận động cuối cùng cho chiếc ghế “uỷ viên không thường trực” của Hội đồng Bảo an Liên hiệp quốc, dự kiến được quyết định vào ngày 16.10 tới, Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sẽ có một số cuộc gặp song phương với một số trưởng đoàn của một số nhóm nước có tầm ảnh hưởng tại từng khu vực như châu Mỹ La tinh, châu Âu, châu Phi, hay Liên đoàn Ảrập.
Tuy sự chuẩn bị ngoại giao cho đến thời điểm này đã được tiến hành tương đối tốt, nhưng một thông điệp ở cấp lãnh đạo cao cấp về “một Việt Nam tích cực, xây dựng, hợp tác và có trách nhiệm trong đời sống quốc tế”, được coi là “cú hích cuối cùng”.
Đã được các nước châu Á đồng thuận đề cử là ứng cử viên duy nhất của châu lục này, Việt Nam vẫn cần có những cách ứng xử “thích hợp” để tránh những “bùng phát căng thẳng ngoài ý muốn các bên liên quan”, một chuyên gia về quan hệ đa phương của Bộ Ngoại giao lưu ý.
Đã có thông tin về việc Tổng thống Bush sẽ chính thức tuyên bố Mỹ bỏ phiếu cho Việt Nam khi gặp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng tại bữa tiệc mời các trưởng đoàn. Nhưng cũng cần phải cẩn thận đề phòng những rủi ro hay sự cố có thể xảy ra.
Lợi ích và thách thức
Là một bước tiếp theo sau sự kiện APEC 2006 và tấm thẻ hội viên WTO, việc tham gia Hội đồng Bảo an sẽ giúp nâng tầm – vị – thế của Việt Nam trong khu vực và trên trường quốc tế – ước vọng cả ngàn năm của một dân tộc phần nhiều bị “thua thiệt” trong các xung đột về lợi ích.
Việc tham gia Hội đồng Bảo an đòi hỏi Việt Nam phải tiếp tục công khai hoá một số hoạt động của mình trên cơ sở những tiêu chí chung được quốc tế công nhận.
Đòi hỏi này, mặt khác, sẽ giúp quá trình hội nhập với bên ngoài của Việt Nam trở nên sâu rộng hơn, cũng như thúc đẩy quá trình đổi mới, cải cách trong nước nhanh và mạnh hơn.
Cam kết “thực hiện tốt trách nhiệm của một thành viên Hội đồng Bảo an” cũng đặt ra những vấn đề mới trong tư duy chính trị của Việt Nam liên quan đến các ưu tiên của Hội đồng Bảo an. Chẳng hạn, đối với việc giải quyết các cuộc xung đột khu vực và quốc tế, hay những nghị quyết thể hiện quan điểm của Hội đồng Bảo an đối với một số nước nào đó, Việt Nam sẽ có quan điểm thế nào?
Hay, như vấn đề mà Trưởng đại diện UNDP tại Việt Nam John Hendra đã nêu ra trong cuộc họp báo cuối tuần trước là việc “đóng góp cho lực lượng gìn giữ hoà bình của Liên hiệp quốc” như nhiều nước uỷ viên không thường trực vẫn làm, liệu quan điểm Việt Nam sẽ ra sao? Có bỏ phiếu hay không, có tham gia hay không, và tham gia ở mức độ nào?
Nhưng cũng chính thách thức này lại là cơ hội để “Việt Nam tham gia quá trình đào tạo, nâng cao chất lượng quân đội Việt Nam”, như lời ông John Hendra, hay nhận được sự trợ giúp về thông tin, cũng như tài chánh, để tăng cường năng lực an ninh – quốc phòng.
Tựu trung lại, đây chính là một cơ hội lịch sử nữa cho Việt Nam thể hiện sự linh hoạt của mình trong tư duy chính trị và chính sách đối ngoại.
Hay như phương châm của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Vì một tôn chỉ duy nhất: Lợi ích dân tộc là trên hết!
Huỳnh Phan

