Thứ Bảy, 24 tháng 12, 2011

Diễn biến và tự diễn biến hòa bình


Diễn biến và tự diễn biến hòa bình


Peaceful Evolution - Diễn biến hoà bình

Tháng 4/1994, trước làn sóng cách mạng dân chủ diễn ra tại Đông Âu, “diễn biến hòa bình” vốn là một đe dọa, đã được Trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam đưa lên hàng nguy cơ, và  là một trong bốn nguy cơ hàng đầu trong Báo cáo Chính trị của Ban Chấp hành Trung ương (khóa VII) tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ. Từ đó đến nay, đại hội X sang đại hội XI cũng như trong các văn kiện đảng, tập huấn, hội nghị, sách vở của nhà xuất bản chính trị quốc gia nhiều lần nhắc nhở đến nguy cơ này.
Theo Từ điển Bách khoa xuất bản tại Việt Nam 2005, diễn biến hòa bình được định nghĩa: “Diễn biến hòa bình chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, được thực hiện dưới một phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội. Đối tượng của chiến lược Diễn biến hòa bình là các nước có khuynh hướng phát triển phi tư bản chủ nghĩa. Bản chất của chiến lược DBHB là chống chủ nghĩa xã hội. Nội dung cơ bản là phá hoại các nước xã hội chủ nghĩa về các mặt chính trị, tư tưởng, kinh tế, văn hoá, xã hội, v.v… Phương thức và thủ đoạn chủ yếu là tạo dựng và thúc đẩy những nhân tố phản động, chống đối từ bên trong, đẩy đối phương vào khủng hoảng toàn diện, từng bước chuyển hoá chế độ chính trị theo con đường phát triển tư bản chủ nghĩa hoặc bị chính các thế lực chống đối dùng bạo lực lật đổ...”
Diễn biến hòa bình không phải là một chủ thuyết độc lập nhưng là một bộ phận của hai học thuyết đối ngoại thịnh hành của Mỹ sau thế chiến thứ hai là ngăn chận (containment) và đẫy lùi (rollback).
Tháng 2 năm 1946, George F. Kennan, nhân viên ngoại giao làm việc cho tòa đại sứ Mỹ tại Liên Xô, gởi Bộ Ngoại giao Mỹ một bản phân tích qua hình thức một điện tín dài 5.500 chữ, trong đó ông trình bày một cách chi tiết quan điểm của Stalin về tương lai nhân loại, mục tiêu và chiến lược của Liên Xô sẽ được áp dụng trên phạm vi toàn thế giới, điểm mạnh và điểm yếu của chế độ Cộng sản, đồng thời đề nghị một số biện pháp cần thiết phải được áp dụng để ngăn chận làn sóng Cộng sản. Chính sách đối ngoại chỉ đạo của Mỹ đặt cơ cở trên những phân tích của George Kennan được gọi là ngăn chận (containment).
Lý thuyết đẩy lùi (rollback) các ảnh hưởng của khối Cộng sản tại những nơi bị Cộng sản chiếm được phác họa trước hết nhắm đến các quốc gia Cộng sản chư hầu của Liên Xô tại Đông Âu. Người cổ võ mạnh mẽ nhất cho lý thuyết này là cố Ngoại trưởng Mỹ John Foster Dulles .Trong lúc lý thuyết ngăn chặn nặng về phòng thủ, lý thuyết đẩy lùi nghiêng về phía phản công. Hai lý thuyết này chế ngự chính sách đối ngoại của Mỹ trong và cả sau chiến tranh lạnh, tùy thuộc hoàn cảnh chính trị tại mỗi quốc gia mà một hay cả hai chính sách được áp dụng.
Người đầu tiên gợi ý về diễn biến hòa bình là George Kennan và được ngoại trưởng Dean Acheson dưới thời tổng thống Harry Truman ủng hộ. Tuy nhiên người giải thích rõ quan điểm này cũng là John Foster Dulles. Trong một điều trần tại Quốc hội Mỹ 15 tháng Giêng 1953, Ngoại trưởng Dulles phát biểu: “Chúng ta phải luôn ghi nhớ đến việc giải phóng các dân tộc bị nô lệ. Tuy nhiên, giải phóng đây không có nghĩa là phát động chiến tranh giải phóng, có nhiều phương tiện khác hơn chiến tranh có thể được dùng để giải phóng”.
John Foster Dulles (1888-1959) giữ chức Bộ trưởng Ngoại giao dưới  thời Tổng thống Dwight D. Eisenhower từ 1953 đến 1959. Ông là một chính khách có lập trường chống Cộng sản cương quyết, biện hộ cho chủ trương cứng rắn trong việc đối đầu với phong trào Cộng sản Quốc tế, nhất là với Trung Quốc và Liên Xô. Tại hội nghị Geneva 1954, được biết là ông đã từ chối bắt tay Ngoại trưởng Trung Cộng Chu Ân Lai. Với tư cách Ngoại trưởng, Dulles dành nhiều thời gian để xây dựng khối Minh Ước Bắc Đại Tây Dương (NATO) nhằm chặn đứng sự bành trướng của Xô Viết sang Tây Âu. Tại viễn đông, Dulles vận động thành lập Tổ Chức Liên Phòng Đông Nam Á (SEATO). Dulles cũng đưa ra hai chủ trương  được gọi là “bên miệng hố chiến tranh” (brinkmanship) và trả thù ồ ạt (massive retaliation) để đặt các quốc gia Cộng sản tiêu hao tài nguyên nhân lực trong tình trạng thường trực chuẩn bị cho chiến tranh. Với Trung Quốc, Ngoại trưởng John Foster Dulles có thái độ chống đối ra mặt và có lần đã gọi chế độ Cộng sản tại Trung Quốc là “hiện tượng xấu”. Trong một diễn văn vào tháng Sáu 1957, ông còn nhấn mạnh “hiện tượng đó phải biến mất đi”. Ngày 11 tháng 8/1958, trong một thông cáo báo chí,  Bộ Ngoại giao Mỹ dưới quyền John Foster Dulles xác định “Chủ nghĩa Cộng sản tại Trung Quốc không phải là vĩnh cửu và một ngày nào đó chế độ đó sẽ sụp đổ”. Ngày 24 tháng Mười 1958, trong một phỏng vấn dành cho đài BBC, Ngoại trưởng Dulles tiên đoán “Chủ nghĩa Cộng sản sẽ nhường bước cho một hệ thống mới quan tâm đến an sinh của quốc gia và con người”, “Cộng sản Trung Quốc và Cộng sản Nga không phục vụ lợi ích của con người” và “thứ Cộng sản đó sẽ thay đổi”.
Mao Trạch Đông, được biết là người đầu tiên diễn dịch quan điểm của Ngoại trưởng Dulles thành “diễn biến hòa bình”. Trước tình hình nội bộ đảng không bao giờ đoàn kết và quan hệ xấu dần theo giữa Trung Quốc với Liên Xô, “diễn biến hòa bình” trở thành mối bận tâm hàng đầu của Mao Trạch Đông. Theo hồi ký của Bạc Nhất Bá (薄一波), một trong Bát Bất Tử của đảng Cộng Sản Trung Hoa, nguyên Ủy viên Bộ Chính Trị  kiêm Chủ tịch Ủy Ban Kinh Tế Nhà Nước, Mao tin rằng chính sách “diển tiến hòa bình” của Dulles đã bắt đầu có hiệu quả tại Liên bang Xô Viết qua việc Khrushchev chủ trương “sống chung hòa bình” với khối tư bản.
Các báo Hồng Kỳ và Nhân Dân đăng hàng loạt các bài bình luận tố cáo Khrushchev phản bội lý tưởng Cộng sản. Mao Trạch Đông tìm mọi cách để ngăn chận tình trạng mà ông ta kết án là Chủ nghĩa xét lại xảy ra tại Trung Quốc. Mao đọc các bài điều trần và diễn văn của Ngoại Trưởng Dulles từng chữ một. Việc Thống chế Bành Đức Hoài phê bình chính sách “Ba ngọn cờ đỏ” tại Hội Nghị Lư San càng làm cho Mao nghi ngờ thêm rằng  các mầm mống của diển biến hòa bình đang phát sinh ngay trong nội bộ đảng Cộng sản Trung Quốc. Cũng theo Bạc Nhất Bá , tháng 11 1959, Mao triệu tập một phiên họp Bộ Chính trị thu hẹp để thảo luận về tình hình quốc tế. Trong dịp này Mao ra lịnh thư ký in và phân phối cho các thành viên tham dự phiên họp ba diễn văn quan trọng của Ngoại trưởng Dulles. Ba diễn văn đó gồm Chính sách đối với Viễn đông (Policy for the Far East) đọc tại Phòng Thương Mại California ngày 4 tháng 12, 1958, Bản điều trần trước Ủy Ban Ngoại Giao Hạ Viện Hoa Kỳ ngày 28 tháng Giêng 1958, và bài thuyết trình Vai trò của Luật pháp trong Thời bình” (The Role of Law in Peace) trình bày trước Hội Luật Sư New York ngày 31 tháng Giêng 1959.
