Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Phở, Vịnh Hạ long và ngoại giao văn hóa


Phở, Vịnh Hạ long và ngoại giao văn hóa
Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm đã tìm ra một trọng tâm mới cần tập trung thúc đẩy trong nhiệm kỳ của mình, ngoài nhiệm vụ ngoại giao chính trị truyền thống, và ngoại giao kinh tế đã có biểu hiện chững lại do sự “lệch pha” với các cơ quan khác. Đó là ngoại giao văn hóa.

Đại sứ quảng bá phở

Thành công trong việc mang những nét hiện đại của thời hội nhập vào món phở truyền thống và khẳng định thương hiệu Phở 24 của mình tại Việt Nam, nhất là tại Hà Nội, ông Lý Quý Trung lại mang món ăn thuần Việt này sang giới thiệu ở nước ngoài như Philippines, Indonesia, Hàn Quốc, hay Singapore.
Buổi khai trương nhà hàng Phở 24 thứ 2 ở Singapore, nằm trên đường Upper Thomson, đã diễn ra vào ngày 21/12 vừa rồi với sự khác biệt hoàn toàn. Người PR cho món phở, trước gần chục quan chức là đại diện cho hai bộ du lịch và công nghiệp thực phẩm Singapore, cùng các doanh nghiệp nước này, lại là đích thân Đại sứ Việt Nam tại quốc đảo này Nguyễn Trung Thành.
Trong hơn 10 phút đồng hồ, thay vì cầm một bản diễn văn được chuẩn bị sẵn, ông Thành đã giới thiệu “vo” bằng tiếng Anh về phở, với những nét thanh tao, tinh tế mà vẫn “chất” của văn hóa ẩm thực Việt Nam, trong sự so sánh với các món ăn Ấn (quá cay), Tàu (quá nhiều dầu) đang chiếm lĩnh thị trường ẩm thực nước này.
Sự sinh động trong việc giới thiệu cách hầm xương làm nước dùng, được coi là tinh túy, là phần hồn của món phở, sao cho thật trong mà vẫn ngọt và thơm, đã được ông đại sứ giới thiệu không phải với “cẩm nang của Phở 24”, mà bằng chính kinh nghiệm và sự kỳ công của vợ ông trong những dịp tiếp những người khách nước ngoài của ông.
Câu chuyện ông kể về một lần bà vợ ông đã phải mất 6 tiếng đồng hồ nấu lại một nồi nước dùng khác, sau khi cô con gái đã vô ý để lửa hơi to khi ninh xương làm nồi nước dùng đầu tiên hơi bị vẩn đục, đã khiến các vị khách mời đặc biệt chú ý đến việc thưởng thức nước dùng khi được mời ăn thử phở sau đó. “Họ múc thìa nước phở cho lên mũi hít hít, khi húp không nuốt ngay mà ngậm lại trong một thoáng trầm ngâm, rồi gật gù, cứ y như thử rượu vang vậy”, ông Nguyễn Á Phi, một cán bộ Vụ Văn hóa Unesco (Bộ Ngoại giao) kể lại.
Ông Lý Quí Trung hy vọng rằng trong kỳ khai trương nhà hàng tiếp theo ở Singapore vào đầu năm tới, những vị đại sứ nước ngoài, do ông đại sứ Thành đứng ra mời giúp, cũng sẽ có mặt để thưởng thức và quảng bá phở 24 cho các công dân nước họ đang làm ăn tại Singapore, chứ không như lần vừa rồi họ về nước đón Giáng sinh và Năm mới hết.

Phát động bầu chọn Vịnh Hạ long

Hai ngày sau khi giúp quảng bá Phở 24 tại Singapore, Bộ Ngoại giao lại tham gia vào một sự kiện văn hóa khác, khi phối hợp cùng Bộ Văn hóa – Thể thao – Du lịch và UBND Quảng Ninh tổ chức lễ phát động bầu chọn Vịnh Hạ Long là kỳ quan thiên nhiên thế giới mới tại Khách sạn Sheraton (Hà nội).
Bộ Ngoại giao, với một mạng lưới các đại sứ quán và tổng lãnh sự quán trên thế giới, và mối quan hệ với các cơ quan đại diện nước ngoài tại Việt Nam, được kỳ vọng sẽ giúp Việt Nam vươn tay tới những lá phiếu ủng hộ của đa số kiều bào tại nước ngoài, bạn bè người nước ngoài của họ, cũng như người nước ngoài yêu mến Việt Nam.
Theo Đại sứ Phạm Sanh Châu, Vụ trưởng Vụ Văn hóa Unesco, bên cạnh những brossure, đĩa VCD, giới thiệu về Vịnh Hạ Long bằng nhiều thứ tiếng đang được chuẩn bị in để chuyển ra các cơ quan đại diện ngoại giao ở nước ngoài làm tài liệu tuyên truyền, Bộ Ngoại giao đang chuẩn bị xuất bản sách ảnh về Hạ long để mang đi tặng trong những dịp lãnh đạo cao cấp của Việt Nam ra nước ngoài trong năm 2008 này.
Được biết, nhiều khả năng bộ sưu tập ảnh mới nhất về Vịnh Hạ long, trong đó có những phát hiện mới về địa tầng, được hai nhiếp ảnh gia là Dương Minh Long và Quang Anh bỏ ra hai tháng trời đi khắp các hang động để chụp, sẽ được chọn để in sách cho mục đích trên.      

