Thứ Năm, 8 tháng 12, 2011

Ginny Foote với hành trình từ "một cuộc chiến" tới "một đất nước"


Ginny Foote với hành trình từ "một cuộc chiến" tới "một đất nước"

Tôi hiểu rằng sự nghèo nàn mà tôi chứng kiến khi sang Việt Nam lần đầu là hậu quả của tình trạng bị cô lập thời hậu chiến. Cho dù có phải là Mỹ đã áp đặt sự cô lập cho Việt Nam, hay Việt Nam tự lựa chọn để bị cô lập, hậu quả đều tồi tệ và kinh khủng như nhau. Nhưng đó cũng chính là động lực giúp tôi nỗ lực thúc đẩy việc bỏ cấm vận và bình thường hoá - Jinny Foote.

LTS: Quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao rồi kinh tế - thương mại giữa Mỹ và Việt Nam có sự tham gia của nhiều người, trong những hoàn cảnh khác nhau và theo những cách khác nhau.
Chẳng hạn, nếu như chàng sinh viên Lê Văn Bàng được biết là anh sẽ về Bộ Ngoại giao và làm việc với Mỹ, ngay từ năm cuối cùng trên ghế trường đại học ở Cuba, thì đối với người thiếu phụ trẻ Ginny Foote, việc tham gia vào câu chuyện Mỹ - Việt hoàn toàn chỉ là một sự tình cờ.
Ginny kể: "Vào một ngày thu năm 1988, sau khi được lá thư của Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, ông Bill Sullivan, Sếp tôi, đã bảo tôi cùng đi với ông lên Bộ Ngoại giao Mỹ. Kể từ đó, ông giao cho tôi phụ trách mảng Việt Nam trong tổ chức NGO của chúng tôi, và trợ lý đắc lực của ông trong nỗ lực bình thường hoá quan hệ giữa hai nước.
Nhớ lại cái ngày thu đó, tôi luôn có cảm giác hạnh phúc. Ông Sullivan kêu tôi đi cùng, đơn giản bởi phải có ai đó đi cùng với ông lên Bộ Ngoại giao..."
Trước khi sang Việt Nam lần đầu vào tháng 5.1989, đối với Ginny Foote, cái tên Việt Nam chỉ gợi lại một ký ức về một cuộc chiến tranh. Anh trai người bạn thân của Ginny tham chiến ở Việt Nam, còn hai người chị gái của cô, khi còn học đại học, đều tham gia biểu tình phản chiến. Cuốn sách của Sếp Sullivan, và những kỷ niệm mà ông kể cho Ginny, đều là những ký ức về một cuộc chiến.
"Đi suốt tiến trình Mỹ - Việt, tôi đã dần dần hiểu Việt Nam như một đất nước, và cố gắng  giúp những người Mỹ khác cũng hiểu điều này", Ginny nói tiếp.
Mục Gặp gỡ & Đối thoại tuần này xin trân trọng giới thiệu cuộc trao đổi giữa phóng viên Tuanvietnam với Chủ tịch Hội đồng Thương mại Việt - Mỹ Virginia Foote, người cho đến thời điểm này vẫn đi tiếp trên hành trình Mỹ - Việt.
Xin bà cho biết bối cảnh thành lập Hội đồng Thương mại Mỹ - Việt (USVTC).
Sếp của tôi là Bill Sullivan từng là đại sứ Mỹ tại Lào trong thời gian chiến tranh Đông Dương lần thứ 2. Ông có những cuộc đàm phán marathon qua nhiều năm với Ngoại trưởng Nguyễn Cơ Thạch, và họ hiểu rất rõ về nhau.
Mùa thu năm 1988, Ngoại trưởng Thạch gửi thư mời Sullivan sang Việt Nam, để bàn xem làm thế nào để thúc đẩy bình thường hoá quan hệ. Việt Nam muốn tái khởi động tiến trình đã bị gián đoạn 10 năm trước.
Sullivan đã mang chuyện này lên hỏi ý kiến Bộ Ngoại giao Mỹ, nhưng họ đã trả lời: "Chưa được. Việt Nam chưa rút quân khỏi Campuchia, và chúng ta chưa nên vội tiếp xúc với họ."
Đến tháng 5.1989, sau vài cuộc trao đổi tiếp theo của ông Sullivan và Bộ trưởng Thạch, Bộ Ngoại giao Mỹ đã đồng ý cho ông sang Việt Nam. Tôi đã đi cùng với ông, và đó cũng là lần đầu tiên tôi tới Việt Nam.
Ý tưởng của chúng tôi là quan hệ ngoại giao giữa hai nước khó có thể bình thường hoá một sớm một chiều, vì vậy sự ra đời của một tổ chức như USVTC có thể giúp người Mỹ tìm hiểu về kinh tế Việt Nam, về tiềm năng của thị trường Việt Nam để Tổng thống Mỹ có thể gỡ bỏ lệnh cấm vận với Việt Nam.