Trong bài viết Đế quốc Mỹ, kẻ thù hung bạo nhất của loài người vào ngày 12 tháng Giêng 1964, Mao nhấn mạnh đến sự phát triển của diễn biến hòa bình tại Liên Xô: “Chính sách xâm lược và chiến tranh của chủ nghĩa đế quốc Mỹ đe dọa một cách trầm trọng đến Liên bang Xô Viết, Trung Quốc và các nước xã hội chủ nghĩa khác. Hơn nữa, nó đang mãnh liệt tìm cách đẩy mạnh chính sách “diễn biến hòa bình” tại các nước xã hội chủ nghĩa nhằm mục đích tái lập chủ nghĩa tư bản và làm tan rã phe xã hội chủ nghĩa”. Trong khoảng thời gian từ 1960 đến 1967, Mao tập trung toàn bộ nỗ lực vào việc chống chủ nghĩa xét lại Xô Viết và thanh trừng các phần tử y cho là xét lại trong đảng Cộng sản Trung Hoa, đứng đầu là Thống Chế Bành Đức Hoài. Nhiều nhà phân tích cho rằng “ diễn biến hòa bình” đã đẩy Mao vào các hoạt động thanh trừng nội bộ đẫm máu trong thời gian đó, tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng Mao đã lợi dụng lý do chống diễn biến hòa bình để loại bỏ các phần tử chống y trong bộ chính trị.
Tuy nhiên, áp bức và đấu tranh là hai mặt biện chứng trong quy luật phát triển của xã hội con người. Một chủ nghĩa đi ngược tại đà tiến của văn minh, chà đạp lên giá trị con người chủ nghĩa đó phải sụp đổ. Đúng như John Foster Dulles nhận xét, sau khi các thế hệ cộng sản đam mê làm cách mạng sắt máu ra đi, các thế hệ chuyển tiếp và thứ ba, thứ tư đối diện với gia tài băng hoại về mọi mặt buộc họ hoặc phải thay đổi để duy trì quyền lãnh đạo hay phải chịu sụp đổ không tránh khỏi trước sức phản kháng của nhân dân. Nhiệt tình cách mạng xã hội chủ nghĩa và niềm tin vào một xã hội không giai cấp, làm theo năng lực hưởng theo nhu cầu là những chiếc bong bóng nước sau cơn mưa thời đại. Tuy mức độ nhanh chậm khác nhau, những cải tổ thuận theo hướng phát triển chung của nhân loại đã đồng loạt xảy ra. Nói như nhà bình luận chính trị Á Châu Frank Chinh, lãnh đạo các nước Cộng sản chọn “diễn biến hòa bình theo cách riêng của họ”.
Giống như Mao, Đặng Tiểu Bình lo ngại về “diễn biến hòa bình” nhưng khác Mao, y biết diễn biến là điều không tránh khỏi. Tháng 11/1989, họ Đặng nhận xét về viễn ảnh này: “Các nước Tây phương đang phát động một thế chiến thứ ba không khói súng. Họ muốn tạo ra một diễn biến hòa bình để đưa các nước xã hội chủ nghĩa sang tư bản chủ nghĩa”.  “Đồng chí Giang Trạch Dân và cấp lãnh đạo trong chính phủ của ông, có thể được xem như thuộc thế hệ thứ ba, và sẽ có thế hệ thứ tư, thứ năm. Khi nào thế hệ già như chúng tôi còn sống, sẽ không có thay đổi. Nhưng khi chúng tôi chết hết, ai bảo đảm là sẽ không có diễn biến hòa bình?”. Mặc dù vẫn tiếp tục chống “diễn biến hòa bình”, các chính sách kinh tế, chính trị của Đặng Tiểu Bình và sau đó được Giang Trạch Dân kế tục qua chính sách Ba Đại Diện đã góp phần đẩy mạnh tự diễn biến hòa bình bởi vì như Đặng Tiểu Bình nói “Con người không thể ăn chủ nghĩa xã hội”.
Tại Xô Viết, sau khi Leonid Brezhnev chết ngày 10 tháng 11/982, Yuri Andropov nắm chức Tổng bí thư nhưng chỉ chưa được hai năm cũng chết vì bịnh suy thận giao quyền lại cho Konstantin Chernenko. Lúc đó Konstantin Chernenko đã 71 tuổi và cũng đang bịnh hoạn. Ngày 10 tháng 3/1985, viên tổng bí thư cực đoan bảo thủ này theo gót  Leonid Brezhnev và Yuri Andropov về với Mác. Với sự ủng hộ của Andrey Gromyko, Bộ trưởng Ngoại giao lâu đời nhất trong lịch sử Xô Viết, Mikhail Sergeyevich Gorbachev lên nắm quyền không bị sự cản trở lớn nào. Trong lúc hầu hết các tổng bí thư trước đó sinh ra trước Cách Mạng Cộng sản 1917, Gorbachev sinh ra trong thời Cộng Sản, không mang trong người một dòng lý lịch vào tù ra khám nào và chỉ gia nhập đảng Cộng sản trong thời gian theo học Luật tại Đại Học Moscow. Ở tuổi 54, Gorbachev là ủy viên Bộ Chính trị trẻ tuổi nhất trong lịch sử  đảng Cộng sản Liên Xô. Tháng Giêng 1987, các cải tổ kinh tế (Perestroika) và cởi mở văn hóa chính trị (glasnost) tại Xô Viết bắt đầu. Ngày 26 tháng 11/1991, hệ thống Cộng sản Liên Xô chính thức sụp đổ.
Tại Việt Nam, mặc dầu các ý kiến về Đổi Mới Kinh Tế manh nha từ 1983, các chính sách đổi mới kinh tế mới thật sự bắt đầu tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần VI của Đảng Cộng sản Việt Nam 1986. Tại đại hội này, giới lãnh đạo đảng nhìn nhận các sai lầm kinh tế đã dẫn đến những khủng hoảng trầm trọng và cam kết từng bước thực hiện chính sách đổi mới nhằm theo đuổi “công nghiệp hóa-hiện đại hóa”. Mặc dầu chủ trương đổi mới nhưng thành phần Bộ Chính Trị được bầu ra trong đại hội VI đa số là những người rất cũ và rất bảo thủ như Phạm Hùng, Võ Chí Công, Đỗ Mười, Đồng Sỹ Nguyên, Mai Chí Thọ, v.v…Trong số 13 ủy viên Bộ Chính Trị, chỉ có Trần Xuân Bách chủ trương đổi mới theo mô hình Gorbachev trong đó đổi mới kinh tế phải tiến hành song song với đổi mới chính trị.
Trần Xuân Bách thận thức được sự vận hành của lịch sử. Ông hiểu rằng bài ca chiến thắng buổi sáng 30 tháng Tư/1975 đang trở thành bài ai điếu. Dân tộc Việt Nam đã chịu đựng quá nhiều, hy sinh xương máu quá nhiều. Đổi mới xã hội toàn diện sớm chừng nào tốt cho các thế hệ Việt Nam mai sau chừng đó. Nhưng giữa một đám bảo thủ chỉ biết bám vào chiếc bè quyền lực, quan điểm của Trần Xuân Bách trở nên lạc lõng. Giáo Sư Carl Thayer phát biểu với BBC sau ngày ông Trần Xuân Bách qua đời: “Cuối cùng Việt Nam đi theo con đường của Trung Quốc, nhấn mạnh đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế là lý do người dân cần phải theo đảng. Cải tổ chính trị, theo tôi, thì vô cùng chậm chạp. Và kể từ khi ông Trần Xuân Bách bị sa thải, Việt Nam cũng chẳng đẩy mạnh cải cách chính trị gì cả, và thậm chí số người bất đồng chính kiến có vẻ tăng lên, số vụ hà hiếp họ cũng tăng lên. Do vậy Việt Nam vẫn còn đi sau trong lĩnh vực cải tổ chính trị, và Đảng muốn kiểm soát chặt chẽ tiến trình này.”
Trần Xuân Bách chia sẻ quan điểm với Leonid Abalkinm, cố vấn kinh tế của Gorbachev: “Đổi mới sâu sắc trong quản trị kinh tế không thể thành thực tế nếu không có những thay đổi tương ứng với đổi mới trong chính trị”.
Trong bài phát biểu cuối năm 1989 trước khi bức tường Berlin đã sụp đổ,  Trần Xuân Bách nói về dân chủ: ”Dân chủ không phải là ban ơn, không phải là mở rộng dân chủ (mở rộng). Đó là quyền của dân, với tư cách là người làm nên lịch sử, không phải là ban phát, do tấm lòng của người lãnh đạo này hay người lãnh đạo kia. Thực chất của dân chủ hóa là khơi động trí tuệ của toàn dân tộc để tháo gỡ khó khăn và đưa đất nước đi lên kịp thời đại. Từ hai vấn đề đó, xẩy ra một vấn đề quan hệ giữa đổi mới kinh tế và đổi mới chính trị là thế nào? Có nước tự cho mình không cần đổi mới, đã bị bục vỡ. Có nước coi đổi mới kinh tế phải làm nhanh, còn đổi mới chính trị thì chầm chậm cũng bục chuyện. Có nước chỉ đổi mới kinh tế, không đổi mới chính trị, đã bục to. Có nước làm cả hai, nhưng không nhịp nhàng, gặp khó khăn. Hai lãnh vực này phải nhịp nhàng, không chân trước chân sau, không tấp tểnh đi một chân.”