Ngoại giao văn hóa

Một nét mới trong nhiệm kỳ ngoại trưởng của Phó Thủ tướng Phạm Gia Khiêm là ngoại giao văn hóa. Theo đó, bất kỳ họat động đối ngoại nào cũng phải có 3 đề án chuẩn bị về chính trị, kinh tế và văn hóa.
Bộ Ngoại giao đã có những vốn liếng nhất định khi quyết định tham gia vào lĩnh vực này, khi trong 2 chuyến thăm của Chủ tịch nước đi Mỹ và đi Nhật trong năm 2007 họ đã kịp tổ chức trong thời gian rất ngắn hai họat động tương đối có hiệu quả là “Triển lãm văn hóa lúa nước” và Chương trình biểu diễn nhã nhạc.
Theo ông Phạm Sanh Châu, họat động ngoại giao văn hóa, bên cạnh việc giúp các họat động văn hóa của các bộ ngành, địa phương được tổ chức ở bên ngoài, như tổ chức các sự kiện văn hóa cùng với hội chợ triển lãm, Bộ Ngoại giao sẽ trực tiếp tham gia cùng tổ chức các họat động văn hóa nước ngoài tại Việt Nam giúp cho các nước tổ chức họat động văn hóa ở Việt Nam.
Sự kiện văn hóa lớn nhất mà Vụ Văn hóa Unesco của ông Châu trực tiếp tham gia là cùng phía Nhật tổ chức một đại nhạc hội Nhật – Việt vào cuối tháng 5 tới, nhân kỷ niệm 35 năm thiết lập quan hệ ngoại giao giữa hai nước. Được biết đại nhạc hội này sẽ có sự tham gia của 8 ca sĩ Nhật và ngần ấy ca sĩ Việt Nam cho 2 đêm biểu diễn tại Hà Nội và TP HCM.
Theo ban tổ chức, đây là một dịp rất tốt để quảng bá ngay tại chỗ hình ảnh của Việt Nam, trong đó có các ca sĩ, sang Nhật. Bởi ngoài việc thu đĩa CD các bài hát của ca sĩ để quảng bá tại cả nước, những hình ảnh của đại nhạc hội sẽ được Đài Truyền hình Việt Nam ghi hình và chuyển cho phía Nhật phát lại. Ngoài ra, hãng truyền hình NHK của Nhật cũng có kế hoạch cử 2-3 nhóm quay phim vào để làm tin thời sự liên quan đến họat động này.
“Đối với các sự kiện văn hóa tổ chức năm nay bên Nhật, chẳng hạn, chúng tôi sẽ không làm rầm rộ một đợt, kiểu “no dồn, đói góp”. Có thể từng địa phương kết nghĩa sẽ thay nhau tổ chức Những ngày Việt Nam ở Nhật. Hoặc chỉ mỗi việc ông Dương Trung Quốc nói về phố cổ, hay nhạc sĩ Trần Văn Khê nói về âm nhạc Việt Nam, cũng có thể coi là những sự kiện độc lập”, ông Châu “bật mí”.        
“Chúng tôi sẽ không đi vào lối mòn như trước, mà sẽ được tổ chức sao cho có hiệu quả nhất, thậm chí ít tốn ngân sách nhất. Bởi tại sao lại không xã hội hóa những họat động này nhỉ?”, ông Châu đặt vấn đề.
Và ông hoàn toàn có lý, khi Bộ ngoại giao đã khá có kinh nghiệm trong việc xã hội hóa việc tuyên truyền quảng bá cho Tuần lễ APEC 14 với sự tham gia của các doanh nghiệp, hay “Triển lãm văn hóa lúa nước” bên Mỹ cũng do doanh nghiệp tài trợ. Ngay bản thân Lễ phát động bầu chọn Vịnh Hạ Long hôm 23/12 vừa rồi cũng do hãng rượu Hennessy tham gia tài trợ. 

Lưu Hương

Nước rút đi, nỗi lo còn lại


Nước rút đi, nỗi lo còn lại
Trận lụt lịch sử ở Hà Nội đã gần như đi qua, để lại nhiều bài học cho chính quyền và người dân ở cái nơi được coi như có trình độ phát triển và văn mình nhất nhì đất nước trong việc ứng phó với thiên tai bất thường. Và những bài học này không chỉ nằm ở công tác cứu trợ trong lúc mưa lụt, mặc dù nó liên quan trực tiếp tới sinh mệnh con người. Chẳng gì thì cũng đã có hơn hai chục người đã thiệt mạng ngay giữa Thủ đô.