Paris Match vào mang Việt Nam ra thế giới


Ngày 21.03.2007, 11:51 (GMT+7)
Paris Match vào mang Việt Nam ra thế giới
Sau những lần xuất hiện thành công trên những chuyên san bằng tiếng Anh của The Washington Times, The Foreign Affairs, hay The Fortune, lần đầu tiên Việt Nam được giới thiệu với độc giả của cộng đồng các nước nói tiếng Pháp (đặc biệt là giới kinh doanh và tài phiệt ở Pháp, Bỉ, Thuỵ Sĩ, hay Canada) trên tờ tạp chí Paris Match nổi tiếng
Những người thực hiện chuyên san về Việt Nam cho Paris Match. Christophe Bonami (bìa trái) là người trả lời phỏng vấn báo Sài Gòn Tiếp Thị
Nhóm 4 người thực hiện chuyên san này đã đến Việt Nam từ đầu tháng 3, và dự định sẽ rời Việt Nam vào giữa tháng 6, để kịp cho chuyên san ra đời vào cuối mùa hè, đúng dịp Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng sang thăm Cộng hoà Pháp.
Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với phóng viên Christophe Bonami của Terra Nueva, một trong bốn hãng chuyên thực hiện chuyên san cho Paris Match, xung quanh mục đích việc thực hiện chuyên san này, cũng như tầm ảnh hưởng của nó.
Khi nào thì Paris Match nảy ra ý tưởng làm một chuyên san về Việt Nam?
Cách đây một năm. Việt Nam lúc đó đạt được một thành tựu kinh tế vĩ mô to lớn, và kết quả cuối năm 2006 lại một lần nữa khẳng định điều đó khi tăng trưởng kinh tế đạt 8%, và thu hút FDI đạt mức kỷ lục trên 10 tỉ USD trên 84 triệu dân, trong khi đó Trung Quốc thu hút được 50 tỉ USD trên 1,2 tỉ dân. Tự những con số đó đã nói lên tất cả.
Còn nói riêng về quan hệ Pháp - Việt kể từ Hội nghị Thượng đỉnh khối Francophone tại Hà Nội vào năm 1997, đã có sự trao đổi hàng loạt các chuyến thăm cấp cao, trong đó về phía Việt Nam có cả những người đứng đầu Đảng Cộng sản. Bản thân Tổng thống Chirac sau chuyến thăm Việt Nam vào tháng 10 năm 2004, và năm ngoái ông đã đi thăm Trung Quốc và Thái Lan.
Những sự kiện đó nói lên rằng nước Pháp ngày càng quan tâm đến châu Á, trong đó đặc biệt là Việt Nam. Mà chính trị và kinh tế thì không thể tách rời nhau.
Các nhà kinh doanh Pháp nhìn thấy những lợi ích kinh tế gì ở Việt Nam?
"Chuyên san về Việt Nam sẽ được phát hành cùng một lúc trong 3 ấn phẩm có ảnh hưởng nhất của Paris Match với tổng số phát hành là 200 ngàn bản và phục vụ cho 1,2 triệu độc giả"
Paris Match, ra đời từ tháng 3.1949, là tờ tạp chí đi đầu trong việc thực hiện các chuyên san giới thiệu về một đất nước cụ thể. Trong mấy năm trở lại đây, cứ trung bình 2 tháng một chuyên san lại xuất hiện trên tạp chí này.
Lấy bằng thạc sĩ về quan hệ quốc tế tại Đại học Sorbonne, Bonami đã làm phóng viên cho những tờ nổi tiếng như The New York Times, The Fortune, hay Le Monde. Thông thạo tiếng Pháp, Anh và Nhật, và giao tiếp tốt bằng tiếng Tây Ban Nha.
Có nhiều lĩnh vực mà Pháp có thế mạnh được thế giới công nhận và Việt Nam đang có nhu cầu. Nhưng theo tôi biết, năng lượng hạt nhân và du lịch là hai lĩnh vực mà chúng ta có thể nhìn thấy rõ ràng trong ít năm tới đây.
Việt Nam đang xây dựng chiến lược phát triển các nhà máy điện hạt nhân. Chọn Mỹ, chắc anh cũng hiểu, là một chuyện "động trời". Như vậy, Việt Nam chỉ còn 3 sự lựa chọn là Hàn Quốc, Nhật và Pháp. Nhưng, theo tôi, cuộc đấu sắp tới chủ yếu diễn ra giữa Pháp và Nhật.