Cũng vì “tấp tểnh đi một chân” mà sau 25 năm đổi mới, Việt Nam vẫn là một quốc gia nghèo và phát triển chậm so với hầu hết các quốc gia trong vùng như Thái Lan, Malaysia, Indonesia, đừng nói chi là Singapore, Hàn Quốc. Nhìn lại đất nước trong từng lãnh vực, không có thành tựu nào đáng hãnh diện với thế giới. Những gì được gọi là thành quả thật quá nhỏ nhoi so với sự chịu đựng của dân tộc. Trong thống kê 2010 của tổ chức Minh Bạch Quốc Tế (Transparency International), Việt Nam bị xếp vào hàng 116 trong tổng số 178 nước được thăm dò với chỉ số điểm vỏn vẹn 2.7 trên 10, cùng hạng với Ethiopia, Tanzania, Guyana.
Ngoài một xã hội bị tham nhũng đục khoét bên trong, lãnh đạo đảng Cộng sản Việt Nam đang đứng trước nhiều đe doa, cô lập và lợi dụng từ bên ngoài. Mâu thuẫn giữa các quốc gia có quyền lợi kinh tế trong vùng biển Đông ngày càng gay gắt và không sớm thì muộn cũng sẽ dẫn đến chiến tranh trong khu vực. Và nếu đúng như vậy, giới lãnh đạo Cộng sản Việt Nam sẽ làm gì để bảo vệ được chủ quyền đất nước hay lại một lần nữa ném dân tộc vốn đã quá lầm than vào lò thiêu của tham vọng ngoại bang?
Từ Neville Chamberlain đến Richard Nixon, từ Franklin Roosevelt đến Herbert W. Bush, lịch sử nhân loại để lại vô số bài học về tham vọng đế quốc và số phận bất hạnh của các quốc gia nhược tiểu. Vì quyền lợi của đất nước, các cường quốc sẵn sàng bỏ rơi hay bán đứng đồng minh như Anh đã làm với Tiệp Khắc tại Munich 1938, Anh và Mỹ đã làm với Ba Lan tại Yalta 1944, Mỹ đã làm với Việt Nam Cộng Hòa tại hội nghị Paris 1973, hoặc phó mặc sinh mạng của những người đứng lên vì khát vọng tự do dân chủ làm mồi cho đoàn kên kên Xô Viết như trường hợp Hungary 1956, Tiệp Khắc 1968.
Tháng 4, 2006, Bộ trưởng Ngoại Giao CSVN Nguyễn Dy Niên, trong cuộc phỏng vấn dành cho báo chí trong nước đã phát biểu về diễn biến hòa bình: “Trong các văn kiện của Đảng chúng tôi cũng như trên các phương tiện thông tin đại chúng, nhiều học giả VN và nhà báo cũng đã nói đến diễn biến hòa bình. Đây không phải suy diễn mà là hiện tượng thực tế mà VN nhìn nhận. VN đang cố gắng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa do dân, vì dân để người dân thực sự dân chủ. Tôi nghĩ là 4 nguy cơ VN đề ra, mà đẩy lùi được thì sẽ tăng được sự phát triển, nâng cao được Tòa Soạn. Việc xây dựng nhà nước pháp quyền, đẩy lùi tham nhũng thành công, theo tôi, sẽ là biện pháp ngăn chặn diễn biến hòa bình”. Khi được hỏi tiếp, ai là kiến trúc sư của “Diễn biến hòa bình”, Nguyễn Duy Niên thoái thác: “Có lẽ chúng ta không nên nói ai là kiến trúc sư mà chỉ nói những vấn đề mà VN phải xử lý. Đó là thách thức phải đối mặt và xử lý thế nào để vẫn giữ được bản sắc dân tộc và độc lập tự chủ của chế độ…”.
Câu trả lời của Nguyễn Dy Niên cho thấy, giới lãnh đạo Cộng sản Đảng Cộng sản thừa nhận có diễn biến hòa bình và đang chiến đấu trong tuyệt vọng để ngăn chận tiến trình này bằng các chính sách tự diễn biến nhằm “xây dựng nhà nước pháp quyền, đẩy lùi tham nhũng”. Thế nhưng, tình trạng tham nhũng chỉ là hiện tượng chứ không phải là bản chất của xã hôi. Tham nhũng tại Việt Nam có tính đảng và ngày nào các cơ chế tạo điều kiện cho tham nhũng hình thành và phát triển còn tồn tại, tham nhũng sẽ không bị xóa bỏ tận gốc.
Một mặt đảng tiếp tục nhồi sọ sinh viên học sinh những mớ lý thuyết Mác Lê lạc hậu lỗi thời nhưng mặt khác tự diễn biến hòa bình để kéo dài sự sống. Trong dịp mừng sinh nhật Hồ Chí Minh 2010, Lê Hùng Nghĩa, trong phát biểu tại Học Viện Ngoại Giao, nhắc lại ngay từ năm 1946, trong đơn thỉnh nguyện Liên Hiệp Quốc ủng hộ Việt Nam vừa độc lập, ông Hồ đã viết “Việt Nam thu xếp các điều kiện ưu đãi đối với các nguồn đầu tư tư bản từ các nước”. Hồ Chí Minh, từ một “người Cộng sản quốc tế kiên cường” được diễn biến hòa bình sang một “nhà tư tưởng dân tộc” và hôm nay tiếp tục được diễn biến thành một nhà chủ trương tư bản hóa Việt Nam. Những năm tới sẽ là gì nữa?
Dù đã tìm mọi cách để bảo vệ “độc lập tự chủ của chế độ” như Nguyễn Dy Niên nói, hơn ai hết giới lãnh đạo Đảng biết không thể nào ngăn chận được bước chân của người khổng lồ cách mạng dân chủ đang sừng sững tới. Đến nhanh hay chậm, đến trong bối cảnh đầy máu mủ hay êm đẹp tùy thuộc vào điều kiện chính trị, lịch sử của mỗi quốc gia nhưng tự do dân chủ là tiến trình không thể nào lui. Bởi vì, diễn biến hòa bình không phải là ”chiến lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế” hay “phương thức, thủ đoạn mới để chống phá, đẩy lùi và đi đến xoá bỏ chủ nghĩa xã hội”, nhưng là một bước phát triển có tính quy luật của văn minh nhân loại. Tiến trình dân chủ hóa đã diễn ra tại Liên Xô, Đông Âu, các quốc gia độc tài Bắc Phi, và sẽ đến Việt Nam.
Dòng tiến hóa của con người  là một dòng sông không ngừng chảy. Từ giai đoạn sơ khai trên thượng nguồn Hy Lạp xa xôi, con người đang bước một sang giai đoạn thật sự làm chủ lấy mình. Các chế độ phong kiến hà khắc đã chìm sâu trong quá khứ, các chủ thuyết phi nhân đang bị xóa bỏ, các chế độ độc tài sắc máu lần lượt ra đi,. Theo tổ chức Freedom House, hiện nay có 117 trong số 191 quốc gia trên thế giới sống trong chế độ dân chủ, tuy mức độ còn ít nhiều khác nhau. Có quốc gia không may mắn phải đổ nhiều xương máu  nhưng cũng có quốc gia may mắn, cách mạng đã diễn ra trong hòa bình. Cách mạng dân chủ tại Nam Phi 1994 và Nam Dương 1998 là hai bài học đáng lưu ý.
Năm 1974, lãnh tụ đảng Đoàn Kết Nam Phi Harry Schwarz và lãnh tụ da đen Mangosuthu Buthelezi cùng chia sẻ một nhận thức rằng chế độ phân biệt chủng tộc Nam Phi phải chấm dứt và việc giải thế độ phân biệt chủng tộc tại Nam Phi là bước cần thiết đầu tiên để hòa giải quốc gia và xây dựng chế độ dân chủ Nam Phi. Hai nhà chính trị sáng suốt này đã ký kết một văn kiện lịch sử được gọi là Mahlabatini Declaration of Faith tại Mahlabatini, KwaZulu-Natal ngày 4 tháng Giêng/1974. Nội dung chính của văn kiện kêu gọi nhân dân Nam Phi thuộc mọi màu da, bộ lạc, đảng phái phải ngồi lại tìm một hướng đi tốt đẹp lâu dài cho đất nước, cùng soạn thảo một hiến pháp nhấn mạnh đến việc tôn trọng các quyền tự do căn bản của con người, nhưng quan trọng nhất văn kiện nhấn mạnh rằng các mục tiêu nêu trên phải diễn ra trong hòa bình. Sau giai đoạn hai mươi năm đầy khó khăn, thử thách cho đất nước và cho cả hai lãnh tụ, cuối cùng 1994, nhân dân Nam Phi đã thực hiện cuộc bầu cử dân chủ đầu tiên.
Tại Nam Dương, sau 32 năm độc tài tướng Suharto đã buộc phải từ chức 1998. Nam Dương cần sáu năm và ba lần bầu cử để từng bước ổn định quốc gia. Theo giáo sư Ik rarnua Bhaki, tác giả của nghiên cứu “Chuyển tiếp đến dân chủ tại Nam Dương: Những vấn đề còn tồn đọng” ( The transition to democracy in Indonesia: some outstanding problems) trong thời gian năm năm sau khi Suharto bị hạ bệ, Indonesia có ba tổng thống B.J. Habibie, Abdurrahman Wahid, and Megawati Sukarnoputri, nhưng tất cả số đó đã được bầu lên hợp với các nguyên tắc dân chủ. Đại đa số dân chúng được hưởng các quyền tự do phát biểu, tự do thông tin, các quyền kiểm soát lẫn nhau giữa hành pháp và lập pháp được tôn trọng, và phi chính trị hóa các lực lượng võ trang. Mặc dù tiến trình dân chủ tại Nam Dương khó khăn hơn các quốc gia khác bởi vì không chỉ đương đầu với tàn dư của cơ chế độc tài mà còn phải vượt qua các trở lực cực đoan tôn giáo, các sinh hoạt dân chủ tại Nam Dương đã được cải thiện rất nhiều. Theo giáo sư Larry Diamond, đại học Stanford, trong một thống kê, trong mức thang từ 1 đến 10, với 1 tệ hại nhất và 10 là dân chủ nhất, những người dân Nam Dương tham dự thống kê đã trả lời 7, tức một mức độ dân chủ đáng ca ngợi.