Tuy đó là tham vọng của chúng tôi, nhưng rút cuộc trong 5 năm đầu tiên, công việc chủ yếu của USVTC lại liên quan đến vấn đề POW/MIA. Bởi đó là điều kiện tiên quyết cho việc dỡ bỏ cấm vận kinh tế đối với Việt Nam, và tiến tới bình thường hoá quan hệ.
Tất nhiên, chúng tôi vẫn tiến hành song song những nỗ lực khác, cùng với cộng đồng doanh nghiệp để thúc đẩy Tổng thống Bush (cha) cho phép công ty Mỹ mở văn phòng đại diện tại Việt Nam (1992), hay Tổng thống Clinton "bật đèn xanh" cho WB và IMF cung cấp tín dụng cho Việt Nam (1993).
Bà Ginny Foote trao đổi với cựu Đại sứ Việt Nam tại Mỹ Lê Công Phụng.
Ấn tượng đầu tiên của bà về Việt Nam?
Sullivan rất vui được trở lại Việt Nam. Nhưng ông nói với tôi ông rất buồn khi thấy Việt Nam vẫn nghèo như thế, mặc dù cuộc Chiến tranh Việt Nam đã kết thúc được gần một thập kỷ rưỡi.
Còn tôi, tôi hiểu rằng sự nghèo nàn này là hậu quả của tình trạng bị cô lập thời hậu chiến. Cho dù có phải là Mỹ có áp đặt sự cô lập cho Việt Nam, hay Việt Nam tự lựa chọn để bị cô lập, kết quả đều tồi tệ và kinh khủng như nhau.
Nhưng đó cũng chính là động lực giúp tôi nỗ lực thúc đẩy việc bỏ cấm vận và bình thường hoá.
Những quan chức Việt Nam bà gặp lần đó nhìn bà như thế nào?
(Phá lên cười) Họ đâu có nhìn tôi. Sullivan mới là đối tượng của mọi ánh mắt.
Nhưng phát hiện lớn nhất của tôi lúc đó là mối quan hệ cá nhân giữa Sullivan và Nguyễn Cơ Thạch. Tôi đã không hình dung nổi. Bất chấp sự tàn khốc của chiến tranh, sự căng thẳng trong đối đầu giữa hai phía trên bàn đàm phán, hai người đàn ông đó gặp lại nhau, trò chuyện với nhau theo cái cách hoàn toàn tự nhiên, và thân thiện.
Bà gặp ông Thạch có nhiều không?
Chúng tôi gặp ông Thạch hai lần ở New York, bởi ông không được cho phép tới Washington D.C.. Chúng tôi gặp ông ở Hà Nội nhiều hơn. Chúng tôi có khoảng 3 năm cùng làm việc với nhau, trước khi ông bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Bà thấy ông Thạch là người thế nào?
Tôi có cảm giác câu chuyện trước đó gần hai thập kỷ (đàm phán ở Paris) dường như chả tác động gì tới hai người đàn ông này, Thạch và Bill (Sullivan). Họ tranh luận, rồi họ lại cười với nhau. Có những lúc họ cũng lâm vào bế tắc, nhưng họ đều nói với nhau: Hãy cố thử thêm lần nữa!
Với họ, thất bại, hay bế tắc, chỉ là tạm thời. Họ tin họ sẽ thành công.
Quan sát họ, tôi rút ra một bài học quan trọng: Đôi khi anh có thể thua cuộc trong một cuộc đàm phán. Nhưng cách cư xử đúng mực của anh trước sự thua cuộc đó lại là cái "được" của anh, cho cuộc đàm phán tiếp theo.
Đại sứ Phạm Ngạc, người phiên dịch, ghi biên bản và liên lạc với đoàn Mỹ trong suốt quá trình đàm phán hiệp định Paris:
Đại sứ William Sullivan là nhà ngoại giao sắc sảo, được Harriman tin dùng. Trong một hội nghị, Harriman cố tình vắng mặt để Sullivan đại diện đoàn Mỹ và chứng tỏ tài năng trong đàm phán. Sullivan và ông Nguyễn Cơ Thạch đã từng gặp nhau tại Hội nghị Geneve về Lào. Khi đàm phán ở Paris đi vào thực chất giải pháp, ông Lê Đức Thọ trở lại Paris. Ông Phan Hiền (sau này là Bộ trưởng Tư Pháp) vui vẻ thông báo với mọi người: "Chuyến này có cả Pélé cùng sang" (ý nói Thứ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch lúc đó đặc trách về giải pháp sẽ ghi bàn thắng tại Hội nghị Paris đang bế tắc). Phía Mỹ cũng có Sullivan tham gia đoàn của Kissinger. Trong buổi gặp lại, ông Thạch chủ động tạo không khí hợp tác hai đoàn, đón chào ông Sullivan bằng tiếng Pháp: Vous n'avez pas changé (Ông vẫn phong độ như xưa).