Câu chuyện hai bà cháu bà bán nước
Bà Nguyễn Thị Nhiên, có quán nước trà trên đường Thái Thịnh, quận Đống  Đa, ra Hà Nội làm dâu từ năm 20 tuổi. 50 năm qua bà đã chứng kiến đủ những đổi thay ở thành phố này. Những hồ ao, ruộng rau muống được thay thế dần bởi những đường phố mới, khu những chung cư,  hay những tòa cao ốc...
Nghề làm thuyền thúng của làng Sái quê bà, thuộc xã Quảng Minh, huyện Thanh Oai (Hà Tây cũ, Hà Nội mới), cũng mai một dần theo quá trình đô thị hóa ở Hà Nội. “Ngày xưa, khu Thái Thịnh này, rồi Hồ Tây, Thanh trì… toàn mua thuyền thúng của làng tôi để giăng lưới bắt cá, hay hái rau. Cả làng tôi hồi đó chỉ làm mỗi nghề đan thuyền nan”, bà Nhiên kể lại, và cho biết thêm cả làng nay chỉ còn 1-2 nhà đan thuyền, còn chuyển sang nuôi lợn, hay làm thuê linh tinh. 
Nhìn cảnh Hà Nội lụt như mấy ngày vừa rồi, bà Nhiên lại thấy tiếc cái nghề đan thuyền nan của làng mình. “Giá mà có nhiều thuyền thúng để mang hàng đi cứu trợ cho người dân bị cách ly trong các khu bị ngập lụt có phải tốt không, các bác nhỉ? Tôi nghe nói có những người phải mua gói mỳ tôm với giá 20-30 ngàn đồng”, bà chép miệng.
“Bà già lầm cẩm cứ hay lo. Không có thuyền nan thì đã có thuyền tôn, thuyền cao su. Chỉ có điều họ có muốn cứu trợ cho dân như các tỉnh khác họ vẫn làm khi có lũ lụt hay không thôi, bà ơi”, người cháu trai trong quê ra lấy nước gạo góp chuyện.
Vai trò chính quyền, đoàn thể
Mặc dù chính quyền Hà Nội đã tuyên bố về cơ bản Hà Nội đã hết lụt, nhưng có một khu vực cách Hồ Hoàn Kiếm chỉ dăm cấy số vẫn còn có cả ngàn hộ dân sống trong nước ngập. Đó là phường Ngọc Thụy, huyện Gia lâm, nơi cách đây dăm bảy năm luôn xuất hiện trong các trang báo, hay trang web buôn bán nhà đất. Thế mà suốt cả một tuần cái nơi mà mực nước lúc cao nhất đạt mức 1,5-2 mét này hoàn toàn bị lãng quên cả trong các báo cáo của ban chỉ đạo phòng chống lụt bão, lẫn trên hệ thống truyền thông đại chúng.
“Nếu thời tiết thuận lợi, không mưa nữa, tôi đảm bảo rằng nước sẽ rút hết khỏi phường Ngọc Thụy sau một tuần nữa”, ông phó Chủ tịch phường Nguyễn Nam Chính nói với NCĐT vào tối thứ 5 vừa rồi.
Sở dĩ có chuyện như vậy, bởi cái phường năm sát chân đê sông hồng và có diện tích bằng cả quận Hoàn Kiếm này chỉ có một cống thoát nước duy nhất phía dưới đường tàu hỏa (chạy qua cầu Long biên), còn hệ thống bơm nước phía sông Đuống chỉ được thiết kế để phục vụ tưới (cho nông nghiệp) mà không tiêu. Một lý do nữa là hệ thống ao hồ vừa bị người dân lấp đi bán đất, vừa bị chính quyền chủ động cho lấp để bán lấy tiền phát triển hạ tầng.
Ông Chính giải thích rằng cống thoat chậm là do quá nhỏ và bị tắc. Nhưng người dân ở Ngọc Thụy không nghĩ vậy.
Ông Nguyễn Á Phi, một cư dân ở đây, nói: “Chúng tôi được biết cống xả nước từ Ngọc Thụy sang khu vực phường Ngọc Lâm có đường Nguyễn Văn Cừ được mở rất nhỏ là để giải phóng ách tắc cho khu Ngọc Lâm có đường Nguyễn Văn Cừ nối Hà Nội với quốc lộ 5 và quốc lộ 1A. Người dân chúng tôi sẵn sàng hy sinh cho mạch máu giao thông quan trọng này, cũng như hệ thống nhà máy, khu công nghiệp bên đó. Nhưng ít nhất đại diện chính quyền quận phải có một lời hỏi thăm, hay động viên chúng tôi, chứ đằng này chẳng thấy bóng dáng họ đâu.”
Mặc dù vẫn cố tiến hành một cuộc họp đã lên lịch trước về một vấn đề đã hết nóng là tôn giáo vào sáng 1/11, khi nước bắt đầu dâng cao, cuối cùng các lãnh đạo thành phố đã đến một số điểm nóng để chỉ đạo cứu lụt. Sự có mặt của họ, kéo theo giới truyền thông, chí ít cũng cho người dân thấy họ không đơn độc, và cũng cho thấy sự sẵn sàng đối phó những tình huống khẩn cấp như thế này được chuẩn bị như thế nào.
Thế nhưng, nhiều thuộc cấp của họ, nhất là ở cấp phường đã từ chối cái cơ hội thể hiện vai trò của mình với dân.
Chị Mai Thị Hạnh, thuộc phường Thịnh Liệt, quận Hoàng Mai, một trong những điểm bị ngập nặng nhất ở Hà Nội, cho biết: “Tôi sống ở đây đã gần 20  năm rồi, và chưa bao giờ chúng tôi thiếu bất cứ khoản đóng góp nào mà phường yêu cầu giúp đỡ bà con các nơi khi gặp thiên tai. Nhưng, khi chúng tôi bị ngập trong nước và ngày nào cũng phải bỏ 60 ngàn đồng thuê thuyền ra chợ mua thực phẩm, thì chẳng thấy chính quyền, đoàn thể đâu. Họ tồn tại để làm gì, hay chỉ để thúc dân thực hiện nghĩa vụ nọ, nghĩa vụ kia thôi?”
Còn ở khu vực đô thị mới Trung Hòa – Nhân Chính, những người đại diện tổ dân phố phải tự đi từng nhà kêu gọi nhà nọ san sẻ nước sạch, lương thực dự trữ cho nhà kia. Họ chỉ thấy mặt cán bộ phường sau 5 ngày, khi nước đã gần rút hết, để nhận chỉ thị huy động dân đi thu dọn rác thải.
Một điều đáng lưu ý nhất là hệ thống loa phường ở Hà Nội, vốn nổi tiếng không chỉ trong nước mà còn xuất hiện trên truyền thông quốc tế như một công cụ tuyên truyền hữu hiệu ở cấp cơ sở, đã hầu như tắt tiếng ngay sau khi trời đổ mưa.
“Chính lúc này người dân cần thông tin về thời tiết, nhất là ở những nơi bị cắt điện không xem được ti vi, rồi chỉ dẫn về những đoạn đường ngập nặng để người dân tránh không đi. Chứ còn lúc bình thường, mọi tin tức, chủ trương chính sách chúng tôi đều có thể biết qua đài báo được”, ông Đỗ Trung Tân, một bí thư chi bộ ở phường Trung Hòa, bức xúc nói.
Sức khỏe đô thị quan trọng hơn diện mạo bên ngoài
Kiến trúc sư Việt Kiều Bùi Kiến Quốc, người đã có nhiều góp ý sắc sảo cho việc qui hoạch phát triển đô thị ở Việt Nam, nói: “Trận lụt vừa rồi đã cho thấy rõ sự quan tâm lệch lạc của chính quyền đô thị ở Việt Nam. Họ coi trọng phát triển bề nổi, bề ngoài với các tòa nhà, mà không để ý tới những những gì đang diễn ra trong cuộc sống đô thị”.
Ông Quốc cho rằng, đô thị giống như một cơ thể sống, nó có một số thành phần. Về ngoại hình, hay còn gọi là phần sĩ diện, phần giới thiệu ra bên ngoài, người ta thấy, thành phố có thể đẹp với hóa trang, hay nhuộm tóc vàng, tóc đỏ… Nhưng phần trong là trái tim, hệ thống mạch máu, thần kinh, nó quyết định cơ thể sống đó có khỏe mạnh, lành mạnh hay không. Vấn đề hệ thống giao thông, hệ thống cấp thoát nước, cấp điện…, theo ông Quốc, thuộc về mạch máu. Khi mạch máu yếu mà không được chăm sóc, thì có sự cố sẽ dẫn tới vỡ tim, hay thiếu máu lên não, tức là tác động xấu đến văn hóa đô thị.
Ông Quốc đưa ra một giả thiết rằng nếu hai năm nữa, khi Hà Nội kỷ niệm 1000 Thăng Long – Hà Nội, có một trận mưa tương tự, sẽ chẳng có người dân nào đi xem hội, và bao nhiêu công trình chuẩn bị cho lễ hội sẽ lại bị ngập và phá hủy trong nước.
“Cơ thể khỏe mạnh, có dư tiền mà trang điểm càng hay. Nhưng nếu phải lựa chọn một trong hai, chính quyền Hà Nội nên ưu tiên tới sức khỏe. Mạch máu lưu thông, cơ thể khỏe mạnh, tinh thần phấn chấn, tự nó tạo ra vẻ đẹp tự nhiên. Chứ son phấn đắp lên cái mặt thiếu máu, một trận mưa là trôi tuột hết”, ông Quốc kết luận.
 Lưu Hương