Giới lãnh đạo đảng Cộng Sản Việt Nam tiếp tục kết án “diễn biến hòa bình” nhưng họ quên rằng sự hiểu biết của người là nguồn thúc đẩy cho các thay đổi xã hội. Thời kỳ tẩy não con người bằng các lý thuyết Mác Lê đã không còn tác dụng. Nếu trước đây sự ngu dốt là bạn đường của chủ nghĩa Cộng sản thì ngày nay trình độ dân trí cao là kẻ thù không đội trời chung.
Tác giả Archie Brown, giáo sư chính trị học đại học Oxford, Anh quốc, trong tác phẩm Sự vươn lên và sụp đổ của chủ nghĩa Cộng sản (The Rise And Fall Of Communism) phát hành lần đầu 2009 đã nêu ra 8 lý do khiến chủ nghĩa Cộng sản sụp đổ, trong đó lý do hàng đầu không phải là kinh tế hay quân sự mà  là sự thay đổi xã hội (Social Change). Theo giáo sư Archie Brown , năm 1939 tại Nga chỉ 11 phần trăm dân số học xong bậc tiểu học nhưng đến 1984 tỉ lệ đó đã tăng đến 87 phần trăm. Năm 1954 chỉ có 1 phần trăm dân số Liên Xô tốt nghiệp đại học nhưng đến 1984, tỉ lệ đó đã tăng gấp 7 lần. Trình độ giáo dục giúp cho người dân không những có khuynh hướng muốn tìm hiểu những gì khác hơn mà còn có ý nghi ngờ và từ chôi các kiến thức họ được chế độ trang bị. Sự chuyển hóa tri thức là một tiến trình không thể bị ngăn chận bởi bất cứ một cơ chế độc tài nào.
Tương tự tại Việt Nam, cách đây 50 năm tại miền Bắc, nhiều người thật sự tin rằng đảng Cộng sản và dân tộc Việt Nam như nước với sữa, như máu với thịt, hay như Hồ Chí Minh nói “đảng là con nòi của dân tộc”. Cách đây 36 năm không ít người đã bừng tỉnh và nhận ra rằng chỉ vì  mục đích Cộng sản hóa Việt Nam Đảng đã phản bội dân tộc, lợi dụng máu xương của những người ngã xuống vì khát vọng hòa bình, vì mơ ước đoàn viên, vì cơm no áo ấm. Và hôm nay, đông đảo nhân dân đã hiểu rõ cơ chế độc tài là trở lực duy nhất trên con đường dẫn đến một Việt Nam tự do, dân chủ, văn minh. Cuộc cách mạng dân tộc dân chủ toàn diện và triệt để tại Việt Nam chỉ là vấn đề thời gian.
Một sai lầm quen thuộc của các nhà độc tài là đánh giá thấp phản ứng của nhân dân và nghĩ rằng họ có thể duy trì bộ máy cai trị bằng bạo lực mà không cần thay đổi. Từ nhiều năm nay, Đảng Cộng Sản Việt Nam dựa vào tầng lớp bồi bút để binh vực phần lý luận, dựa bộ máy quân đội, công an để trấn áp đồng bào. Thế nhưng, đảng Cộng sản Liên Xô từng có cả một viện hàn lâm chuyên tập trung nghiên cứu lý luận Cộng Sản, Đông Đức có những binh đoàn được trang bị vũ khí hiện đại hơn quân đội Cộng Sản Việt Nam và Cơ quan Bảo vệ Nhà nước (The State Protection Authority) trực thuộc Trung ương đảng Cộng sản Hungary còn tinh vi  hơn cả các cơ quan an ninh Việt Nam, và tất cả đều không cứu được đảng.
Bộ máy tuyên truyền của đảng luôn nhấn mạnh “Công an và Quân đội là hai cánh tay của nhân dân, của Đảng” nhưng như cựu Thiếu tướng Nguyễn Trọng Vĩnh phát biểu “Tôi đã từng nói: con giun xéo lắm phải quằn. Càng đàn áp thì phẫn nộ càng tăng và càng lan rộng. Có thể đến một lúc là không kiểm soát được”. Thật vậy, ngoài một số rất nhỏ cam phận cầm cờ khiêng kiệu, đại đa số những người lính, những công an Việt Nam vẫn là những thanh niên mang trong người dòng máu Việt Nam. Hầu hết sinh ra sau cuộc chiến, lớn lên trong cảnh đói nghèo, có nước mắt để khóc cho những đồng bào bị hải quân Trung Quốc bắn thủng ngực, có trái tim để biết hờn căm khi nhìn những hải đảo nhuộm bằng máu của ông cha nằm đang trong tay giặt, có niềm tự hào dân tộc để biết đứng lên bảo vệ chủ quyền lãnh thổ, có lòng tự trọng để biết tủi nhục khi phải đứng canh giấc ngủ cho các ủy viên trung ương bên ngoài những biệt thự cao sang xây bằng xương máu nhân dân.
Các cuộc biểu tình chống Trung Quốc vừa qua, tuy vẫn còn giới hạn nhưng đã có sự tham dự của nhiều thành phần dân tộc. Họ khác nhau về quá khứ  nhưng rõ ràng đang hướng đến một tương lai. Đó là tương lai tự do dân chủ cho dân tộc Việt Nam. Không có con đường nào khác. Không có chọn lựa nào khác. Tự do dân chủ là vũ khí để đánh bại âm mưu bành trướng của Trung Quốc, là cánh cửa mở ra chân trời thịnh vượng cho nhiều thế hệ Việt Nam tương lai. Dân chủ không phải là một khái niệm tây phương, là sản phầm của “diễn biến hòa bình”, một “âm mưu đế quốc” mà là quyền của con người được sống, được tự do đi lại, tự do phát biểu, được quyền bầu cử người đại diện cho mình trong các cơ quan nhà nước.
Giá trị của một con người được thẩm định không phải ở chỗ người đó bị té ngã nhưng ở chỗ người đó biết đứng lên và đi tới. Dân tộc Việt Nam cũng thế, sau nhiều lần bị té ngã đang cố gắng đứng lên và đi tới cùng nhân loại. Không bằng  những nhát búa của thanh niên Đông Đức khi đập võ bức tường Bá Linh hay những chiếc kèm của thanh niên Hungary khi cắt đứt hàng rào biên giới Áo Hung, nhưng bằng những giọt nước kiên trì của các thế hệ Việt Nam yêu nước, thành trì độc tài Cộng Sản sẽ bị xói mòn và tan vỡ. ●
© 2011 Trần Trung Đạo

Chăn Gối với Kẻ Thù


24/12/2011 lúc 14:07 | #1
Đây là bài viết của Senator James Webb :
Thượng Nghị Sĩ James Webb từng tham chiến tại VietNam, trước khi là Thượng Nghị Sĩ , Ông là Bộ Trưỡng Hải Quân Hoa Kỳ.
Ông đã và đang chung sống cùng gia đình mười mấy năm nay với người vợ VietNam là Kỹ Sư Lê Thị Hồng tại Washington DC
Một bài viết hay và nhận định rất chân thật , nên đọc để biết
Chăn Gối với Kẻ Thù
Sleeping With the Enemy
Xin mời quí vị đọc một bài viết của một cựu Sĩ Quan Hoa Kỳ đã tửng chiến đấu trên chiến trường Việt Nam, cựu Bộ Trưởng Hải Quân Hoa Kỳ và hiện là Thượng Nghị Sĩ Liên Bang của Hoa Kỳ. Quan điểm về cuộc chiến Việt Nam . Thú thật, cho đến bây giờ mới thấy một người Mỹ trí thức có đầy đủ hiểu biết về cuộc chiến Việt Nam đã viết một bài chân thật, rất đáng kính trọng và rất đáng đưa vào lịch sử của Hoa Kỳ để cho con cháu Hoa Kỳ được hiểu rõ hơn cuộc chiến Việt Nam mà trước đây những kẻ viết lịch sử Hoa Kỳ đã thiếu dữ kiện sống để viết. THG
Sleeping With the Enemy
By James Webb
Biết giải thích như thế nào với những đứa con của tôi rằng khi tôi mười mấy, đôi mươi, những tiếng nói ồn ào nhất của những người cùng tuổi, cùng thời với tôi lại nhắm mục đích phá nát những nền tảng của xã hội Hoa Kỳ, để xây dựng lại một xã hội dựa theo quan điểm đầy tự mãn của họ. Giờ đây nhìn lại, ngay cả chúng ta, những người đã trải qua giai đoạn này, cũng không hiểu được tại sao lại có những kẻ với trình độ học vấn cao, đa số sinh ra từ gia đình thượng lưu, lại có thể gieo rắc những tư tưởng phá hoại làm nhiễm độc bầu không khí của thập niên 1960 và những năm đầu của thập niên 1970. Ngay cả Quốc Hội cũng bị nhiễm những con vi khuẩn nầy.