Nói về kỹ nghệ làm du lịch, có lẽ người Pháp mạnh nhất trên thế giới này, với việc hàng năm thu hút tới 75 triệu khách du lịch (riêng đến Paris là 55 triệu lượt khách). Còn về các nhà cung cấp dịch vụ du lịch, Accor là tập đoàn khách sạn lớn thứ hai thế giới, và Air France KLM là hãng hàng không hàng đầu thế giới.
Xin ông cho biết chuyên san này sẽ được xây dựng như thế nào?
Chuyên san về Việt Nam sẽ được phát hành cùng một lúc trong 3 ấn phẩm có ảnh hưởng nhất của Paris Match với tổng số phát hành là 200 ngàn bản và phục vụ cho 1,2 triệu độc giả.
Ấn bản ở Paris là dành cho các nhà hoạch định chính sách chính trị và kinh tế của Pháp. Ấn bản thứ hai là Paris Match International, được phát hành khắp thế giới, chủ yếu là các thủ đô và các sân bay quốc tế. Cần phải nhớ rằng 7% độc giả của chúng tôi giữ vị trí CEO trong các công ty, tổ chức tài chính lớn trong khu vực nói tiếng Pháp.
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, là ấn bản ở Bỉ, nơi đóng trụ sở của rất nhiều tổ chức ở châu Âu, kể cả EU. EU hiện đang muốn mở rộng quan hệ, nhất là thương mại với ASEAN, nhằm tạo ra đối trọng với sự lấn át ngày càng tăng của Mỹ và Trung Quốc trên trường quốc tế. Ông Chủ tịch EU Jose Manuel Barroso đã tuyên bố tại ASEM 6 ở Helsinki rằng EU ký FTA với từng thành viên ASEAN.
Trong phụ trương của mình, Paris Match sẽ tập trung vào những nội dung gì?
Chúng tôi tạo cơ hội cho nhiều giới từ các chính khách, giới học giả đến các doanh nhân, có thể có tiếng nói của mình về tương lai của Việt Nam. Có cả sự góp mặt của các công ty đa quốc gia, những nhân tố đóng góp vào việc xây dựng hình ảnh quốc tế của Việt Nam.
Tất nhiên, có hai nhân vật mà chúng tôi không được phép bỏ qua trong chuyên san của mình.
Họ là ai vậy, thưa ông?
Thứ nhất là ngài Thủ tướng mới của Việt Nam, bởi chuyên san của chúng tôi cố gắng phát hành vào đúng dịp ông thăm Pháp trong chuyến công du châu Âu vào cuối mùa hè này. Theo những gì tôi được biết, đó là một người rất năng động, và đã tạo nên một diện mạo Việt Nam mới.
Nhân vật thứ hai là ông chủ tịch FPT. Công ty này là biểu tượng của nền kinh tế Việt Nam đang chuyển mình từ sản xuất nông nghiệp sang những ngành công nghiệp có giá trị gia tăng cao. Theo những gì tôi đọc và nghe được, ông chủ tịch là một người rất thông minh, hiểu rằng Việt Nam không chỉ là một cơ sở sản xuất mà còn là một trung tâm hi-tech đầy tiềm năng. Việc ông ta đã mở một trường đại học để cung cấp nguồn nhân lực chất lượng cho các đại gia hi-tech của Nhật Bản là một quyết định sáng suốt.
Chuyên san này sẽ dày bao nhiêu trang?
Về nguyên tắc, ít nhất phải tám trang. Nhưng tôi nghĩ Việt Nam xứng đáng được nói nhiều hơn thế, hy vọng là gấp đôi, hoặc gấp ba. Số lượng trang tăng thêm bao nhiêu phụ thuộc vào số lượng quảng cáo mà chúng tôi nhận được.
Phí quảng cáo ít nhất là bao nhiêu, nếu không phải là bí mật?
Năm ngàn euro, với khổ khoảng 1/24. Còn càng nhiều tiền hơn thì khổ sẽ to hơn, và vị trí tốt hơn.
Huỳnh Phan thực hiện