Sau khi Kissinger - Lê Đức Thọ thoả thuận về những nguyên tắc cơ bản, chính cặp đôi Sullivan - Nguyễn Cơ Thạch đã chịu trách nhiệm thương lượng mọi chi tiết và hoàn thành văn bản Hiệp định, bốn Nghị định thư kèm theo, văn bản Định ước quốc tế cũng như mọi thủ tục ký kết chính thức và Hội nghị quốc tế về Việt Nam. Trong đàm phán, tuy hai bên đều rất quyết liệt nhưng có thiện chí với nhau. Trong một buổi đàm phán gay go kéo dài, Sullivan đang phát biểu thì bị ho sặc sụa, cầm cốc nước lạnh để uống. Ông Thạch ngăn lại, nói: "Ông đừng uống nước lạnh, sẽ bị ho thêm", và gọi người phục vụ Việt Nam lấy một tách trà nóng cho Sullivan. Sự quan tâm rất văn hóa này đã gây ấn tượng cho cả đoàn Mỹ.
Hiệp định đã hoàn tất, thủ tục ký kết cũng được thoả thuận nhưng phía chính quyền Sài Gòn lại gây trở ngại. Sullivan lại phải nỗ lực can thiệp và nói đùa với ông Thạch nếu thất bại thì sẽ phải "hara-kiri" (mổ bụng tự vẫn). Khi Ngoại trưởng Mỹ William Rogers và Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Duy Trinh sang Paris chính thức ký kết Hiệp định, Rogers có Sullivan đi cùng gặp ông Nguyễn Duy Trinh ở hành lang, sau khi bắt tay chào nhau, Rogers nói ngay: "Sullivan nói thích ông Thạch vì ông ấy rất.. cứng (tough)". Một thái độ rất Mỹ, phục đối thủ sau khi đã "so găng" quyết liệt.
Những nhân vật có vai trò quan trọng trong tiến trình bình thường hoá mà bà đã từng làm việc?
Về phía Mỹ, ngoài Bill Sullivan và Đại tướng John Vessey - đặc phái viên của cả Tổng thống Reagan và Tổng thống Bush, là hai thượng nghị sĩ John Kerry và John McCain.
Họ thuộc hai đảng đối lập, có cách nhìn hoàn toàn khác nhau về cuộc chiến (cựu binh Kerry sau đó tham gia phong trào phản chiến, còn McCain lại bị bắt làm tù binh), về tính cách cũng rất khác nhau. Nhưng họ có một điểm chung là đều rất mong muốn quan hệ hai nước được nhanh chóng bình thường hoá. Và do cùng tham gia tiểu ban POW/MIA, cả hai đều làm việc rất nhiều với các đoàn Mỹ vào Việt Nam.
Và tất nhiên là các tổ chức cựu binh Mỹ.
Về phía Việt Nam, Bộ Ngoại giao là những người tiên phong trong chuyện này. Sau Bộ trưởng Thạch, Bộ trưởng Cầm (Nguyễn Mạnh Cầm) và Thứ trưởng Lê Mai cũng là những người tích cực.
Ngoài ra, Bộ Quốc phòng, Bộ Công an và cả SCCI (Uỷ ban Nhà nước về Hợp tác Đầu tư) là những cơ quan thực hiện, bởi theo tôi hiểu ở Việt Nam quyết định được đưa ra ở cấp cao.
Thế còn ở phía Mỹ?
Ngược lại. Mỗi người, mỗi nhóm chúng tôi làm từng việc một, cố gắng thúc đẩy để đạt được một quyết định cuối cùng ở cấp cao nhất.
Cách giải quyết vấn đề POW/MIA của USVTC khác với cách tiến hành của chính phủ Mỹ như thế nào?
Về phía Mỹ, những lực lượng phản đối bình thường hoá mạnh hơn rất nhiều so với lực lượng ủng hộ bình thường hoá. Vì vậy, những đoàn cựu binh do chúng tôi tổ chức sang Việt Nam có vai trò rất quan trọng.
Đầu tiên, chúng tôi thuyết phục họ suy nghĩ về việc thử sang VN. TNS Kerry đã mời nhiều cựu binh đến văn phòng của ông, và tôi cũng có mặt ở đó để trả lời những câu hỏi của họ.
Khi họ đến Việt Nam, là ban lãnh đạo của các tổ chức cựu binh, tôi nói với phía Việt Nam rằng nếu những người này cảm thấy không thoải mái, tiến trình bình thường hoá sẽ gặp khó khăn hơn. May mà mọi chuyện nói chung đều ổn thoả.