Sau khi Tổng Thống Nixon từ chức vào tháng Tám 1974, cuộc bầu cử mùa Thu năm ấy mang lại 76 tân Dân Biểu thuộc đảng Dân Chủ và 8 Thượng Nghị Sĩ. Đại đa số những dân cử chân ướt, chân ráo này đã tranh cử dựa trên cương lãnh của Mc Govern. Nhiều người trong số họ được xem như những ứng viên yếu kém trước khi Nixon từ chức, vài người không xứng đáng thấy rõ, chẳng hạn như Tom Downey, 26 tuổi, thuộc New York, người chưa từng có một nghề ngỗng gì và vẫn còn ở nhà với mẹ.
Cái gọi là Quốc Hội hậu Watergate này diễu hành vào thành phố với một sứ mệnh vô cùng quan trọng mà sau này trở thành điểm tập hợp cho cánh Tả của Hoa Kỳ: Chấm dứt sự giúp đỡ của nước Mỹ dưới bất kỳ hình thức nào cho chính quyền đang bị vây khốn Nam Việt Nam. Không nên lầm lẫn ở chỗ này – đây không phải là sự kêu gào thanh niên Mỹ đừng đi vào cõi chết của những năm trước đây. Những người lính Mỹ cuối cùng đã rời khỏi Việt Nam hai năm trước rồi, và đã tròn bốn năm không có một người Mỹ nào bị tử trận.
Bởi những lý do mà không một viện dẫn lịch sử nào có thể bào chữa được, ngay cả sau khi quân đội Mỹ triệt thoái, cánh Tả vẫn tiếp tục những cố gắng để đánh gục nền Dân Chủ còn phôi thai của Nam Việt Nam. Phụ tá sau này của Nhà Trắng Harold Ickes và nhiều người khác trong “Chiến Dịch Kiểm Soát Tài Chánh” – có một lúc được giúp đỡ bởi một người tuổi trẻ nhiều tham vọng: Bill Clinton – làm việc để cắt toàn bộ những khoản tài trợ của Quốc Hội nhằm giúp miền Nam Việt Nam tự bảo vệ. Liên Hiệp Hoà Bình Đông Dương, điều hành bởi David Dellinger và được quảng bá bởi Jane Fonda và Tom Hayden, phối hợp chặt chẽ với Hà Nội suốt năm 1973 và 1974, đi khắp các khuôn viên đại học Mỹ, tập hợp sinh viên để chống lại điều được cho là những con ác quỷ trong chánh quyền Nam Việt Nam. Những đồng minh của họ trong Quốc Hội liên tục thêm vào những tu chính án để chấm dứt sự viện trợ của Hoa Kỳ cho những người Việt Nam chống Cộng Sản, ngăn cấm cả đến việc sử dụng không lực để giúp những chiến binh Nam Việt Nam đang bị tấn công bởi các đơn vị bộ đội chánh quy Bắc Việt được khối Sô Viết và Trung Cộng yểm trợ.
Rồi đến đầu năm 1975 Quốc Hội Watergate giáng một đơn chí tử xuống các nước Đông Dương không Cộng Sản. Tân Quốc Hội lạnh như băng từ chối lời yêu cầu gia tăng quân viện cho miền Nam Việt Nam và Cam Bốt của Tổng Thống Gerald Ford. Ngân khoản dành riêng này sẽ cung cấp cho quân đội Cam Bốt và Nam Việt Nam đạn dược, phụ tùng thay thế, và vũ khí chiến thuật cần thiết để tiếp tục cuộc chiến tự vệ. Bất chấp sự kiện là Hiệp Định Paris 1973 đặc biệt đòi hỏi phải cung cấp “viện trợ để thay thế trang thiết bị quân sự vô giới hạn” cho Nam Việt Nam, đến tháng Ba phe Dân Chủ trong Quốc Hội biểu quyết với tỷ số áp đảo, 189-49, chống lại bất kỳ viện trợ quân sự bổ sung cho Nam Việt Nam và Cam Bốt.
Trong các cuộc tranh luận, luận điệu của phe Tả phản chiến gồm toàn những lời lên án các đồng minh đang bị chiến tranh tàn phá của Hoa Kỳ. Và đầy những hứa hẹn về một tương lai tốt đẹp cho các quốc gia này dưới sự cai trị của chế độ Cộng Sản. Rồi dân biểu Christopher Dodd, tiêu biểu cho sự ngây thơ hết thuốc chữa của các đồng viện, lên giọng đầy điệu bộ “gọi chế độ Lon Nol là đồng minh là làm nhục chữ nghĩa… Tặng vật lớn nhất mà đất nước chúng ta có thể trao cho nhân dân Cam Bốt là hòa bình, không phải súng. Và cách tốt nhất để đạt được mục đích này là chấm dứt viện trợ quân sự ngay lập tức.”
Sau khi trở thành chuyên gia đối ngoại trong vòng chỉ có hai tháng kể từ lúc thôi bú mẹ, Tom Downey chế diễu những cảnh cáo về tội ác diệt chủng sắp sửa xảy ra ở Cam Bốt, cái tội ác đã giết hơn một phần ba dân số của quốc gia này, như sau: “Chính phủ cảnh cáo rằng nếu chúng ta rời bỏ các quốc gia ấy thì sẽ có tắm máu. Nhưng những cảnh cáo cho việc tắm máu trong tương lai không thể biện minh cho việc kéo dài việc tắm máu hiện nay.”
Trên chiến trường Việt Nam việc chấm dứt viện trợ quân trang, quân cụ là một tin làm kinh ngạc và bất ngờ. Các cấp chỉ huy quân đội của miền Nam Việt Nam đã được đảm bảo về việc viện trợ trang thiết bị khi người Mỹ rút quân – tương tự như những viện trợ Hoa Kỳ vẫn dành cho Nam Hàn và Tây Đức – và đảm bảo rằng Hoa Kỳ sẽ tái oanh tạc Bắc Việt, nếu Bắc Việt tấn công miền Nam, vi phạm hiệp định Paris 1973. Bây giờ thì họ đang mở mắt trừng trừng nhìn vào một tương lai bất định khủng khiếp, trong lúc khối Sô Viết và Trung Cộng vẫn tiếp tục yểm trợ cho Cộng Sản Bắc Việt.
Trong lúc quân đội Nam Việt Nam, vừa choáng váng vừa mất tinh thần, tìm cách điều chỉnh lại lực lượng để đối phó với những sự thiếu thốn trang thiết bị cần thiết, quân đội chính quy miền Bắc được tái trang bị đầy đủ lập tức phát động cuộc tổng tấn công. Bắt giữ được nhiều đơn vị bị cô lập, quân Bắc Việt tràn xuống vùng đồng bằng trong vòng có 55 ngày.
Những năm về sau, tôi đã phỏng vấn những người lính miền Nam Việt Nam còn sống sót trong những cuộc giao tranh, nhiều người đã bị trải qua hơn chục năm trong các trại tù tập trung của Cộng Sản sau khi cuộc chiến chấm dứt. Những điệp khúc này không bao giờ chấm dứt:
– “Tôi không còn đạn dược.”
– “Tôi chỉ còn 3 quả đạn pháo cho mỗi khẩu một ngày.”
– “Tôi không còn gì để phát cho binh sĩ của tôi.”
– “Tôi phải tắt máy truyền tin, bởi vì tôi không thể nào chịu đựng được nữa khi phải nghe những lời kêu gọi xin tiếp viện.”
Phản ứng của Hoa Kỳ trước sự xụp đổ này cho thấy có hai nhóm khác nhau, và điều này vẫn còn tiếp tục được thấy rõ trong nhiều vấn để mà chúng ta đang phải đương đầu ngày nay. Đối với những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam, và đối với gia đình, bạn bè, và những người cùng quan điểm chánh trị với họ, đây là là một tháng đen tối và tuyệt vọng.
Những khuôn mặt mà chúng ta thấy đang chạy trốn sự tấn công của Bắc Việt là những khuôn mặt rất thật và quen thuộc, không phải đơn thuần là những hình ảnh truyền hình. Những thân người xoay trong không gian như những bông tuyết, rơi xuống chết thảm khốc sau khi họ đeo và bám vào thân trực thăng hay phi cơ một cách tuyệt vọng, có thể là những người chúng ta quen biết hoặc đã từng giúp đỡ. Ngay cả đối với những kẻ không còn niềm tin vào khả năng đánh bại Cộng Sản, đây không phải là cách để chấm dứt cuộc chiến.
Đối với những kẻ từng trốn tránh cuộc chiến và lớn lên tin rằng đất nước chúng ta là quỷ dữ, và ngay cả khi họ thơ mộng hoá những ý định của người Cộng Sản, những tuần lễ sau cùng này đã chối bỏ trách nhiệm của mình trong sự xụp đổ này bằng những phê phán quân đội Nam Việt Nam đầy tính sa lông, hay là công khai reo mừng.
Ở trung tâm Luật Khoa của đại học Georgetown nơi tôi đang theo học, việc Bắc Việt trắng trợn ném bỏ các điều cam kết về hòa bình và bầu cử trong hiệp định Paris 1973, và tiếng xe tăng của Bắc Việt trên đường phố Sài Gòn được xem như là một cái cớ để thực sự ăn mừng.