Có PNTR trước khi là thành viên WTO?


Ngày 29.11.2006, 18:22 (GMT+7)
Có PNTR trước khi là thành viên WTO?


Ngày 28.11, Quốc hội Việt Nam đã thông qua Nghị định thư về việc Việt Nam gia nhập WTO, và trước khi năm mới 2007 bắt đầu, Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Một vấn đề quan trọng là liệu quy chế này có được áp dụng với Mỹ?
Theo Trưởng đại diện thương mại Mỹ Susan Schwab, dự thảo PNTR hoàn toàn có thể được thông qua bởi số phiếu ủng hộ theo quy trình bỏ phiếu nhanh đã vượt 10 phiếu so với mức quá bán tối thiểu cần thiết cho quy trình bình thường


Theo đánh giá của SGTT, việc PNTR không giành đủ số phiếu cần thiết để được thông qua tại Hạ viện chỉ là một vấn đề nội bộ của Mỹ, mang tính “xúc cảm” nhất thời sau kết quả bầu cử. Nhiều hạ nghị sĩ “thất cử” của Đảng Cộng hoà trong cuộc bầu cử 7.11, trong nỗi thất vọng lại coi chính sách của Tổng thống Bush là nguyên nhân thất bại của đảng này, và “giận cá chém thớt”.


Trong khi đó, hầu hết những hạ nghị sĩ Dân chủ thắng cử được là nhờ giương cao ngọn cờ “chống cuộc chiến Iraq của Tổng thống”, và họ tiếp tục “con đường chống lại những gì Tổng thống muốn”. Những người thắng lợi có lẽ cũng không muốn cho chuyến công du nước ngoài đầu tiên của ông Tổng thống của một đảng thất bại vẫn “đầy hào quang”.


Vì vậy, khi sự ngất ngây của chiến thắng đã qua, cũng như nỗi buồn của thất bại đã gặm nhấm hết, lãnh đạo hai đảng sẽ thuyết phục các nghị sĩ của mình bình tâm lại để giải quyết nốt phần việc còn lại trong nhiệm kỳ sắp kết thúc.


Người ta cũng không tin rằng Đảng Dân chủ, vốn ủng hộ mạnh mẽ cho quá trình bình thường hoá quan hệ với Việt Nam từ cả chục năm nay, lại không hoàn tất của một quá trình khởi đầu được đánh dấu bằng quyết định “Bình thường hoá quan hệ ngoại giao” của Tổng thống Dân chủ Bill Clinton cách đây hơn 11 năm.


Trưởng đại diện Thương mại Mỹ - Susan Schwab từng nói: “Quy chế thành viên WTO không phải là một món quà của Mỹ dành cho Việt Nam, cũng như cũng không phải là món quà Việt Nam dành cho Mỹ. Nhưng điều đó quan trọng đối với cả Việt Nam và Mỹ”.


Món quà người ta có thể cho, hay không cho nhau, tuỳ thích, nhưng nếu là lợi ích (nếu không có PNTR Mỹ không được hưởng các cam kết mở cửa thị trường của Việt Nam) thì người ta phải cố gắng đạt bằng được!
Huỳnh Phan

Mặt trận WTO - PNTR đã "im tiếng súng"


Ngày 17.10.2006, 16:30 (GMT+7)
Mặt trận WTO - PNTR đã "im tiếng súng"
Thành công của vòng đàm phán đa phương cuối cùng đã mở đường cho Việt Nam được kết nạp vào Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO) ngay trước thời điểm diễn ra Hội nghị thượng đỉnh APEC. 


Một động lực mới đã được tạo ra cho Liên minh các tập đoàn, công ty và nghiệp đoàn Mỹ ủng hộ cho tiến trình WTO-PNTR  - những người có khả năng "trắng tay" trước những cam kết mở cửa thị trường, cũng như nguyên tắc ứng xử quốc gia, tối huệ quốc theo qui định của WTO, nếu PNTR không được thông qua khi nhiệm kỳ quốc hội Mỹ kết thúc trên thực tế vào trước dịp Giáng sinh năm nay.

Cũng thật "khó xử" cho lãnh đạo các tập đoàn lớn của Mỹ, những người được chờ đợi sẽ lên tiếng kêu gọi lãnh đạo các nền kinh tế châu Á - Thái Bình Dương thúc đẩy thương mại và đầu tư tại Diễn đàn kinh doanh APEC trong vài tuần tới tại Việt Nam, lại "bất lực" trong việc thuyết phục "người nhà mình" chấp nhận một quan hệ thương mại bình thường ổn định với nền kinh tế chủ nhà.


Mỹ chuẩn bị cho chuyến đi Việt Nam của Tổng thống


Thiện chí "muốn kết thúc sớm đàm phán đa phương" của phía Mỹ, theo nhận xét của Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển, đã cho thấy phía chính quyền Mỹ thực sự muốn chuẩn bị một "món quà" để Tổng thống trao cho cho Việt Nam khi ông sang Việt Nam dự APEC và thăm song phương. 