Về phía Việt Nam, (TBT) Đỗ Mười tỏ ra tuyệt vời trong cách cư xử với các cựu binh. Tôi đã có lần chứng kiến ông ta tiếp đoàn VWF - tổ chức cựu binh lớn nhất của chúng tôi ở Mỹ với hàng triệu thành viên và có tiếng nói rất quan trọng.
Trước cuộc gặp, các cựu binh Mỹ đã nghĩ rằng họ sẽ gặp một khuôn mặt đỏ gay, giận dữ và mồm luôn phê phán Mỹ về những chuyện xảy ra trong quá khứ. Nhưng những chuyện đó đã không diễn ra.

Vị lãnh đạo cao nhất của Việt Nam đã tươi cười bắt tay họ, ôm hôn họ, hỏi thăm về gia đình họ. Ông còn hỏi họ vết thương còn đau không. Thậm chí ông còn bắt một người vén áo lên để ông xem vết thương, hay xem tận nơi cái tai bị cụt của một người khác.
Đó là một trải nghiệm rất con người mà cả các cựu binh có mặt hôm đó lẫn tôi đã từng chứng kiến.
Cùng với việc tìm hiểu kỹ lộ trình thực hiện chương trình POW/MIA, và thái độ hợp tác của phía Việt Nam, về nước họ đã thay đổi hẳn lập trường trong đại hội toàn quốc tổ chức sau đó. Họ quay sang ủng hộ Tổng thống Clinton dỡ bỏ cấm vận, chứ không kiên quyết chống như trước nữa.
Xin được phép tò mò một chút. Bà đi đi lại lại như con thoi như vậy giữa Washington D.C. và Hà Nội trong suốt quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao, rồi quan hệ kinh tế - thương mại (BTA), và cả quá trình Việt Nam đàm phán với Mỹ để gia nhập WTO, rồi đủ các cuộc gặp mặt, vận động khác ngay tại Mỹ. Vậy không hiểu bà thu xếp gia đình thế nào?
Tôi luôn phải cố gắng sắp xếp cho các chuyến đi sang Việt Nam có thể kết thúc nhanh nhất, để tôi không phải xa nhà quá một tuần. Rất may là chồng tôi không mấy khi phải đi công tác xa nhà, dù là trong nội bộ nước Mỹ.
Trong lần đi Việt Nam đầu tiên (5.1989), tôi đã nấu sẵn rất nhiều món, nhét chật cứng tủ lạnh để hai bố con ăn dần. Nhưng khi tôi về tới nơi, mọi thứ vẫn còn nguyên, và từ đó tôi không chuẩn bị đồ ăn sẵn nữa.
Con gái tôi chấp nhận chuyện luôn phải xa mẹ, mà không phàn nàn gì. Nhưng có một lần tôi đã thực sự có cảm giác tội lỗi đối với con gái, khi phải ra đi đúng vào ngày sinh nhật của cô bé.
Khi bà sang Việt Nam lần đầu, cô bé lên mấy?
Con gái tôi sinh năm 1987. Chính vì vậy tôi luôn đo những tiến bộ đạt được trong quá trình bình thường hoá bằng chiều cao qua từng năm của con gái tôi.
Bây giờ nhìn lại quá trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao và kinh tế - thương mại, bà có cảm thấy kinh ngạc về biết bao chướng ngại mà hai bên đã vượt qua không? Và dường như có cả những chướng ngại do tự chúng ta dựng lên nữa?
Tôi nghĩ rằng lịch sử khi nhìn lại chúng ta cảm thấy nó khó khăn, nặng nề hơn nhiều, so với khi sự kiện đang diễn ra. Nhưng nhìn lại toàn bộ cả quá trình tôi thấy rằng tại mỗi bước đi chúng ta đều có những sai lầm. Chuyện xảy ra với Bộ trưởng Thạch là một trong những trường hợp đó.
Hay những người chờ đợi sự kiện diễn ra vào tối khuya ở Melia vào tháng 7.1999 đều nghĩ rằng ký tắt (BTA) là sắp xong rồi. Thế nhưng, thực ra còn 12 điều mà hai bên vẫn chưa thống nhất được.
Và điều gì ở Oakland (New Zealand), bên lề APEC, thực sự là một thảm hoạ. Chúng ta đã từng thất bại trong quá khứ, nhưng đó là là một thất bại cực kỳ tồi tệ. Đó cũng là lý do tại sao, trong nhiều tháng sau đó, phía Mỹ không muốn nhắc lại chuyện này nữa.
Rất may, nhờ nỗ lực lớn của cả hai phía mà đối thoại vẫn được duy trì, mặc dù họ chưa thể ngồi lại vào bàn đàm phán. Chỉ đến mùa hè năm 2000, đàm phán mới được nối lại.