Sự chối bỏ trách nhiệm vẫn còn tràn lan trong năm 1997. Thực ra cái kết cuộc này chính là mục tiêu của phong trào phản chiến đã cố gắng không ngừng nghỉ trong những năm theo sau sự rút quân của Mỹ. George McGovern, thẳng thắn hơn nhiều người, công khai tuyên bố với người viết trong lúc nghỉ khi thâu hình cho chương trình “Crossfire” của CNN vào năm 1995. Sau khi tôi đã lý luận rằng cuộc chiến rõ ràng là có thể thắng được ngay cả vào giai đoạn cuối nếu chúng ta thay đổi chiến lược của mình, ứng cử viên Tổng Thống năm 1972, người tình nguyện đi Hà Nội bằng đầu gối, đã bình luận rằng: “Anh không hiểu là tôi KHÔNG MUỐN chúng ta chiến thắng cuộc chiến đó sao?” Ông McGovern không chỉ có một mình. Ông ta là phần tử của một nhóm nhỏ, nhưng vô cùng có ảnh hưởng lớn trong chính trường. Sau cùng họ đã đạt được điều họ muốn.
Có lẽ không còn minh chứng nào lớn hơn cho không khí hân hoan chung quanh chiến thắng của Cộng Sản là giải thưởng điện ảnh năm 1975, được tổ chức vào ngày 8 tháng 4, ba tuần trước khi miền Nam xụp đổ.
Giải phim tài liệu hay nhất được trao cho phim Hearts and Minds, một phim tuyên truyền độc ác tấn công những giá trị văn hóa Hoa Kỳ cũng như những cố gắng của chúng ta để hỗ trợ cho sự chiến đấu cho nền Dân Chủ của miền Nam Việt Nam. Các nhà sản xuất Peter Davis và Bert Schneider (người thủ diễn một vai trong câu chuyện của David Horowitz) cùng nhau nhận giải Oscar. Schneider thẳng thừng trong việc công nhận sự ủng hộ những người Cộng Sản của mình.
Đứng trước máy vi âm ông ta nói:
– “Thật là ngược đời khi chúng ta đang ở đây, vào thời điểm mà Việt Nam sắp được giải phóng.”
Rồi giây phút đáng kinh ngạc nhất của Hollywood xảy ra – dù giờ đây đã được họ cố tình quên đi. Trong lúc quốc gia Việt Nam, mà nhiều người Mỹ đã đổ máu và nước mắt để bảo vệ, đang tan biến dưới bánh xích của xe tăng, Schneider lôi ra một điện tín được gởi từ kẻ thù của chúng ta, đoàn đại biểu Cộng Sản Việt Nam ở Paris, và đọc to lên lời chúc mừng cho phim của mình. Không một phút giây do dự, những kẻ nhiều quyền lực nhất của Hollywood đứng dậy hoan nghênh việc Schneider đọc bức điện tín này.
Chúng ta, những người đã từng chiến đấu ở Việt Nam hoặc là những người ủng hộ những cố gắng ở đó, nhìn lại cái khoảnh khắc này của năm 1975 với sự sửng sốt không nguôi và không bao giờ quên được. Họ là ai mà cuồng nhiệt đến thế để đầu độc cái nhìn của thế giới về chúng ta? Sao họ lại có thể chống lại chính những người đồng hương của mình một cách dữ tợn đến thế? Sao họ có thể đứng dậy để hoan nghênh chiến thắng của kẻ thù Cộng Sản, kẻ đã làm thiệt mạng 58,000 người Mỹ và đè bẹp một đồng minh chủ trương ủng hộ Dân Chủ? Làm sao có thể nói rằng chúng ta và họ đang sống trong cùng một đất nước?
Từ lúc ấy đến nay, không một lời nào của Hollywood nói về số phận của những con người biến mất sau bức màn tre của Việt Nam . Không ai đề cập đến những trại tù tập trung cải tạo mà hàng triệu chiến binh miền Nam Việt Nam đã bị giam giữ, 56,000 người đã thiệt mạng, 250,000 bị giam hơn 6 năm, nhiều người bị giam đến 18 năm. Không người nào chỉ trích việc cưỡng bách di dân, tham nhũng, đàn áp những người bất đồng chính kiến, cướp đất, cướp nhà của dân hay là chế độ Công An trị mà hiện vẫn còn đang tiếp diễn. Thêm vào đó, ngoại trừ phim Hamburger Hill có ý tốt nhưng kém về nghệ thuật, người ta chỉ hoài công nếu muốn tìm một phim thuộc loại có tầm vóc diễn tả các chiến binh Hoa Kỳ ở Việt Nam với đầy đủ danh dự và trong những khung cảnh có thật.
Tại sao? Bởi vì cộng đồng làm phim, cũng như những kẻ thuộc loại đỉnh cao trí tuệ trong xã hội, chưa bao giờ yêu thương, kính phục, hay ngay cả thông cảm với những con người đã nghe theo tiếng gọi của đất nước, lên đường phục vụ. Và vào lúc mà một cuộc chiến âm thầm nhưng không ngừng nghỉ đang diễn ra về việc lịch sử sẽ ghi nhớ đất nước chúng ta tham dự ở Việt Nam như thế nào? Những kẻ chế diễu chính sách của chính quyền, trốn lính, và tích cực ủng hộ kẻ thù, cái kẻ thù mà sau cùng trở nên tàn độc và thối nát, không muốn được nhớ đến như là những kẻ quá đỗi ngây thơ và lầm lẫn.
Giữa những người dân Mỹ bình thường, thái độ của họ trong khoảng thời gian rối ren này lành mạnh hơn nhiều. Đằng sau những tin tức bị thanh lọc và những bóp méo về Việt Nam, thực tế là những công dân của chúng ta đồng ý với chúng ta, những người đang chiến đấu, hơn là với những kẻ làm suy yếu cuộc chiến đấu này. Khá thú vị là điều nầy đặc biệt đúng với tuổi trẻ Mỹ, mà giờ đây vẫn còn được mô tả như là thành phần nổi loạn chống chiến tranh.
Như được tường trình lại trong bài: “Ý Kiến Quần Chúng”, những kết quả thăm dò của Gallup từ năm 1966 cho đến khi Hoa Kỳ chấm dứt sự tham dự chiến tranh ỏ Việt Nam cho thấy tuổi trẻ Mỹ thực ra ủng hộ cuộc chiến Việt Nam lâu bền hơn bất cứ lứa tuổi khác. Ngay cả cho đến tháng 1 năm 1973, khi 68 phần trăm dân Mỹ trên 50 tuổi tin rằng chuyện gởi quân sang Việt Nam là một sai lầm, chỉ có 49 phần trăm những người tuổi từ 25 đến 29 đồng ý. Những phát hiện này cho thấy giới trẻ nói chung rõ ràng là không cực đoan, điều này đã được củng cố thêm bằng kết quả bầu cử năm 1972 – trong đó lứa tuổi từ 18 đến 29 ưa thích Richard Nixon hơn là George McGovern bằng tỷ lệ 52% so với 46 phần trăm.
Tương tự như vậy, mặc dù trong quá khứ những người chống đối này, mà ngày nay đang thống lãnh giới báo chí và giới khoa bảng, đã khăng khăng nói ngược với thực tế, sự xâm nhập vào Cam Bốt năm 1970 đã được ủng hộ quần chúng mạnh mẽ. Sự xâm nhập này đã gây ra sự phản đối rộng khắp ở các sân trường đại học, kể cả một vụ xung đột làm cho bốn người chết ở Kent State University . Theo những kết quả thăm dò dư luận của Harris gần 6 phần 10 dân Mỹ tin rằng sự xâm nhập vào Cam Bốt là đúng đắn. Đa số được hỏi ý kiến, trong cùng bản thăm dò này vào tháng 5 năm 1970, ủng hộ tái oanh tạc Bắc Việt, một thái độ cho thấy sự bác bỏ hoàn toàn phong trào phản chiến.
Các cựu chiến binh Việt Nam, dù bị bôi bẩn thường xuyên trên phim ảnh, trong các bản tin, và trong các lớp học, như là những chiến binh miễn cưỡng và thất bại, vẫn được những người dân Mỹ bình thường tôn trọng. Trong một nghiên cứu toàn diện nhất từ trước đến giờ về những cựu chiến binh Việt Nam (Harris Survey, 1980, ủy quyền bởi Veterans Administration) , 73 phần trăm công chúng và 89 phần trăm cựu chiến binh Việt Nam đồng ý với câu phát biểu: “Vấn đề rắc rối ở Việt Nam là QUÂN ĐỘI CHÚNG TA ĐƯỢC YÊU CẦU CHIẾN ĐẤU TRONG MỘT CUỘC CHIẾN MÀ CÁC LÃNH TỤ CHÍNH TRỊ Ở WASHINGTON KHÔNG CHO HỌ ĐƯỢC PHÉP CHIẾN THẮNG”, 70 phần trăm những người từng chiến đấu ở Việt Nam không đồng ý với câu phát biểu: “Những gì chúng ta gây ra cho nhân dân Việt Nam thật đáng xấu hổ.” Trọn 91 phần trăm những người đã từng phục vụ chiến đấu ở Việt Nam nói rằng họ hãnh diện đã phục vụ đất nước, và 74 phần trăm nói rằng họ thấy thoải mái với thời gian ở trong quân đội. Hơn nữa, 71 phần trăm những người phát biểu ý kiến cho thấy họ sẵn sàng chiến đấu ở Việt Nam một lần nữa, ngay cả nếu biết rằng cái kết quả chung cuộc vẫn như thế và sự giễu cợt sẽ đổ lên đầu họ khi họ trở về.