Theo thông tin của nhóm "vận động hành lang" cho PNTR, Tổng thống Bush đã chính thức đặt dự luật PNTR với Việt Nam vào danh sách "những việc cần làm ngay". Trong bối cảnh cuộc khủng hoảng hạt nhân ngày càng gia tăng trên bán đảo Triều Tiên, một thông điệp liên quan đến cam kết tự do hoá thương mại cho những thành viên châu Á của Diễn đàn APEC (nơi Mỹ có nhiều việc cần tranh thủ), thông qua việc trao quan hệ thương mại "không phân biệt đối xử" cho Việt Nam, càng có ý nghĩa quan trọng hơn.


Một động thái được coi là tích cực và "khôn khéo" trước đó của chính quyền ông Bush trong việc thúc đẩy Quốc hội Mỹ thông qua PNTR ngay sau cuộc bầu cử giữa kỳ là Nhà Trắng đã "thoả thuận" được với hai thượng nghị sĩ của vùng Carolina để họ rút lại tuyên bố "trì hoãn vô thời hạn" việc thông qua PNTR. Đã có những phản đối gay gắt từ phía Việt Nam, nhất là từ Chủ tịch hiệp hội dệt may Việt Nam, người đã thể hiện "sự bất cần" với PNTR khi quyền lợi của các thành viên của ông "dường như" bị xâm hại. 


Tuy nhiên, theo một chuyên gia về thương mại Việt - Mỹ, "cơ chế về chống phá giá với hàng dệt may Việt Nam", theo nhận định của một chuyên gia thương mại Việt - Mỹ, chẳng qua là "bình mới, rượu cũ" và không hề có thêm tác động tiêu cực tới nhập khẩu từ Việt Nam. 


Theo chuyên gia này, trên thực tế tình hình nhập khẩu từ bất cứ nước nào vẫn được theo dõi và cập nhật hàng tháng trên website Bộ Thương mại Mỹ, và Việt Nam phải coi việc sống chung với các vụ kiện chống phá giá như "sống chung với lũ". Ông cũng dự báo rằng với sự gia tăng đầu tư và thương mại hai chiều giữa hai nước thời kỳ hậu WTO, Việt Nam sẽ có nhiều "con bài" để mặc cả hơn.


"Việc hai thượng nghị sĩ trên rút lại tuyên bố của mình thực chất là sự thoả hiệp do "sự vận động hành lang" của những nhóm ủng hộ PNTR đối với họ, và việc đề xuất "cơ chế mới", chẳng qua là một hành động mang tính giữ thể diện cho họ", một chuyên gia về Quốc hội Mỹ của Bộ Ngoại giao nhận định.


Những khoảng cách còn lại


"Tôi tin chắc rằng nếu được đưa ra bỏ phiếu, dự luật PNTR sẽ được thông qua với đa số ủng hộ, nhưng điều khó khăn nhất là phải đưa được vào lịch trình", chủ tịch Amcham Vietnam, Thomas O'Dore, một người lobby rất tích cực cho PNTR, nhận xét.


Tuy đã được hai viện Quốc hội dự kiến đưa vào lịch trình trong tuần lễ bắt đầu từ 13.11, việc đưa PNTR vào lịch trình vẫn còn phụ thuộc nhiều vào Hiệp định tự do thương mại Mỹ - Peru. Ngay trước khi Quốc hội tạm nghỉ để các nghị sĩ đi vận động tranh cử, chủ tịch Uỷ ban tài chính Thượng viện Chuck Grassley đã công khai chia sẻ quan điểm với người đồng cấp tại Hạ viện Bill Thomas, khi tuyên bố sẽ phản đối việc thông qua PNTR nếu chính quyền không trình dự luật FTA với Peru ra toàn thể Quốc hội.


Theo nguồn tin Quốc hội Mỹ, hiện vẫn có hai luồng ý kiến trái ngược nhau trong chính giới Mỹ về khả năng FTA với Peru sớm được thông qua, và rõ ràng điều này sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến số phận của PNTR, nếu Quốc hội Mỹ vẫn giữ quan điểm "bán kèm". Tuy nhiên, vị chuyên gia của Bộ Ngoại giao lại có quan điểm tương đối lạc quan, khi cho rằng quan điểm về những vấn đề liên quan đến lợi ích của Mỹ trong thương mại quốc tế của hai chính đảng ở Mỹ là tương đối thống nhất và ổn định.