Theo bà tại sao lại có sự lỡ nhịp như vậy? Chúng ta ký chậm mất 10 tháng, nhưng dường như để hiệp định có hiệu lực chúng ta lại mất thêm nhiều thời gian và công sức hơn.
Tôi nghĩ, trước hết, về phía Mỹ, chúng tôi đã đánh giá quá cao khả năng của mình trong việc thúc đẩy phía Việt Nam cùng tới đích.
Thứ hai là ở Quốc Hội, những vấn đề của chiến tranh vẫn là trở ngại lớn. Chúng tôi phải đương đầu với vấn đề POW/MIA và Jackson-Vanik. Nhiều khi rất khó khiến mọi người tập trung chú ý vào một việc chúng ta muốn thúc đẩy, một khi mọi người đã không mấy quan tâm tới nó. Đó là chưa nói tới việc làm cách nào thắng được cuộc bỏ phiếu, bởi có nhiều người chống.
Trong suốt hơn một năm kể từ ngày BTA được ký, chúng tôi hầu như rất bận rộn chuẩn bị cho việc quốc hội thông qua. Vào chiến dịch vận động ở quốc hội, cộng đồng doanh nghiệp ủng hộ BTA phải gặp nhau hàng tuần, dưới sự chủ toạ của tôi.
Chúng tôi phải lên lịch xem tuần tới gặp những nghị sĩ nào, nói những gì, và cách lập luận đối với từng đối tượng như thế nào cho phù hợp. Một lịch trình hoàn toàn tương tự trong chiến dịch vận động quốc hội trao cho Việt Nam qui chế thương mại bình thường (2006).
Xin cám ơn bà.

Việt Nam với nước lớn hay chuyện lòng tin và lợi ích


Việt Nam với nước lớn hay chuyện lòng tin và lợi ích

Chúng ta phải phân biệt những cản trở mang tính kỹ thuật, và lợi ích thực sự của Mỹ ở Đông Nam Á, Đông Á - Thái Bình Dương. Điều này đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược, và các mối quan hệ cụ thể trong từng lĩnh vực. Bởi ở mỗi thời điểm những cản trở mang tính kỹ thuật lại rất khác nhau.
Tại sao ông lại cho rằng từ năm 1985 người Mỹ mới thực sự quan tâm lại tới Việt Nam?
Tình hình thế giới và khu vực từ lúc đó đã quá thay đổi.
Thứ nhất, sự đe doạ của Liên Xô không còn nữa, với việc ông Michail Gorbachev lên nắm quyền vào đầu tháng 3.1985, và tiến hành perestroika (cải tổ). Họ, một mặt, phải tập trung vào giải quyết vấn đề của chính mình, và, mặt khác, lại mở cửa với phương Tây, hoà dịu với Mỹ.
Thứ hai, cũng chính vì vậy, con bài Trung Quốc đối với người Mỹ cũng bị giảm giá trị theo. Đó là chưa nói sự trỗi dậy mạnh mẽ của Trung Quốc khiến họ cũng gặp phải những vấn đề của mình, và trong quan hệ với Mỹ. Đỉnh điểm là sự kiện Thiên An Môn năm 1989, khiến quan hệ Trung - Mỹ trở nên căng thẳng.
Thứ ba, yếu tố khu vực cũng có sự tác động tích cực với tiến trình Việt - Mỹ. Các nước ASEAN tuy vẫn phản đối Việt Nam về chuyện đưa quân sang Campuchia, nhưng đã có những nỗ lực muốn giảm sự đối đầu trong khu vực để chuyển sang đối thoại. Bởi năm 1985 cũng là lần đầu tiên Việt Nam đưa ra tuyên bố trước quốc tế là sẽ hoàn thành rút quân khỏi Campuchia trước năm 1990.
Chẳng hạn như sáng kiến "Jakarta Cocktail" (Tiệc rượu Jakar ta) của Ngoại trưởng Indonesia Ali Alatas giúp cho 4 phái kháng chiến Campuchia ngồi với nhau, và các nước Đông Dương và ASEAN gặp nhau không chính thức (JIM1 và JIM2)...
Cuối cùng, nhưng không kém phần quan trọng, bản thân trong nội bộ Việt Nam cũng có sự thay đổi mang tính bước ngoặt. Đại hội Đảng đã khẳng định quyết tâm mở cửa và hội nhập của Việt Nam để thoát khỏi thế bị bao vây, cô lập.
Về đối ngoại, đây cũng là dấu mốc chính thức cho chủ trương đối thoại thay cho đối đầu - tiền đề cho quá trình bình thường hoá quan hệ, không chỉ riêng với Mỹ.
Nhưng tại sao phải mất tới 10 năm, với ba nhiệm kỳ tổng thống nữa (Reagan, Bush cha và Clinton), hai nước mới có thể chính thức hoàn tất việc bình thường hoá quan hệ ngoại giao?