Không có cam kết từ nhà tài trợ lớn nhất


Hội nghị CG 2008: Không có cam kết từ nhà tài trợ lớn nhất 
Văn phòng JICA ở Tanzania đã tổ chức cho Tiến sĩ Adelhelm J. Meru, Tổng Giám đốc phụ trách các khu chế xuất của Tanzania, sang Việt Nam lần này với hai mục tiêu rõ ràng. Thứ nhất là học hỏi kinh nghiệm sử dụng nguồn vốn ODA của Nhật sao cho hiệu quả nhất, bởi quốc gia Đông Nam Á này, theo TS Meru, được coi là rất thành công trên khía cạnh này. Thứ hai là cố gắng thu hút đầu tư vào các khu chế xuất của ông.
Ông có thể hài lòng bước đầu với mục tiêu thứ hai, bởi nhiều doanh nghiệp Việt Nam đang có ý định đi tìm thị trường mới, trong bối cảnh những thị trường truyền thống và thị trường nội địa bị thu hẹp do suy thoái kinh tế. Nhưng khó có thể nói ông không khỏi ngỡ ngàng khi được nghe bài phát biểu của Đại sứ Nhật bản tại Việt Nam Mitsuo Sakaba tại phiên khai mạc Hội nghị Nhóm tư vấn các nhà tài trợ vào sáng 4/12 vừa rồi.
PCI làm khó ODA 
Đại sứ Sakaba nói: “Sẽ khó để lấy lại sự ủng hộ từ công chúng Nhật Bản thúc đẩy viện trợ thêm cho Việt Nam, và chúng tôi không thể hứa những khoản vay bằng đồng yên mới cho đến khi Ủy ban hỗn hợp giữa hai nước thực hiện các giải pháp chống tham nhũng có ý nghĩa và hiệu quả.”
Thông điệp của người đại diện cao nhất của chính phủ Nhật Bản tại Việt Nam đã rõ ràng: Họ chờ những động thái mạnh mẽ hơn từ phía Việt Nam trong  việc xử lý vụ tai tiếng tham nhũng trong dự án Đại lộ Đông Tây, trong đó các quan chức bị đưa ra tòa xét xử của Công ty Tư vấn Quốc tế Thái bình dương (PCI) đã khai ra số tiền hối lộ cho trưởng ban quản lý dự án này là ông Huỳnh Ngọc Sĩ ít nhất là 820 ngàn USD.
Còn nhớ, ngay sau khi lãnh đạo Ủy ban Nhân dân TPHCM có quyết định tạm đình chỉ chức vụ đối với ông Huỳnh Ngọc Sĩ, nhằm tạo điều kiện cho cơ quan điều tra kết luận vụ việc hối của công ty PCI liên quan đến ông Sĩ, các cơ quan truyền thông của Nhật đã đồng lọat đưa tin, coi đây là dấu hiệu của việc khởi tố vụ án và sự vào cuộc của cơ quan điều tra. Báo Yomiuri đã bình luận rằng “yêu cầu điều tra của viện Công tố khu vực Tokyo đối với ông Huỳnh Ngọc Sĩ đã không được phía Việt Nam tích cực phối hợp, nhưng hôm qua họ đã bắt đầu cuộc điều tra”. Báo Mainichi thì hy vọng rằng “cơ quan điều tra Việt Nam sẽ tiến hành việc này một cách nhanh chóng”.
Cũng vào thời điểm đó, theo một chuyên gia Nhật Bản tại Hà Nội, đề nghị được giấu tên, quyết định này của phía Việt Nam, được đưa ra trước hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ khoảng 2 tuần, sẽ giúp chính phủ Nhật Bản dễ dàng hơn trong quyết định tiếp tục cam kết ODA cho Việt Nam trong năm tài khóa 2009. “Nhiều khả năng cam kết cho năm tới sẽ giảm, do suy thoái kinh tế của Nhật Bản. Nhưng nếu không có động thái vừa rồi của phía Việt Nam, số tiền cam kết sắp tới chắc chắn sẽ giảm sút nghiêm trọng”, chuyên gia nói trên bình luận.
Cũng theo vị chuyên gia này, khi sang làm việc với các cơ quan chức năng Việt Nam về vụ PCI cách đây hai tháng, Cục trưởng Cục Hợp tác quốc tế, Bộ Ngoại giao Nhật Bản, Kitera Masato đã yêu cầu phía Việt Nam bắt ông Huỳnh Ngọc Sĩ để điều tra và đưa ra các biện pháp chống tham nhũng liên quan đến các dự án ODA. Đó là những điều kiện cơ bản cho việc chính phủ Nhật Bản tiếp tục cam kết các khoản vay ưu đãi đối với Việt Nam, cũng như giải ngân tiếp tục những dự án ODA mà cũng trong khoảng thời gian này phía Nhật đã yêu cầu phía Việt Nam ngừng giải ngân.
Thế nhưng, động thái tiếp theo mà dư luận, công luận và chính phủ Nhật chờ đợi lại không diễn ra, chí ít là tính đến thời điểm đại diện của Việt Nam và Nhật Bản ngồi vào bàn đàm phán ODA. Không có lệnh khởi tố nào được công bố, không có ai bị bắt để thẩm vấn, phục vụ điều tra.
Chỉ có một thông tin đăng tải trên các phương tiện truyền thông Việt Nam là ông Huỳnh Ngọc Sĩ nhập viện vì đột quị, mà sau đó tờ Văn hóa – Thể thao số ra ngày 5/12 đã phủ nhận.  Báo này đã dẫn lời cô con gái của ông Sĩ trả lời qua điện thoại ngày 23/11 (4 ngày sau khi ông bị đình chỉ chức vụ) rằng “ba tôi hoàn toàn khỏe mạnh”.
Thêm vào đó, sự im lặng của người phát ngôn Bộ Công an, cũng giống như trong vụ PMU 18, đã không giúp khẳng định được quyết tâm của Thủ tướng khi trả lời trước quốc hội, cũng như trước các nhà tài trợ sau đó, ngoài việc, vô hình trung, tạo thuận lợi có lợi cho các bị cáo Nhật tự bào chữa rằng “họ đã hành động vì hoàn cảnh ép buộc”. Các quan chức PCI đã khai trước tòa rằng “ông Huỳnh Ngọc Sỹ đã đòi lại quả 15% giá trị dự án, và họ đã phải mặc cả xuống 10%”.
Bình luận về quyết định này của Đại sứ Nhật, Đại sứ Việt Nam tại Nhật Bản Nguyễn Phú Bình nói: Tuyên bố của Đại sứ Nhật Bản tại Việt Nam là thể hiện quyết tâm của họ muốn làm đến nơi đến chốn. Nhật đã giúp ta các dự án mà các nước khác không giúp được, như các dự án cơ sở hạ tầng. Nhật rất tự hào vì họ giúp đỡ được Việt Nam như vậy.”
Cam kết viện trợ ODA đã bị ngừng lại, theo như tuyên bố của Đại sứ Nhật, cho thấy, có lẽ, niềm tự hào của người Nhật trong quan hệ với Việt Nam đã bị tổn thương nặng.   
Những nguồn hy vọng khác?
Trong giờ giải lao, ngay cả sau khi đã nghe tuyên bố của Đại sứ Nhật, Bộ trưởng Kế hoạch – Đầu tư Võ Hồng Phúc vẫn cứng cỏi nói với Nhịp Cầu Đầu Tư: “Năm nay, chúng ta vẫn hy vọng nhận được cam kết xấp xỉ năm trước”.
Có thể, ông Phúc muốn diễn giải rằng phía Nhật mới tạm treo cam kết ODA của họ để cảnh cáo, và khi nào cơ chế phối hợp chống tham nhũng giữa hai bên được thực hiện, là họ lại nới hầu bao ngay. Đằng nào thì cũng chẳng giải ngân được cam kết trong ngày một ngày hai. Có thể ông cũng hy vọng các nhà tài trợ đa phương như Ngân hàng Thế giới (WB), Ngân hàng Phát triển châu Á, hay tập hợp các nhà tài trợ song phương EU, sẽ chí ít giữ nguyên cam kết, hay bổ sung phần nào cho khoản thiếu hụt cả tỷ USD từ nhà tài trợ lớn nhất cho đến nay là Nhật Bản.
Ông cũng có lý khi các nhà tài trợ đa phương như WB và ADB không phải chịu những sức ép như Nhật Bản đã phải chịu từ những người đóng thuế và đại diện chân chính của họ là quốc hội.
Hơn nữa, WB đã từng “thoát hiểm” ngoạn mục cách đây hai năm, khi điều tra từ phía Việt Nam kết luận rằng trong vụ PMU 18 những kẻ tham nhũng đã chưa đủ “liều lĩnh”, hay vẫn quá đủ “khôn ngoan”, để rút tiền của nước ngoài để đi đánh bạc, làm ảnh hưởng đến hình ảnh của Việt Nam trước WB và qua đó khép lại cánh cửa của két bạc này.
Trong khi đó, các dự án của ADB chưa gặp tai tiếng gì gọi là lớn cho tới nay. Hơn nữa, nhiều dự án hạ tầng của ADB tại Việt Nam nằm trong một chiến lược lớn liên kết hành lang Đông – Tây, hoặc kết nối trục Nam Bắc giữa Trung Quốc và ASEAN, chứ không riêng gì Việt Nam hưởng lợi.
Đối với các nhà tài trợ từ châu Âu, ngoài việc đòi hỏi chính phủ Việt Nam phải đẩy mạnh hơn nữa tính minh bạch trong thực hiện các dự án ODA, và một phần nào đó với tư cách một khối thống nhất là cải thiện dân chủ - nhân quyền, họ cũng chưa gặp những rắc rối như người Nhật. Lý do là các dự án do các nước EU tài trợ tập trung nhiều vào xóa đói giảm nghèo, hay trong các lĩnh vực xã hội.
“Các dự án của Ai len tại Việt Nam cho đến nay vẫn được thực hiện tốt, chứ không như người Nhật, bởi các dự án hạ tầng thực sự là phức tạp”, Đại sứ Ai Len tại Việt Nam Maeve Collins nhận xét với NCĐT bên lề hội nghị.
  Với tư cách người được chính phủ giao nhiệm vụ chủ trì đàm phán ODA của phía Việt Nam, ông Võ Hồng Phúc vẫn phải nói theo quan điểm “còn nước còn tát”. Nhưng, thực sự, tát được đến đâu thì hoàn toàn nằm ngoài quyền hạn của ông.     
Huỳnh Phan (Nhịp cầu Đầu tư)