Ông này cũng cảnh báo rằng Việt Nam vẫn phải chuẩn bị phương án đối phó với những thách thức chống PNTR có thể xuất hiện vào phút chót từ những nhóm khác, và nhất thiết phải có sự phối hợp nhịp nhàng với những nhóm ủng hộ PNTR từ phía Mỹ, chứ không nên "ông nói gà, bà nói vịt" như vụ dệt may vừa rồi.
Huỳnh Phan - Vũ Bình

Ánh sáng cuối đường hầm?


Ngày 04.10.2006, 14:55 (GMT+7)
WTO - PNTR:
Ánh sáng cuối đường hầm?


Kể từ gần ba tháng trở lại đây, khi dự luật về việc trao Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) với Việt Nam được trình ra Quốc hội Mỹ, người ta cảm thấy vấn đề PNTR trở nên sáng tỏ và có thể dự đoán hơn bao giờ hết
Cách đây một tuần, hai thượng nghị sĩ Elezabeth Dole và Lindsey Graham, đại diện cho hai bang Carolina Bắc và Carolina Nam - "Trái tim của ngành dệt may nước Mỹ" - đã tuyên bố rút lại "thách thức" chống PNTR đến cùng, sau khi nhận được lời cam kết của Nhà Trắng "đảm bảo hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam sẽ không bị bán phá giá tại thị trường Mỹ". Ảnh: Lê Quang Nhật
Thứ nhất, lãnh tụ phe đa số tại Hạ viện John Boehner đã tuyên bố sẽ lùi thời gian bỏ phiếu thông qua những dự luật liên quan đến thương mại quốc tế tới sau ngày bầu cử (7.11), trong đó PNTR được dự kiến đưa ra bỏ phiếu vào ngày 13.11, ngay trước khi Tổng thống Bush sang Việt Nam dự APEC. 


Theo một chuyên gia về Quốc hội Mỹ của Bộ Ngoại giao, việc tách những vấn đề nhạy cảm đối với cử tri Mỹ (PNTR với Việt Nam hay TPA với Peru) ra khỏi "vùng xoáy" của cuộc vận động tranh cử ở giai đoạn nước rút không chỉ giảm nhẹ sự "mạo hiểm chính trị" đối với những nghị sĩ ủng hộ hai dự luật này, hay tự do hoá thương mại nói chung, mà còn tránh cho những dự luật này bị đưa vào cửa "năm ăn năm thua".


Thứ hai, cách đây một tuần, hai thượng nghị sĩ Elezabeth Dole và Lindsey Graham, đại diện cho hai bang Carolina Bắc và Carolina Nam - "Trái tim của ngành dệt may nước Mỹ" - đã tuyên bố rút lại "thách thức" chống PNTR đến cùng, sau khi nhận được lời cam kết của Nhà Trắng "đảm bảo hàng dệt may nhập khẩu từ Việt Nam sẽ không bị bán phá giá tại thị trường Mỹ". 


Trở ngại chính còn lại cho việc thông qua PNTR là nhân quyền có lẽ phụ thuộc không nhỏ vào quan điểm của Bộ Ngoại giao Mỹ trong bản báo cáo thường niên về nhân quyền, trong đó có việc rút Việt Nam ra khỏi danh sách CPC (Những nước đặc biệt đáng quan tâm về tự do tôn giáo).


Thời điểm gia nhập WTO?


Sau khi báo cáo với Uỷ ban Thường vụ Quốc hội về tiến trình gia nhập WTO, Bộ trưởng Thương mại Trương Đình Tuyển đã tuyên bố với báo giới: "Chúng ta không vào WTO bằng bất cứ giá nào. Chúng ta không lấy mốc gia nhập WTO vào thời điểm APEC họp... để chấp nhận những đòi hỏi vô lý". Nhiều người "ngỡ ngàng" trước một tuyên bố khác "tông" so với những gì ông đã nói kể từ sau khi "vượt vũ môn" thành công trong phiên đàm phán song phương cuối cùng với Mỹ vào trung tuần tháng 5 vừa rồi.


Một lãnh đạo đoàn đàm phán WTO của Việt Nam cho biết thời điểm Việt Nam được kết nạp vào WTO phụ thuộc vào những yếu tố ít nhiều nằm ngoài nỗ lực, hay sự nhượng bộ, của Việt Nam.