Cuối năm 1986, ngay trước Đại hội Đảng VI của Việt Nam, phía Mỹ có cử một đoàn do hai hai thượng nghị sĩ là Hart và Lugar dẫn đầu vào Việt Nam.  Họ vào gặp Bộ trưởng Ngoại giao Nguyễn Cơ Thạch, nói rằng tình hình khu vực thay đổi và phía Mỹ muốn đối thoại với Việt Nam. Hai điều kiện họ đưa ra để nối lại đàm phán bình thường hoá là giải quyết vấn đề POW/MIA và Việt Nam phải rút quân khỏi Campuchia.
Bộ trưởng Thạch hiểu câu chuyện, hiểu người Mỹ, và ông biết Việt Nam phải hợp tác tốt trong vấn đề POW/MIA thì Mỹ mới bỏ cấm vận kinh tế, trước khi bình thường hoá quan hệ.
Ông nói với phía Mỹ rằng đây là vấn đề nhân đạo nên hai bên cùng thể hiện thiện chí với nhau, và đề xuất mở hai diễn đàn: một diễn đàn về POW/MIA, và diễn đàn kia về việc giúp đỡ những người bị tàn tật trong chiến tranh với chân tay giả, xe đẩy... Phía Mỹ thấy có thể chấp nhận được, và OK ngay.
Phải nói ông hành động rất khôn khéo, vẹn cả đôi đường.
Nhưng cho dù Việt Nam đã hoàn tất việc rút quân vào tháng 9.1989, đến tận năm 1991, phía Mỹ vẫn chưa tin. Họ bảo rằng biết đâu Việt Nam rút ở đầu này, nhưng lại vào Campuchia ở đầu khác.
Còn đối với vấn đề POW/MIA, trong Quốc hội Mỹ có nhiều nghị sĩ, nổi bật nhất là Thượng nghị sĩ Đảng Cộng hoà Bob Smith, của bang New Hampshire, luôn dùng luận điểm này để chống bình thường hoá với Việt Nam. Ông Bob Smith này luôn nói là Việt Nam vẫn còn giam giữ tù binh Mỹ, và điều này tác động đến lòng người ở Mỹ rất mạnh, nhất là đối với hiệp hội những gia đình có người thân mất tích trong chiến tranh và một số tổ chức cựu binh Mỹ.
Tôi còn nhớ là sang đến nhiệm kỳ của Tổng thống George H.W. Bush (cha), khoảng năm 1990-1991 gì đó, có một đoàn của Mỹ sang Việt Nam, và yêu cầu cho phép họ kiểm tra xem Việt Nam còn giam giữ tù binh Mỹ hay không. Ông trợ lý ngoại trưởng Mỹ, tôi không nhớ tên, nói: "Sau khi ăn cơm trưa ở Nhà khách Chính phủ, các ông đưa chúng tôi sang Sân bay Gia Lâm, có một trực thăng chuẩn bị sẵn ở đó. Lúc đó chúng tôi mới nói cần đi đâu."
Bộ trưởng Thạch lại quyết định ngay: Phải chấp nhận mới xây dựng được lòng tin. Lên máy bay, họ chỉ về phía Nam, đến một khu rừng ở Thanh Hoá, đến một cái trại giam tù binh thời chiến tranh, lán trại đã mục nát. Chúng tôi chỉ cho họ xem cỏ mọc dày hết cả lối đi, tức là đã lâu lắm rồi không có người qua lại, lúc đó họ mới tin.
Rồi sang thời của Tổng thống Bill Clinton, khi Việt Nam và Mỹ đã thoả thuận rằng Mỹ sẽ bỏ cấm vận vào mùa hè năm 1993, và thiết lập quan hệ ngoại giao ở mức cơ quan liên lạc, sau chuyến đi của đặc phái viên tổng thống, cựu ngoại trưởng Edmund Musky vào tháng 4 năm đó, thì bên Mỹ lại rộ lên chuyện "tài liệu Nga".
Cựu Thứ trưởng Ngoại giao Lê Văn Bàng
Tôi còn nhớ vào khoảng tháng 5.1993, nhóm làm phim của ABC News vào Việt Nam với mục đích xác minh lại câu chuyện đó, và yêu cầu gặp bằng được Trung tướng Trần Văn Quang. Phóng viên Jim Laurie nói với hai anh em hướng dẫn viên báo chí (thuộc Trung tâm Báo chí Nước ngoài, Bộ Ngoại giao) rằng họ vừa ghé qua Moscow trước khi đến đây, và còn giơ cho chúng tôi xem bản "tài liệu Nga" đó.
Câu chuyện đầu đuôi thế nào nhỉ, thưa ông?