Lịch sử cần phải được nhận thức lại

Lịch sử cần phải được nhận thức lại

LTS: Vào 18-19.10.2008 tới, tại Thành phố Thanh Hóa sẽ diễn ra hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 19”, nhân dịp kỷ niệm 450 năm ngày Chúa Nguyễn Hoàng cầm gươm đi mở rộng bờ cõi về phía Nam.
Đây là một cuộc hội thảo có qui mô lớn nhất từ trước đến nay về chủ đề này với 88 báo cáo của các học giả trong và ngoài nước. Giới sử học nhìn nhận rằng với sự đánh giá đầy đủ, công bằng và khách quan về giai đoạn này, nhất là triều Nguyễn, một khớp nối quan trọng trong giai đoạn chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, lần đầu tiên lịch sử Việt Nam sẽ trở nên liền mạch.
Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với nhà sử học Dương Trung Quốc xung quanh chủ đề này. (Bản đăng trên SGTT là bản rút gọn, vì lý do kỹ thuật thuần túy.) 
Xin ông cho biết việc nhận thức lại vai trò của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được đặt ra vào thời điểm nào, và trong bối cảnh nào?
 Thứ nhất, việc nhận thức lại được đặt ra trong công cuộc đổi mới, với thực tiễn của đổi mới và nguyên lý ban đầu là “dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật”. Nguyên lý đó ít nhất là một động lực với những người làm sử để nhìn nhận lại giai đoạn lịch sử đó. Thứ hai, lịch sử là một quá trình nhận thức, hay như ta hay nói “sự kiện xảy ra một lần, nhưng nhận thức là một quá trình”, bởi ở đó có các yếu tố về khoa học, trình độ hiểu biết, và lợi ích. Những yếu tố đó khiến cho một thời kỳ chúng ta đánh giá cái giai đoạn lịch sử thời Nguyễn không công bằng, không khách quan, và quan trọng là không chính xác.
Có một lý do rất dễ hiểu là khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đặt ra hai mục tiêu là “phản đế và phản phong”, đương nhiên trong cái quan niệm hết sức xơ cứng như vậy về chế độ phong kiến chắc chắn Vương triều Nguyễn là cái đã qua, thối nát và phản tiến bộ. Như vậy, không chỉ có sự đối xử không công bằng với triều Nguyễn, một triều đại phong kiến cuối cùng và là đối tượng trực diện của cách mạng, mà ngay cả những di sản, văn hóa dân tộc, như đền thờ, chữ Hán…, cũng có thời đã bị đối xử vừa bất công vừa đầy lầm lẫn.
Có lẽ chỉ hình tượng các anh hùng dân tộc là còn lại. Nhưng họ cũng lại quên rằng những anh hùng dân tộc đó cũng là thuộc phạm trù phong kiến, thuộc phạm trù những tầng lớp xã hội mà sau này chúng ta qui chiếu vào trong quan điểm đấu tranh giai cấp, bởi họ cũng thuộc giai cấp địa chủ phong kiến.
Hơn nữa, cũng phải hiểu một điều là phần lớn đội ngũ sử học của chúng ta là một đội ngũ sử học công chức, trong đó có nhiều người là đảng viên, làm cho các cơ quan nhà nước nên có cái định hướng chính trị rất rõ. Họ đã bị những định kiến chính trị, thậm chí là những cấm kỵ, chi phối, nên đã gặp khó khăn trong việc tiếp nhận hiện thực khách quan. Việc sử học phục vụ chính trị là chuyện đương nhiên, khó tránh, nhưng vấn đề là có phục vụ chính trị một cách khách quan và khoa học hay không mà thôi.
Khi có công cuộc đổi mới, chúng ta có cơ hội đánh giá lại, và nhất là khi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và chống ngoại xâm qua rồi, thì hơn bao giờ hết chúng ta càng phải đề cao khối đại đoàn kết toàn dân. Có rất nhiều vấn đề của lịch sử đã nảy sinh ra từ đó.
Trong khi đó, Trung Quốc đã hóa giải những vấn đề này rất thành công.  Tôi không phải là một nhà nghiên cứu về Trung Quốc. Nhưng tôi cho rằng họ khôn ngoan. Từ chủ nghĩa đại Hán tồn tại một thời mà trong nhận thức nó chuyển sang Đại Trung Hoa, tức là họ biết hóa giải những vấn đề của lịch sử. Nếu đặt chủ nghĩa Đại Hán, chắc chắn họ coi thời nhà Nguyên và nhà Thanh là nỗi nhục lớn vì bị những tộc người ban đầu bị coi là rợ cai trị. Nhưng văn hóa Hán nó mạnh tới mức những kẻ cai trị cũng bị Hán hóa. Bây giờ lợi ích quốc gia của họ là Đại Trung Hoa nên nó đảo ngược, chính nhà Nguyên và và Thanh lại được coi là của họ, là di sản, và được đề cao rất mạnh mẽ. 
Những yếu tố “khoa học, trình độ hiểu biết và lợi ích” mà ông đề cập đã thay đổi như thế nào để dẫn đến cái nhận thức như hiện nay, ít nhất là trong giới sử học?
Chính lợi ích phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu. Ví dụ như vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Khi chúng ta phải bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta phải nghĩ đến ai là người có đóng góp đầu tiên trong việc mở mang phần lãnh thổ ấy, ai là người đã tạo ra chứng lý để ngày nay chúng ta có cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền. Đến lúc này chúng ta phải nói đến thời kỳ các chúa Nguyễn và vua Minh Mạng. Các chúa Nguyễn những người đầu tiên tổ chức những đội quân ra quản lý những vùng biển đảo xa xôi như thế, và những họat động đó trở thành chứng lý rất thuyết phục về chủ quyền của Việt Nam ở đó. Còn vào thời kỳ vua Minh Mạng tấm bản đồ Đại Nam có vẽ rất rõ ràng về quần đảo Trường Sa.