Thứ nhất, vòng đàm phán đa phương dự kiến diễn ra vào 8-9.10 tới tại Geneva liệu có giải quyết được những bất đồng còn lại, chủ yếu là với Mỹ, hay không. Theo những kinh nghiệm của mình khi tham gia đàm phán BTA và WTO với Mỹ, nhà đàm phán trên cho rằng "nhiều khi người ta đưa ra rất nhiều đòi hỏi, thậm chí có vẻ vô lý, nhưng thực chất là nhằm mặc cả được những gì thuộc về lợi ích không thể từ bỏ của người ta", và "đối với những đối tác lớn như Mỹ, sự tồn tại của nhiều hay ít vấn đề không hẳn quá quan trọng, điều quan trọng là họ có muốn kết thúc hay không". 


Nhà đàm phán này dự đoán rằng, với những diễn tiến "thuận" về tiến trình PNTR cùng những dấu hiệu cho thấy có động thái "vận động" tích cực của Nhà Trắng với Quốc hội để không xảy ra cái nghịch lý "Mỹ cố đòi cho cả làng, trừ bản thân mình, được hưởng", tiến trình đa phương được hy vọng là "thuận" hơn nhiều so với một tháng trước đây.


Vòng Doha chưa định ngày


Thứ hai, phiên họp Đại hội đồng (bao gồm chủ yếu là các Đại sứ của các nền kinh tế thành viên WTO), dự kiến vào ngày 10-11.10 tới tại Geneva, có thực sự diễn ra hay không lại phụ thuộc vào quyết tâm của các thành viên chủ chốt có muốn khởi động lại vòng đàm phán Doha hay không (cho đến thời điểm này vẫn chưa có lịch trình cụ thể). Nên dù Việt Nam có kết thúc thành công phiên đa phương sắp tới, nếu Đại hội đồng chưa họp được Việt Nam vẫn phải chờ tới khi có phiên họp Đại hội đồng tiếp theo (sớm nhất là hạ tuần tháng 12) và chỉ được công nhận là thành viên chính thức khi Quốc hội, hoặc Chủ tịch nước (được sự uỷ nhiệm của Quốc hội) phê chuẩn.


Tuyên bố của Bộ trưởng Tuyển về "thời điểm Việt Nam gia nhập WTO có thể phải lùi sang đầu năm 2007" được các chuyên gia về Mỹ và WTO đánh giá là "khá khôn ngoan", khi "gỡ bỏ" sức ép về tâm lý là phải thực hiện bằng được mục tiêu đề ra - một điều được coi là bất lợi trong đàm phán. Việc Việt Nam gia nhập WTO có lợi cho không chỉ Việt Nam, và, như vậy, "quả bóng trách nhiệm" đã "chuyền" sang những đối tác có lợi trong việc này và họ phải chịu sức ép của các nhóm lợi ích của họ.
Huỳnh Phan

Tháng 9 của những ẩn số?


Ngày 06.09.2006, 14:37 (GMT+7)
WTO-PNTR
Tháng 9 của những ẩn số?


Quá bị cuốn hút vào cái game "PNTR" đầy kịch tính, báo giới cả trong lẫn ngoài nước vẫn coi việc Việt Nam được kết nạp vào WTO tháng 10 tới là một chuyện tất nhiên, những vấn đề còn lại chỉ mang ý nghĩa thủ tục. Thế nhưng, trong cuộc họp báo cuối tháng 8 vừa rồi, ông Đại sứ Mỹ lại cảnh báo rằng "vẫn còn rất nhiều vấn đề phải giải quyết ở Geneva trên cấp độ đa phương".


Mối liên hệ giữa "vấn đề đa phương" và PNTR?


Theo một thành viên đoàn đàm phán WTO của Việt Nam, hiện nay phía Việt Nam vẫn còn đang "đau đầu" với rất nhiều câu hỏi "hóc búa" của các đối tác quan trọng như EU, kể cả Mỹ (dù đã ký thoả thuận song phương có gắn với cam kết đa phương), liên quan đến những bộ luật mà Việt Nam vừa thông qua, hay sửa đổi, cho tương thích với quy định của tổ chức này. 


Nhà đàm phán này còn cho biết có những câu hỏi mang tính "đánh đố" như yêu cầu phía Việt Nam chứng tỏ tính khả thi của một số điều luật nào đó. Theo nguồn tin ngoại giao Việt Nam, việc Mỹ yêu cầu nhập "văn hoá phẩm Việt kiều" (như SGTT đã từng nêu trong bài "Mỹ sẽ bốc lại con bài đã dập?") vẫn có khả năng là một trong những "vấn đề tồn tại" cho đến nay, mặc dù phía Mỹ đã hiểu rõ "lập trường" của phía Việt Nam về chuyện này.