Một nhân vật chống Việt Nam rất mạnh tên là Stephen Morris, làm tại Đại học John Hopkins, đã tung ra bản tài liệu đó và nói rằng ông ta đã lấy được khi qua Moscow. Theo tài liệu này, Trung tướng Trần Văn Quang đã báo cáo với Bộ Chính trị Việt Nam liên quan đến những tù binh Mỹ được gửi sang Liên Xô.
Thế là Chính phủ Mỹ liền tập trung điều tra, yêu cầu gọi Tướng Quang và những người Nga có liên quan trả lời về nghi vấn này. Trong khi đó, Đại tá tình báo Nga Kalugin lại đổ thêm dầu vào lửa, khi phát biểu rằng vấn đề này là có thật.
Vì tài liệu đó mà cần thời gian xác minh, loại bỏ hiểu lầm. Nhưng chuyến đi của ông Musky coi như thất bại. Những gì mà cả hai chính phủ kỳ vọng đã bị vô hiệu hoá.
Tôi vẫn còn nhớ, đầu năm 1993, Bộ Ngoại giao đã cử tôi đi làm đại sứ tại Liên Hợp Quốc, với tâm thế là sẽ đi Washington D.C. để thành lập cơ quan liên lạc, và bàn giao nhiệm vụ ở LHQ cho người phó của tôi là ông Ngô Quang Xuân.
Và đến tháng 7.1993, Tổng thống Clinton chỉ tiến thêm được một bước nữa trong việc tiếp tục nới lỏng cấm vận, khi quyết định cho Việt Nam tiếp cận các khoản vay của Ngân hàng Thế giới (WB) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Còn việc thiết lập cơ quan liên lạc hai bên phải chờ thêm một năm rưỡi nữa (1.1995), sau khi Tổng thống Clinton dỡ bỏ hoàn toàn lệnh cấm vận kinh tế gần một năm trước đó (3.2.1994).
Công việc của ông với tư cách là Trưởng phòng Liên lạc, cho tới khi Tổng thống Bill Clinton tuyên bố bình thường hoá quan hệ Mỹ - Việt, và ông trở thành Đại biện Lâm thời?
Thì vẫn tiếp tục thúc đẩy vấn đề POW/MIA. Ngoài ra là các vấn đề nhân đạo và giải quyết những tồn đọng trong chiến tranh.
Chẳng hạn phía Mỹ đòi Việt Nam phải trả khoản tiền hơn 200 triệu USD do công dân Mỹ để lại ở Sài Gòn khi di tản vào tháng 4.1975, như nhà, ô tô, tài sản....
Chủ yếu là do họ tự kê khai và qui ra tiền thôi, nhưng đàm phán đi đàm phán lại, rút cục, chúng ta vẫn phải chấp nhận. Nhưng, đổi lại, phía Mỹ đã hứa dùng toàn bộ số tiền này để giúp Việt Nam trong lĩnh vực giáo dục, và đưa vào quỹ học bổng Fulbright, mỗi năm chi đâu khoảng 6-7 triệu USD.
Món nợ của quá khứ đã trở thành khoản đầu tư cho tương lai.
Với tư cách là người tham gia từ đầu tới cuối tiến trình bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Mỹ, và cũng là đại sứ Việt Nam đầu tiên ở Mỹ, ông nhìn nhận thế nào về tiến trình này?
Kể từ thời điểm bình thường hoá đến tận bây giờ, vị trí địa chiến lược của Việt Nam ở Đông Nam Á đã đóng vai trò quyết định trong những quyết định lớn Mỹ trong quan hệ với Việt Nam. Dù quan hệ của họ với Trung Quốc vẫn tiếp tục cải thiện, nhưng họ vẫn cần có thêm những mối quan hệ cho nặng đồng cân. Đó là lý do họ duy trì và củng quan hệ với Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan và các nước Đông Nam Á khác, họ vẫn chủ trương mở rộng quan hệ với chúng ta, từ ngoại giao sang thương mại, giáo dục, và cả an ninh, quốc phòng nữa.
Nói tóm lại, Mỹ luôn tính tới Việt Nam trong việc đàm phán và quan hệ với các cường quốc khác.
Tuy nhiên, có thể quyết sách dựa trên lợi ích là vậy, nhưng giải quyết các vấn đề nội bộ lại là chuyện khác. Cho nên tuy Clinton muốn xoá bỏ cấm vận, bình thường hoá, hay đạt thoả thuận thương mại song phương, ông vẫn cần những ông nghị sĩ cả hai đảng đứng đằng sau, nhất là những thượng nghị sĩ vốn là cựu binh John Kerry, hay John McCain, để hỗ trợ ông.