Những điều đó ngoài vai trò bằng chứng còn nói lên trình độ quản lý và phương cách bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của cái triều đại mà lâu nay bị coi là lạc hậu, là không đại diện cho lợi ích dân tộc. Từ cái “vỡ lẽ” ấy chắc chắn người ta sẽ có thể có cái nhìn nhận khách quan, công bằng hơn.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử cũng ngày càng khách quan hơn đối với những vấn đề liên quan đến tư liệu lịch sử. Rõ ràng là trong một thời gian dài, giới sử học chúng ta bị cuốn hút vào cuộc chiến tranh. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chúng ta khó có thể tiếp cận với các học giả nước ngoài, nguồn lưu trữ nước ngoài và phương pháp nghiên cứu của nước ngoài. Sự tham gia của các sử gia nước ngoài trong những hội thảo về chủ đề này cũng đóng góp nhiều cho nghiên cứu của chúng ta, khiến nó thêm khách quan, bởi họ không bị ràng buộc bởi nguyên lý chính trị và có điều kiện tiếp cận tư liệu đang lưu trữ ở nước ngoài.
Nhận thức chung trong giới sử học về vai trò của triều Nguyễn hiện nay như thế nào? Họ để lại những di sản, và bài học gì?
Cái lớn nhất của nhà Nguyễn làm được là nối tiếp được các thế hệ trước, bao gồm các chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn trong việc củng cố được chủ quyền lãnh thổ quốc gia, cho đến giữa thế kỷ 19 khi người Pháp đô hộ. Lúc đó, nước Đại Nam đã phát triển đến một trình độ tương đối cao trong khu vực.
Đánh giá nhà Nguyễn, đặc biệt trên lĩnh vực giữ nước, chúng ta có nhiều điều phải suy nghĩ, phải thừa kế. Tôi nói chẳng hạn vấn đề quản lý đất đai là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc gia mọi thời đại, và đến bây giờ chúng ta thấy thực tiễn nó khó khăn thế nào. Vậy tại sao trong một khoảng thời gian tồn tại ngắn như vậy mà triều Nguyễn đã để lại cho chúng ta một di sản rất lớn về địa bạ? Lúc đó làm gì có định vị vệ tinh, làm gì có photocopy, làm gì có máy ảnh, máy scan, mà tại sao họ có thể vẽ từng thửa đất một? Họ không có phương pháp hiện đại như hiện nay, nhưng về nguyên lý quản lý thì trình độ rất cao, đảm bảo được tính ổn định. Từng thửa đất của quốc gia được đo vẽ, được lưu trữ và được sử dụng, trong thời gian rất ngắn với một lực lượng rất nhỏ. Năng lực quản lý đất đai là cái chúng ta phải học.  
Hay cái việc chia đơn vị hành chính cũng vậy. Rõ ràng sau này người Pháp khi cai trị Việt Nam cũng kế thừa chứ không gây đảo lộn lớn. Sau một thời kỳ đảo lộn tất cả lên, chúng ta mới nhận ra rằng cách chia của các cụ ngày xưa là hợp lý, và người Pháp đã rất khôn ngoan khi kế thừa.
Kinh thành Huế là kinh thành của triều Nguyễn, nhưng là tài sản của đất nước, là thành tựu của nhân dân, của một thời đại trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, mà hiện nay chúng ta đang được thừa hưởng.
Chúng ta cũng đã làm chuyện khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới, và nhiều cái không làm được. Vậy mà tại sao một doanh điền sứ như ông Nguyễn Công Trứ chỉ trong một thời gian rất ngắn có một vài năm thôi mà lập ra hẳn hai cái huyện là Kim Sơn và Tiền Hải, và cho đến bây giờ vẫn ổn định và phát triển? Hệ thống thủy lợi làm từ thời đó vẫn tuyện vời, trong khi đó chúng ta mất rất nhiều công sức, tiền của cũng không làm được.
Hay kênh Vĩnh Tế, được chúng tôi chọn nghiên cứu và sau này ông Võ Văn Kiệt rất quan tâm. Một công trình cách đây mấy trăm năm, trong điều kiện công nghệ, kỹ thuật hồi đó, đã được xây dựng rất nhanh và rất hiệu quả (phát huy đến tận bây giờ). Hiệu quả ở đây không chỉ giải quyết vấn đề tưới tiêu và chống mặn cho đồng bằng, mà còn giải quyết cả vấn đề ngoại giao, phòng thủ quốc gia. Kênh Vĩnh Tế bây giờ thực tế là một bằng chứng về chủ quyền của chúng ta.
Liên quan đến vấn đề tập hợp lưu dân, đến thăm mộ ông Thoại Ngọc Hầu, người ta thấy ngoài hai bà vợ yêu ra có rất nhiều nghệ sỹ tuồng, nghệ sỹ khác mà ông kéo theo vào. Đấy là thái độ trân trọng và sử dụng trí thức. Ông ấy đã ý thức được việc đưa văn hóa vào để phát triển các vùng đất mới. Phục vụ cho những người phu dịch còn có cả văn hóa.
Trong khi chúng ta đấu tranh chống tham nhũng, chống tư tưởng bè phái cát cứ, chúng ta không thể không nhắc đến Luật Hồi Tỵ, một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức bộ máy chính quyền thời phong kiến, bắt đầu được đặt ra từ thời vua Lê Thánh Tông và hoàn thiện vào thời vua Minh Mạng, tiếp tục được thực hiện vào các triều vua Nguyễn sau đó. Theo luật này, những người có cùng quan hệ huyết thống, đồng hương, thầy trò, bạn bè…không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương, công sở. Nếu gặp một trong những trường hợp trên thì phải tâu báo lên để thuyên chuyển những người thân thuộc đó đi các nơi khác nhau. Hay trong TP HCM đang diễn vở “Lê Văn Duyệt”, người đã sẵn sàng chém bố vợ vua vì lộng hành.
Vì sao các cụ thành công, bởi vì các cụ nhà mình khi làm bao giờ cũng kế thừa di sản của quá khứ, di sản trong dân gian, trong đời sống xã hội, và trong trí tuệ. Còn chúng ta đi từ cái đứt đoạn, chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể xóa bỏ toàn bộ cái cũ để xây dựng lại toàn bộ thế giới mới. Bây giờ chúng ta vỡ mộng, mới ngả ngửa ra, và buộc phải bắt đầu vun xới lại.