Trở lại chuyện PNTR, một tờ báo Mỹ đã từng nhận xét rằng "nếu PNTR không được thông qua trước khi Tổng thống Bush sang Việt Nam, đó sẽ là một cái tát về ngoại giao". Nhưng có ai đó từ phía Mỹ có thể đặt ra một câu hỏi theo một góc nhìn khác: Liệu việc Chính phủ Mỹ bật đèn xanh cho Việt Nam gia nhập WTO, mà các doanh nghiệp Mỹ không được hưởng lợi gì từ những thoả thuận mở cửa thị trường của Việt Nam, có phải là "tự vả vào má mình"? 


Và như vậy, liệu có gì liên quan giữa những đòi hỏi "khó" của Chính phủ Mỹ trong đàm phán đa phương và những "rắc rối" liên quan đến việc xem xét và thông qua PNTR tại Quốc hội? Sự tác động qua lại giữa hai quá trình "song phương" và "đa phương" như thế nào? Trước những câu hỏi đó của SGTT, nhà đàm phán trên chỉ nhún vai: "Tháng Chín này sẽ trả lời".


Món xúc xích có mùi cứt gián?


Ý thức được những khó khăn liên quan đến dệt may, nhân quyền và tôn giáo, nhưng Đại sứ Marine vẫn lạc quan về triển vọng PNTR được thông qua trong tháng 9 này, bởi theo ông "các thành viên Chính phủ đã tiếp cận các nhân vật chủ chốt trong Quốc hội để thúc giục sớm thông qua PNTR". 


Theo nguồn tin ngoại giao Mỹ, trước chuyến thăm dự kiến của Ngoại trưởng Mỹ Condoleezza Rice sang Việt Nam cuối tháng 7 (đã bị huỷ do cuộc khủng hoảng quân sự ở Trung Đông), đích thân Tổng thống Bush đã có cuộc gặp riêng với Chủ tịch Hạ viện Hastert về vấn đề này. Các nhà ngoại giao Việt Nam vào tháng trước cũng đã có một số hoạt động vận động cho PNTR ngay tại bang California, khi những nhân vật như Chủ tịch Uỷ ban Tài chính và thuế vụ Hạ viện Bill Thomas và Chủ tịch Uỷ ban Quy tắc Hạ viện David Dreier đang có mặt tại quê hương họ để vận động tranh cử cho đảng mình, hay cho chính mình.


Hy vọng là như vậy, nhưng một mối lo ngại khác lại được đặt ra là liệu PNTR khi được thông qua có phải là một PNTR "sạch" (tức là không có các điều khoản bổ sung) không?


Hai thượng nghị sĩ của North Carolina và South Carolina, nơi tập trung của ngành dệt may Mỹ và cũng là nơi cư trú của những người thiểu số đến từ Việt Nam, đã lên tiếng "tuyên chiến" với PNTR đến cùng. Với một nhân vật như Elizabeth Dole, vợ của thủ lĩnh một thời của Đảng Cộng hoà tại Thượng viện Bob Dole và bản thân từng là Bộ trưởng Giáo dục và Bộ trưởng Lao động thời Tổng thống Reagan, cũng như Chủ tịch Hội Chữ thập đỏ Mỹ, trong khi Thượng viện Mỹ lại có nguyên tắc Filibuster (cho phép tranh luận đến cùng nếu không có ít nhất 60 người bỏ phiếu truất quyền này), một số nhà quan sát tỏ ra lo ngại về khả năng Quốc hội Mỹ thông qua PNTR nhưng lại "bán kèm" thêm một (vài) điều khoản bổ sung bất lợi cho Việt Nam, thậm chí bất lợi cho nhiều bang khác, nhiều giới khác của Mỹ.


Người Mỹ có câu: "Hãy thưởng thức món xúc xích, nhưng đừng quan tâm nó được nhồi như thế nào!". Rõ ràng trong trường hợp này, không phải vấn đề cách nhồi, mà thịt đã được nhồi lẫn với vài viên cứt gián.
Không có cái tát nào cả! Chỉ có "món quà" không được "thơm" lắm! "Tiếng thơm" của người trao nó chắc cũng bị ảnh hưởng!
Huỳnh Phan