Bản thăm dò này còn có cái gọi là “nhiệt kế đo cảm giác,” để đo lường thái độ của công chúng đối với những nhóm người khác nhau, với thang điếm từ 1 đến 10. Cựu chiến binh từng phục vụ ở Việt Nam được chấm điểm 9.8 trên thang điểm này. Bác sĩ được 7.9, phóng viên truyền hình 6.1, chánh trị gia 5.2, những người biểu tình chống chiến tranh 5.0, kẻ trốn quân dịch và chạy sang Canada được cho 3.3.
Trái ngược với những câu chuyện huyền thoại được dai dẳng phổ biến, hai phần ba những người phục vụ ở Việt Nam là quân tình nguyện chứ không phải bị động viên, và 77 phần trăm những người tử trận là quân tình nguyện. Trong số những người tử trận: 86 phần trăm là da trắng, 12.5 phần trăm người Mỹ gốc Phi Châu và 1.2 phần trăm thuộc các chủng tộc khác. Những cáo buộc rất phổ biến như là chỉ có dân thuộc các nhóm thiểu số và người nghèo được giao cho những công tác khó khăn trong quân đội khi ở Việt Nam là điều sai lạc. Sự bất quân bình trong cuộc chiến, thực ra chỉ đơn giản là do những thành phần đặc quyền đặc lợi trốn tránh trách nhiệm của mình, và chính những người này kể từ thời gian ấy đã kiên trì bôi bẩn những kinh nghiệm về cuộc chiến để nhằm tự bào chữa cho chính mình, phòng khi sau này sẽ bị lịch sử phán xét.
Thế còn những kẻ không những đã hiểu sai ý nghĩa một cuộc chiến, mà còn không hiểu nổi dân tộc của mình, những kẻ thuộc thành phần tinh hoa của xã hội đó bây giờ ra sao? Bây giờ họ đang ở đâu nếu không phải ở trong tòa Bạch Ốc? Trên vấn đề lịch sử quan yếu này, cái vấn đề đã xác định thế hệ của chúng ta, họ dấu mình thật kín. Họ nên dấu mình như thế.
Đối với những kẻ đã đem cuộc hành trình tuổi trẻ đánh bạc trên cái ý tưởng rằng tổ quốc mình là một lực lượng ác quỷ, sau khi nhận ra sự ngây thơ của mình trong những năm sau năm 1975, chắc họ phải có một cảm giác rất kinh khủng. Thật là sáng mắt, sáng lòng cho những kẻ đã tỉnh thức, đã tự vượt qua được phản ứng chối tội, để chứng kiến cảnh tượng hàng trăm ngàn người dân miền Nam Việt Nam chạy trốn “ngọn lửa tinh nguyên của cách mạng” trên những con tàu ọp ẹp, sự chạy trốn mà chắc chắn 50 phần trăm đã vùi thây dưới đáy biển, hoặc là nhìn thấy những hình ảnh truyền hình của hàng ngàn chiếc sọ người Cam Bốt nằm lăn lóc trên những cánh đồng hoang, một phần nhỏ của hàng triệu người bị giết bởi những người Cộng Sản “giải phóng quân.”
Thực vậy, chúng ta hãy thẳng thắn nhìn nhận. Thật đáng tủi nhục biết bao khi nhìn vào khuôn mặt của một thương binh, hay là nghe diễn từ tốt nghiệp của một học sinh thủ khoa người Mỹ gốc Việt Nam, mà người cha quá cố của em đã chiến đấu bên cạnh những người Mỹ, cho một lý tưởng mà bọn họ công khai mỉa mai, chế diễu, và xem thường. Và thật là một điều đáng xấu hổ khi chúng ta có một hệ thống chínhquyền đã để cho em học sinh đó thành công nhanh chóng ở đây, mà lại không thực hiện được một hệ thống như vậy ở quê hương của em.

Chuyện "bếp núc" Thủ tướng đi Mỹ


Chủ nhật, 05 Tháng hai 2006, 00:34 GMT+7

Chuyện "bếp núc" Thủ tướng đi Mỹ

- "Để tôi kể với anh một ví dụ về việc Thủ tướng đã chấp nhận make-up (trang điểm) như thế nào trước cuộc phỏng vấn với CNN...". Phát ngôn viên Bộ Ngoại giao Lê Dũng, người phụ trách về "hình ảnh" của Thủ tướng Phan Văn Khải trong chuyến đi Mỹ vừa qua kể lại...
Chuyen "bep nuc" Thu tuong di My
Ông Lê Dũng ngồi chờ Thủ tướng.
Tuy không mấy khi ngơi nghỉ với công việc làm đối ngoại, ông vẫn thu xếp được cho chúng tôi một buổi trò chuyện vào những ngày cuối năm. Hôm nay, lần đầu tiên, Lê Dũng kể về những câu chuyện bếp núc của ông...
"Thủ tướng chúng tôi đã đặt chân tới Mỹ rồi đây"
Xin ông cho biết những người “lo việc bếp núc” đã làm gì để hình ảnh của Việt Nam, của Thủ tướng được xuất hiện một cách tốt nhất, ấn tượng nhất, và có lợi nhất trong con mắt của báo giới và người dân Mỹ.
Trước chuyến thăm chúng tôi đã cho ra được phụ trương ở Washington Times để nói rõ về chính sách đối ngoại và chính sách phát triển kinh tế của Việt Nam, cũng như giới thiệu những nét tổng quan nhất về Việt Nam để làm cái phông nền chung để người ta có một hiểu biết tổng thể về Việt Nam.
Ở từng chặng một, chúng tôi rất coi trọng những tập đoàn báo chí lớn, nhưng đến từng địa phương chúng ta cũng ưu tiên tiếp xúc với báo chí địa phương. Lý do là vì báo chí địa phương có tác động rất lớn với dân địa phương, họ xem báo địa phương nhiều hơn là báo phát hành toàn quốc.
Chẳng hạn khi đến San Fransisco, chúng ta đã tổ chức gặp gỡ ngay với báo chí địa phương sau khi check-in khách sạn.
Khi tới Washington, chúng ta tập trung vào những đối tượng quan trọng ở Thủ đô như hãng CNN, hay Washington Post và một số tờ báo uy tín khác. Ngoài thời gian của các cuộc gặp chính thức, Thủ tướng và các thành viên cao cấp trong đoàn đều dành hết thời gian cho giới truyền thông.
Chuyen "bep nuc" Thu tuong di My
Chụp cùng Thủ tướng trên chuyên cơ.
Việc Thủ tướng tới thăm một gia đình Việt Kiều ngay khi đặt chân tới Mỹ, chứ không chỉ quan tâm đến việc gặp lãnh đạo cao cấp của họ, ông Bill Gate, hay chủ những công ty lớn, đã khẳng định chính sách của Việt Nam coi Việt Kiều là một phần không thể tách rời của cộng đồng Việt Nam.
Để có được hình ảnh này ra công chúng, chúng tôi cũng phải lo tổ chức cho truyền hình và báo chí họ đến đưa tin.
Về mặt kinh tế chúng tôi đã kết hợp với Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Bộ Tài chính và Bộ Thương mại, để mời rất đông phóng viên tới tham dự các buổi hội thảo về đầu tư, và bố trí cho phóng viên tiếp xúc rất nhiều với các quan chức của ta, trả lời họ về môi trường đầu tư, về chính sách của Việt Nam.
Một điều đặc biệt nữa là ngay khi tới San Fransisco, về tới khách sạn là có ngay cuộc gặp gỡ với báo chí rồi. Cuộc họp báo này như một tiếng rung, báo với các nơi khác rằng: “Thủ tướng chúng tôi đã đặt chân tới Mỹ rồi đây”.
Đây cũng là cách thức mình học được của các đoàn nước ngoài. Khi muốn quảng bá chuyến đi bao giờ họ cũng tổ chức họp báo ngay khi tới sân bay, hoặc khách sạn. Điều này chưa hề có tiền lệ ở Việt Nam trong các chuyến đi cấp cao, bởi chúng tôi ý thức rằng đây đúng là “cơ hội vàng” để thông tin và quảng bá về Việt Nam.
Thủ tướng được make-up
Cường độ hoạt động của Thủ tướng đã thể hiện việc chúng ta tận dụng cơ hội vàng này như thế nào, thưa ông?
Chuyen "bep nuc" Thu tuong di My
"Chuyến này tuy mệt nhưng vui ông Tuấn ạ!" - Ảnh chụp cùng Tổng biên tập TS trong chuyến đi Mỹ của Thủ tướng.
Tôi nghĩ là Thủ tướng không có thời gian nghỉ. Chuyến thăm này cũng đạt được kỷ lục về thời gian hoạt động. Chương trình dày đặc liên tục, tranh thủ tiếp xúc với tất cả các cấp. Thậm chí có những hôm đến tận 10, 11 giờ ông mới về được phòng khách sạn.
Có những hôm chúng tôi phải bố trí cho Thủ tướng trả lời phỏng vấn giữa hai cuộc tiếp xúc, như hôm làm live với CNN. Đã tưởng là không xong rồi do thời gian quá gấp, nhưng Thủ tướng cũng cố gắng tranh thủ thời gian vẻn vẹn chưa đầy 1 tiếng nghỉ trưa để trả lời CNN.