Tôi cho rằng nếu dùng cái chữ như lâu nay ta vẫn dùng với nhà Nguyễn là “bán nước” là không công bằng. Nói đúng hơn nhà Nguyễn đã không thực hiện được trách nhiệm bảo vệ đất nước, và họ phải chịu trách nhiệm về việc mất nước, với tư cách là lãnh đạo quốc gia. Nhưng các nhà khoa học phải đi sâu nghiên cứu là vì sao họ đã không thực hiện được trách nhiệm này, để có những bài học cho các thế hệ hiện tại và sau này.
Chúng ta có một thời kỳ đối xử hết sức vô lý, gọi là vơ đũa cả nắm. Người vô sản đi làm cách mạng chả mất gì cả, “nếu mất chỉ mất xiềng xích, còn được thì được cả thế giới”, còn những ông vua yêu nước đi theo sự nghiệp dân tộc thì mất cả ngai vàng, mất cả quyền lực, rồi những vinh hoa mà ông ta được hưởng. Nếu không tôn vinh những vị vua này hơn thì ít nhất cũng phải bằng người vô sản chứ.  Nhưng chúng ta một thời đã bị che lấp bởi quan điểm ấu trĩ, tả khuynh, dẫn đến tình trạng bất công trong xã hội.
Hay trong những việc triều Nguyễn không làm được như tiến hành công cuộc Duy Tân như người Nhật Bản, giới nghiên cứu cũng phải cố tìm ra câu trả lời. Muốn Duy Tân phải có cái nền tảng của nó chứ, mà lúc đó chúng ta làm gì có tầng lớp hữu sản mà đòi dân chủ, đòi canh tân được như Nhật Bản. Có một lý do nữa là Việt Nam không làm được là do sống cạnh ông Tàu, phải chọn lối sống đó mới tồn tại được, còn chọn lối sống khác thì không.              
Nhà Nguyễn tương đối ngắn so với các triều đại khác (nhà Lê hơn 300 năm, Nhà Lý và nhà Trần trên dưới 200 năm), nhưng nó quan trọng vì nó là cái khớp nối chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, thời kỳ thế giới bắt đầu hội nhập với nhau. Đương nhiên cái hội nhập ban đầu là trong bối cảnh của chủ nghĩa thực dân bành trướng. Nếu chúng ta không nhận thức được đúng và đủ về giai đoạn lịch sử này, chúng ta sẽ không giải thích được những di sản để lại cho đến ngày nay, kể cả cái tốt đẹp lẫn cái bị hạn chế.  
Sự nhìn nhận lại có vai trò gì đối với những thế hệ hiện tại và tiếp theo?
Với những trường hợp với nhiều vị vua chúa Nguyễn, cũng như quan lại của triều đình nhà Nguyễn, như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Trương Vĩnh Ký…, chúng ta đã đối xử thiếu công bằng. Vấn đề nhận thức đầy đủ hơn không phải là vấn đề giải tỏa bất công cho nhân vật này, nhân vật kia, bởi điều đó đương nhiên do cái lẽ công bằng (chúng ta đưa ra mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà). Nhưng quan trọng hơn, chúng ta nhận thức được qui luật phát triển của quốc gia, để nó không bị đứt đoạn trong nhận thức bởi những quan điểm thiếu khách quan.
Chúng ta làm được thì thế hệ hiện nay và tiếp theo nhận thức được quá khứ một cách minh bạch, sáng tỏ hơn, và điều quan trọng người ta sẽ nhìn nhận hiện tại rõ ràng hơn bởi hiện tại chính là lịch sử, là quá khứ trong tương lai.
Đối với giới học giả, cuộc hội thảo này có ý nghĩa về một sự nhận thức đầy đủ hơn, còn đối với toàn xã hội đó là nhận thức về sự công bằng, khách quan, và một cách nhìn khoa học hơn về những gì mà ông cha để lại, để làm động lực cho phát triển.
Theo ông, khi đánh giá về vương triều Nguyễn, Gia Long có phải là nhân vật gây tranh cãi nhiều nhất không?
Cách đây khoảng chục năm rồi, có một cuộc hội thảo nhỏ về Gia Long, trong khoảng thời gian từ 1802 đến khi ông ấy chết. Lập tức, trong con mắt các nhà chính trị, dường như là chúng tôi có ý định phục hồi lại Gia Long. Đó là cách đánh giá đầy mặc cảm về những hoạt động trong nghiên cứu lịch sử.
Về Gia Long, nhìn ông ấy với một hệ thống giá trị, phải nói con người này cũng đầy mâu thuẫn. Đó là một người rất có ý chí và có tài, ở độ tuổi còn rất trẻ, có lúc đã bị Nhà Tây Sơn đánh cho phải lưu vong ra ngoài, nhưng cuối cùng vẫn dựng lại cơ đồ. Đương nhiên trong cuộc đấu tranh quyết liệt đó, Gia Long đã đụng chạm vào một số giá trị của dân tộc. Thí dụ ông đã cầu viện quân Xiêm, và có ý định cầu viện người Pháp nhưng thất bại, bởi cái hiệp ước mà ta vẫn gọi là bán nước đó, ký năm 1787, đã không thực hiện được do Cách mạng Pháp bùng nổ hai năm sau đó (1789). Nhưng mà ông ta vẫn có sử dụng một số lính đánh thuê người Pháp. Những cái đó về mặt nguyên lý dân tộc, giá trị dân tộc, nó tạo ra sự mặc cảm rất lớn. Người ta đã có lý khi nói ông ta “cõng rắn cắn gà nhà”. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, việc đưa người nước ngoài vào, như Lê Chiêu Thống, cho dù chỉ để giải quyết mâu thuẫn nội bộ giữa các tập đoàn với nhau, cũng để lại những mặc cảm lớn.
Ông ta là người tiêu diệt nhà Tây Sơn, vốn để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp thông qua hình tượng Quang Trung. Nhưng nói cho cùng, nhà Tây Sơn sụp đổ trước hết là tại chính họ, nhất là sau cái chết của Quang Trung. Chính cái nền tảng thống nhất mà Quang Trung đã làm được đã bị rạn vỡ bởi chính anh em ông ta. Đó chính là lý do mà Gia Long thắng được.