Chúng ta phải phân biệt những cản trở mang tính kỹ thuật và lợi ích thực sự của Mỹ ở Đông Nam Á, Đông Á - Thái Bình Dương. Điều này đặc biệt quan trọng trong quá trình xây dựng mối quan hệ đối tác chiến lược, và các mối quan hệ cụ thể trong từng lĩnh vực. Bởi ở mỗi thời điểm những cản trở mang tính kỹ thuật lại khác nhau.
Giải mã về "Mr. America" Nguyễn Cơ Thạch
Tôi thấy ông mấy lần nhắc tới cố Bộ trưởng Nguyễn Cơ Thạch. Ấn tượng của ông như thế nào về vai trò của ông Thạch trong tiến trình này?
Nói đến tiến trình bình thường hoá quan hệ Việt - Mỹ, về phía Việt Nam, người đầu tiên phải nhắc đến là ông Nguyễn Cơ Thạch, đặc biệt là từ khi ông trở thành bộ trưởng ngoại giao. Đồng thời là Uỷ viên BCT và Phó Thủ tướng Chính phủ, ông có vai trò quan trọng trong việc hoạch định chính sách đối ngoại của Việt Nam. Ông là người luôn chủ động tìm kiếm các kênh khác nhau để thúc đẩy tiến trình này.
Tôi còn nhớ giai đoạn 1987-1988, hai bên vẫn gặp nhau để bàn thảo những công việc liên quan tới POW/MIA, nhưng phía Mỹ yêu cầu không đưa vấn đề bỏ cấm vận vào chương trình làm việc. Họ không được phép của chính phủ Mỹ.
Ông Thạch bảo phải tìm thêm một kênh nữa để có thể nói chuyện về bỏ cấm vận và bình thường hoá. Thế là vào mùa thu năm 1988, ông đã viết thư cho ông William Sullivan, người đồng cấp với ông trong đàm phán Hiệp định Hoà bình Paris và ông vẫn giữ được quan hệ kể từ đó.
Ông Sullivan có sang London gặp Đại sứ Việt Nam tại đó. Rồi từ London, ông Thạch mời ông Sullivan sang đây, và họ có thể nói chuyện nhiều thứ, chứ không bị bó buộc như đối với trường hợp của đặc phái viên của Tổng thống, Đại tướng John Vessey.
Hội đồng Thương mại Việt - Mỹ, một tổ chức có vai trò rất quan trọng trong việc thúc đẩy vấn đề POW/MIA, cũng như xoá bỏ cấm vận với Việt Nam, tất nhiên theo một cách riêng, đã ra đời theo sáng kiến của họ. Chị Ginny Foote là thư ký của ông Sullivan, còn tôi cũng ở vai thư ký của ông Thạch nên ngồi những cuộc như thế tôi biết rất rõ.
Ông là người khá gần gũi với ông Thạch trong công việc. Nét tính cách nào của ông Thạch khiến ông thấy ấn tượng nhất?
Hài hước. Ông nói nhiều câu mà người Mỹ ngỡ ngàng.
Chẳng hạn, có một đoàn Mỹ sang đây năm 1988, khi làm việc, thấy câu chuyện hơi căng thẳng, tự nhiên ông hỏi: Các ông có thuốc nổ không? Chúng tôi muốn nhập.
Họ hỏi lại nhập làm gì, và giải thích là việc đó không hề dễ dàng theo qui định của hệ thống pháp luật của Mỹ.
Ông bảo: Tôi muốn làm nổ tung mấy nhà máy in tiền của chúng tôi đi. Lạm phát cao quá!
Cả Mỹ, cả ta cười ồ lên. Không khí trao đổi tự nhiên dịu hẳn đi.
Khi ông Nguyễn Cơ Thạch nghỉ năm 1992, tôi nghe nói có nhà báo Mỹ nhận xét ông là "the right man of the wrong time" (con người đúng ở thời điểm sai). Ông nghĩ sao về nhận xét đó?
(Cười). Tôi nghĩ đã là lãnh đạo thì không thể đi ngang bằng, hoặc đi sau, so với những người còn lại trong đoàn người. Bởi như vậy thì làm sao thực hiện vai trò dẫn dắt được. Nhưng, ngược lại, cũng đừng đi nhanh quá mà anh bị mất hút đối với đám đông.
Ý ông là ông Thạch đi quá nhanh?
Cũng khó nói là ông Thạch đi quá nhanh, hay những người còn lại đi quá chậm. Chỉ có điều, nói một cách hình tượng, trên thực tế, khoảng cách giữa ông và mọi người là 10 mét, trong khi, trong sương mù, người ta chỉ nhìn rõ được 5 mét thôi.
Trong quan hệ với một nước khác, họ cứ đồn ông Thạch là Mr. America, nhưng hoàn toàn không phải. Ông là một người rất Việt Nam, nhưng sáng suốt biết chọn bước đi đúng đắn, có lợi cho mở cửa và đổi mới kinh tế đất nước.
Xin cảm ơn ông.