Nói chung những cuộc bất thường khá nhiều. Có những cuộc chúng tôi có ý định sắp xếp rồi nhưng chưa tìm được thời gian thích hợp nên đành tranh thủ những khe hẹp như vậy trong lịch trình dày đặc của Thủ tướng để xen vào.
Thế còn ý kiến tư vấn của ông Peterson khi ông nói “hình ảnh tươi cười, dễ mến của một vị nguyên thủ chính là hình ảnh thân thiện của một quốc gia” đã được “tiếp thu” thế nào?
Để tôi kể với anh một ví dụ về việc Thủ tướng đã chấp nhận make-up (trang điểm) như thế nào trước cuộc phỏng vấn với CNN.
Hôm ấy, Thủ tướng về, chúng tôi báo cáo về cuộc phỏng vấn với CNN, và đề nghị Thủ tướng để cho cô kỹ thuật viên của CNN make-up cho ông.
Thông thường nhiều nguyên thủ đều làm thế trước ống kính cả. Lúc đầu Thủ tướng có cười và xua tay: “Thôi khỏi, trông thế này là ngon rồi!”. Nhưng rồi ít phút sau ông vẫn cứ ra để cho họ make-up.
Đúng là hình ảnh trông đẹp thật. Tôi cũng nghĩ đây cũng là cái cách người ta thường xuất hiện trước ống kính, tạo cho mình hình ảnh, ấn tượng tốt nhất có thể được.
Đề nghị này là của CNN, chứng tỏ họ cũng rất quan tâm đến hình ảnh của Thủ tướng trong chương trình của họ. Bản thân người phỏng vấn Thủ tướng, một phóng viên rất nổi tiếng tên là Ted Kopel, người thường có hàng triệu người xem chương trình của mình, cũng được make-up.
Tôi có cảm giác là khi đã make-up rồi Thủ tướng có cảm giác rất thoải mái trước ống kính, câu chuyện cũng thân mật, tự nhiên hơn, và hôm đó Ted Kopel đã hỏi được về rất nhiều vấn đề.
Hay hôm gặp ở Quốc hội, Thủ tướng cũng vừa cười vừa nói rất tự nhiên: “Nhiều nghị sĩ các bạn cũng không hiểu rõ về tình hình Việt Nam lắm, nhưng chuyến thăm này có nhiều thông tin, bài viết về Việt Nam. Theo họ báo cáo cho tôi là đến hôm nay, mới qua 2 đêm, đã có hơn 800 bài rồi, vậy các vị nên đọc những bài đó, và qua đó mới hiểu được đầy đủ về Việt Nam”.
Các nghị sĩ Mỹ bật cười thoải mái.
Tôi nghĩ đó cũng là cách Thủ tướng “kích” họ nên tìm hiểu toàn diện về Việt Nam, chứ đừng chỉ nhận những thông tin của nhóm này nhóm kia mà nghĩ đó là Việt Nam.
Thông điệp rất rõ ràng: “Việt Nam không phải là một đất nước chỉ với những vấn đề dân chủ, tôn giáo và nhân quyền.”
Nhưng cũng có một số khán giả trong nước có nói là họ “hơi gợn” với hình ảnh Thủ tướng cầm giấy, trong khi Tổng thống Bush nói vo trong buổi họp báo sau khi hội đàm?
Tôi nghĩ lúc đó nếu kết hợp được cả nội dung và hình ảnh thì tốt nhất, nhưng khi phải ưu tiên cho một thứ thì tôi nghĩ Thủ tướng đã có cách lựa chọn đúng.
Với những gì đã chuẩn bị sẵn một cách có chủ định, ông đã chuyển được đầy đủ các thông điệp của mình với dân chúng Mỹ về mong muốn và thái độ của Việt Nam như thế nào trong quan hệ với Hoa Kỳ.
Tôi đã kiểm tra hết rồi, báo giới Mỹ đâu có để ý đến hình ảnh đó, họ chỉ quan tâm đến nội dung cuộc hội đàm là gì, quan hệ thực chất của hai bên như thế nào. Chẳng báo nào đưa tin về hình ảnh mà anh vừa nêu.
Mà chắc các anh cũng thế thôi, khi đi họp báo cũng không để ý tới việc người chủ trì họp báo khi tuyên bố có cầm giấy hay không mà chỉ chăm chăm theo dõi xem có nhiều thông tin trong tuyên bố đó không.
Anh cũng nên để ý đến Tổng thống Bush, người không cầm giấy và nói vo. Ông ta chỉ phát biểu một vài câu chung chung thôi.
Công việc “người làm bếp”
Chuyen "bep nuc" Thu tuong di My
Thủ tướng trả lời phỏng vấn trước phóng viên Wolf Blitzer.
Trong quá trình hoạt động bên đó có gì trục trặc mà mình phải xử lý khẩn cấp không?
Trục trặc lớn nhất là mình đã thu xếp cho ABC phỏng vấn Thủ tướng, nhưng chiều hôm trước họ báo lại là không sắp xếp được thời gian và muốn mình đổi lịch.
Lịch trình thủ tướng đã kín rồi, chúng tôi buộc phải liên lạc ngay với CNN để thế vào. CNN trước đó đã phỏng vấn Phó Thủ tướng Vũ Khoan rồi. Chúng tôi muốn ABC làm cho đa dạng, nhưng thực tế là làm với CNN thành công hơn, có tiếng vang hơn, phát cả ở Mỹ và quốc tế
Trong chương trình phát sóng, ngoài bài phỏng vấn Thủ tướng họ còn có giới thiệu về lịch sử Việt Nam và công cuộc đổi mới như thế nào.
Chúng tôi phải nhắm trước Ted Kopel và mời đích danh phóng viên này. Mình gọi từ tối hôm trước, sáng hôm sau ông ta trả lời là đồng ý, nhưng nói phải 1:30 mới có thể làm được. Cứ tưởng “xong phim” rồi.
Gọi điện đi gọi điện lại gần cả buổi sáng họ mới báo lại là có thể thực hiện vào lúc 12 giờ. Có lẽ họ cũng thấy tầm quan trọng của bài phỏng vấn nên đã phải cố gắng đảo lại chương trình đã sắp sẵn.
Liên quan đến chuyến đi của Thủ tướng tới Hoa Kỳ chúng tôi thống kê có chừng 1.700 bài viết về quan hệ Việt - Mỹ và chuyến thăm của Thủ tướng, trong đó của Mỹ là hơn 2/3. Thông tin về chuyến thăm và về Việt Nam nói chung đã đến được với cả chục triệu người.
Tôi nghĩ đây cũng là một thời điểm lịch sử đáng ghi nhớ trong công tác thông tin đối ngoại của Việt Nam. Chưa bao giờ trong một thời gian ngắn chỉ trong vòng 10 ngày lại có một lượng tin bài lớn như thế về Việt Nam với cách đưa tin tương đối khách quan.
Qua sự quan tâm và cách đưa tin của báo giới Mỹ, cũng như công tác chuẩn bị, phối hợp của phía ta, ông rút ra điều gì cho công tác thông tin đối ngoại?
Chuyen "bep nuc" Thu tuong di My
Phút thảnh thơi hiếm có ở New York.
Qua chuyện này chúng tôi rút ra kết luận là nếu chúng ta chủ động tiếp xúc với họ, tạo thuận lợi cho họ thì cách đưa tin của họ sẽ tích cực hơn, có thiện chí hơn và thông tin first-hand sẽ tác động nhiều hơn đến độc giả.
Tôi nghĩ việc này cũng xuất phát từ nhu cầu của cả hai phía, đoàn ta và báo chí của họ. Trong chuyến thăm lịch sử như vậy, bản thân từ “lịch sử” cũng gây ra sự tò mò. Nhưng để có hướng tuyên truyền như mình mong muốn, bản thân chúng ta phải chủ động.
Điều đáng mừng là từ Thủ tướng đến các đồng chí lãnh đạo trong đoàn như Phó Thủ tướng Vũ Khoan, các bộ trưởng đều rất ủng hộ phương án tăng cường tiếp xúc, và đồng ý cho họ tham dự một số hoạt động của đoàn để họ có thông tin.
Những hình thức mới được áp dụng, chẳng hạn như một loạt phụ trương đã được xuất bản với sự hợp tác của các hãng truyền thông nổi tiếng và có uy tín ở Mỹ.
Với Washington Times vào trước dịp Thủ tướng đi Mỹ ta tự bỏ khoảng 60 ngàn USD ra làm. Sau đó là với Tạp chí Fortune, Tạp chí Foreign Affairs có sự đóng góp của các doanh nghiệp được giới thiệu và những nguồn tài trợ khác.
"Công việc một ngày của người phụ trách báo chí là kết nối với phóng viên để cho họ thực hiện phỏng vấn, dự kiến nội dung và phán đoán những vấn đề họ có thể quan tâm, và theo dõi động thái dư luận trong ngày hôm đó.
Tôi bị sụt 3 cân. Có những hôm phải thức trắng, đến tận 6:30 sáng để 7 giờ có bản sơ kết dư luận cho đoàn, còn thường thì phải thức đến 2, 3 giờ sáng.
Do thay đổi thời tiết bị cảm nên tôi phải tạm bỏ thuốc trong suốt chuyến đi, do sợ không đảm bảo sức khoẻ".
  • Huỳnh Phan