Mặt khác, khi Gia Long lên ngôi thì việc đầu tiên làm là củng cố cái sự nghiệp mà ông Quang Trung đã bắt đầu là thống nhất quốc gia. Đặt trong bối cảnh sự phát triển của đất nước thì Gia Long là người có công. Có một nghịch lý rất thú vị là triều đại nhà Nguyễn với Tây Sơn là “bất cộng đới thiên”, bởi hai tập đoàn phong kiến này đã đấu tranh với nhau để giành quyền lãnh đạo đất nước, nhưng khi nhà Tây Sơn bị sụp đổ rồi thì chính nhà Nguyễn lại kế thừa cái sự nghiệp nhà Tây Sơn để củng cố nền độc lập ấy.
Nếu lịch sử được đặt trên bình diện công và tội đánh giá thì chúng ta phải công bằng, mà đừng tuyệt đối hóa một giá trị nào. Biện chứng của đời sống, biện chứng của lịch sử là như vậy. Đánh giá nhà Tây Sơn cũng thế. Nhà Tây Sơn có vai trò nhất định trong lịch sử, và đồng thời cũng có trách nhiệm nhất định trong lịch sử.
Theo ông, với những nhận thức này, bao giờ sách sử, nhất là sách giáo khoa dành cho học sinh, sẽ có sự thay đổi?
Sách giáo khoa đòi hỏi tính chuẩn mực rất cao. Nỗ lực của các nhà khoa học là phải đưa ra luận chứng đầy đủ sự thuyết phục người dân và các nhà quản lý đất nước, hệ thống chính trị. Một khi nó đã được đồng thuận ở mức độ cao thì nó sẽ được phản ánh ở chừng mực nào đó trong hệ thống giá trị chuẩn, trong đó có sách giáo khoa lịch sử. Tôi cho rằng cũng không nên vội vã trong việc này, và chúng ta nên tạo ra sự điều chỉnh thích hợp và dần từng bước trong giảng dạy, chứ không nên làm sự đảo ngược ngay. Đối với giới trẻ niềm tin là quan trọng. Không nên thái quá, cực đoan, bởi trong quá khứ mấy chục năm trở lại đây chúng ta đã có những bài học về cách nhìn nhận cực đoan, thái quá. 
Giới sử học thu nhận được gì cho mình sau quá trình nhìn nhận, đánh giá lại này, cả về quan điểm lẫn phương pháp?
Tôi không quan niệm nhà sử học là một ông quan tòa, mà là ông luật sư thì đúng hơn. Anh đưa ra dẫn chứng, chứng lý để thuyết phục mọi người. Còn hiểu lịch sử như một tòa án, tức là nó khắc phục những sai sót để thúc đẩy phát triển. Trách nhiệm của nhà sử học không phải là lên án, vì toàn bộ hành vi trong lích sử có lý do lịch sử riêng, và, như thế, họ làm cho lịch sử có tác động tích cực cho sự phát triển chứ không phải tạo ra sự rối loạn, sự phân tâm, sự hoang mang.
Lịch sử bản thân nó gắn rất chặt với chính trị. Nhưng nếu lấy nhận thức lịch sử làm công cụ để nhận thức lịch sử thì điều đó rất dễ bị ai đó lợi dụng trong những ý đồ khác nhau. Điều đó nằm ngoài mong muốn của các nhà làm sử. Lịch sử quan trọng nhất là làm thay đổi cách suy nghĩ. Khi anh nhìn về quá khứ sáng tỏ hơn, thì anh nhìn về tương lai cũng sáng tỏ hơn.
Trước đây chúng ta bị trói vào những nguyên lý như chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bản thân những phương pháp đó không sai, hoàn toàn đúng. Nhưng chúng ta gặp vấn đề khi vận dụng, nhất là với mục tiêu phục vụ cho chính trị. Việc phục vụ chính trị bản thân nó cũng không sai. Nhưng chúng ta đã sai khi vận dụng những nguyên lý trên một cách cực đoan, không khách quan, và nói đúng hơn là giáo điều. Chúng ta đã mang cái của thiên hạ vào, và lẽ ra phải tiếp nhận nó như một phương pháp thì chúng ta đã tiếp nhận nó như một định đề.
Việc nghiên cứu về nhà Nguyễn nó không chỉ giải đáp những vấn đề khoa học thuần túy về lịch sử, mà quan trọng nhất là tạo ra một nhận thức xã hội. Tại sao nhiều người quan tâm tới những hội thảo về chủ đề này, kể cả các nhà nghiên cứu nước ngoài và các nhà khoa học Việt Kiều? Bởi mọi người đều quan tâm đến việc thúc đẩy đất nước phát triển. Mà muốn thúc đẩy phát triển chúng ta phải hóa giải được nhiều vấn đề quá khứ. Có lẽ thế kỷ 20 là thế kỷ mà đất nước chúng ta chứng kiến nhiều sự thay đổi quá lớn, quá mạnh mẽ, mà không có thế kỷ nào có được. Cho nên tầng tầng lớp lớp những vấn đề quá khứ bị tích tụ lại, và chúng ta phải cố gắng tạo ra cái điểm khơi thông lại, để từng bước làm cho dòng chảy lịch sử nó trở nên đúng qui luật.
Với những cái bầu không khí chính trị thuận lợi hơn và nhận thức trong xã hội, nhất là trong giới lãnh đạo, đã cởi mở hơn, liệu có thúc đẩy quá trình nhận thức, đánh giá lại giai đoạn lịch sử hiện đại một cách đầy đủ và khách quan hơn?
Theo tôi lích sử nó là một thể thống nhất, đừng tách ra. Tôi cho nhận thức thay đổi quan trọng nhất là nhận thức về phương pháp tư duy, sau đó mới đến nhận thức cụ thể, bởi xã hội là một cái gì đó hết sức phức tạp. Cho nên nếu chúng ta không thống nhất với nhau về phương pháp thì hệ quả của nó rất phức tạp, bởi nó sẽ động chạm. Thí dụ, đối với con cháu nhà Nguyễn, họ chỉ nhìn đây là việc giải oan, và điều đó rất chính đáng. Còn đối với các nhà chính trị, có người nghĩ rằng đây là sự sám hối.
Trong quá trình nhận thức đúng là có nhiều lực cản. Chẳng hạn, đánh giá giai cấp địa chủ, chúng ta có cải cách ruộng đất, mà về nguyên lý chúng ta đã thừa nhận là sai lầm. Nhưng những uẩn ức cụ thể trong thực tế chưa giải quyết được nhiều. Chúng ta nên hóa giải nó, thay vì kích động. Bản thân người dân cũng hiểu rằng đây là việc khó tránh trong lịch sử, với bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đó. Nhưng, mặt khác, đương nhiên cũng phải có những người phải đứng ra chịu trách nhiệm về sai lầm đó.
Xin cảm ơn ông!
Huỳnh Phan (thực hiện)