Thứ Năm, 8 tháng 11, 2012

Lịch sử cần phải được nhận thức lại

Lịch sử cần phải được nhận thức lại

LTS: Vào 18-19.10.2008 tới, tại Thành phố Thanh Hóa sẽ diễn ra hội thảo khoa học “Chúa Nguyễn và Vương triều Nguyễn trong lịch sử Việt Nam từ giữa thế kỷ 16 đến cuối thế kỷ 19”, nhân dịp kỷ niệm 450 năm ngày Chúa Nguyễn Hoàng cầm gươm đi mở rộng bờ cõi về phía Nam.
Đây là một cuộc hội thảo có qui mô lớn nhất từ trước đến nay về chủ đề này với 88 báo cáo của các học giả trong và ngoài nước. Giới sử học nhìn nhận rằng với sự đánh giá đầy đủ, công bằng và khách quan về giai đoạn này, nhất là triều Nguyễn, một khớp nối quan trọng trong giai đoạn chuyển đổi từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, lần đầu tiên lịch sử Việt Nam sẽ trở nên liền mạch.
Sài Gòn Tiếp Thị đã có cuộc trao đổi với nhà sử học Dương Trung Quốc xung quanh chủ đề này. (Bản đăng trên SGTT là bản rút gọn, vì lý do kỹ thuật thuần túy.) 
Xin ông cho biết việc nhận thức lại vai trò của các chúa Nguyễn và vương triều Nguyễn được đặt ra vào thời điểm nào, và trong bối cảnh nào?
 Thứ nhất, việc nhận thức lại được đặt ra trong công cuộc đổi mới, với thực tiễn của đổi mới và nguyên lý ban đầu là “dũng cảm nhìn thẳng vào sự thật”. Nguyên lý đó ít nhất là một động lực với những người làm sử để nhìn nhận lại giai đoạn lịch sử đó. Thứ hai, lịch sử là một quá trình nhận thức, hay như ta hay nói “sự kiện xảy ra một lần, nhưng nhận thức là một quá trình”, bởi ở đó có các yếu tố về khoa học, trình độ hiểu biết, và lợi ích. Những yếu tố đó khiến cho một thời kỳ chúng ta đánh giá cái giai đoạn lịch sử thời Nguyễn không công bằng, không khách quan, và quan trọng là không chính xác.
Có một lý do rất dễ hiểu là khi cuộc cách mạng dân tộc dân chủ đặt ra hai mục tiêu là “phản đế và phản phong”, đương nhiên trong cái quan niệm hết sức xơ cứng như vậy về chế độ phong kiến chắc chắn Vương triều Nguyễn là cái đã qua, thối nát và phản tiến bộ. Như vậy, không chỉ có sự đối xử không công bằng với triều Nguyễn, một triều đại phong kiến cuối cùng và là đối tượng trực diện của cách mạng, mà ngay cả những di sản, văn hóa dân tộc, như đền thờ, chữ Hán…, cũng có thời đã bị đối xử vừa bất công vừa đầy lầm lẫn.
Có lẽ chỉ hình tượng các anh hùng dân tộc là còn lại. Nhưng họ cũng lại quên rằng những anh hùng dân tộc đó cũng là thuộc phạm trù phong kiến, thuộc phạm trù những tầng lớp xã hội mà sau này chúng ta qui chiếu vào trong quan điểm đấu tranh giai cấp, bởi họ cũng thuộc giai cấp địa chủ phong kiến.
Hơn nữa, cũng phải hiểu một điều là phần lớn đội ngũ sử học của chúng ta là một đội ngũ sử học công chức, trong đó có nhiều người là đảng viên, làm cho các cơ quan nhà nước nên có cái định hướng chính trị rất rõ. Họ đã bị những định kiến chính trị, thậm chí là những cấm kỵ, chi phối, nên đã gặp khó khăn trong việc tiếp nhận hiện thực khách quan. Việc sử học phục vụ chính trị là chuyện đương nhiên, khó tránh, nhưng vấn đề là có phục vụ chính trị một cách khách quan và khoa học hay không mà thôi.
Khi có công cuộc đổi mới, chúng ta có cơ hội đánh giá lại, và nhất là khi cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc và chống ngoại xâm qua rồi, thì hơn bao giờ hết chúng ta càng phải đề cao khối đại đoàn kết toàn dân. Có rất nhiều vấn đề của lịch sử đã nảy sinh ra từ đó.
Trong khi đó, Trung Quốc đã hóa giải những vấn đề này rất thành công.  Tôi không phải là một nhà nghiên cứu về Trung Quốc. Nhưng tôi cho rằng họ khôn ngoan. Từ chủ nghĩa đại Hán tồn tại một thời mà trong nhận thức nó chuyển sang Đại Trung Hoa, tức là họ biết hóa giải những vấn đề của lịch sử. Nếu đặt chủ nghĩa Đại Hán, chắc chắn họ coi thời nhà Nguyên và nhà Thanh là nỗi nhục lớn vì bị những tộc người ban đầu bị coi là rợ cai trị. Nhưng văn hóa Hán nó mạnh tới mức những kẻ cai trị cũng bị Hán hóa. Bây giờ lợi ích quốc gia của họ là Đại Trung Hoa nên nó đảo ngược, chính nhà Nguyên và và Thanh lại được coi là của họ, là di sản, và được đề cao rất mạnh mẽ. 
Những yếu tố “khoa học, trình độ hiểu biết và lợi ích” mà ông đề cập đã thay đổi như thế nào để dẫn đến cái nhận thức như hiện nay, ít nhất là trong giới sử học?
Chính lợi ích phát triển đất nước đòi hỏi chúng ta phải nghiên cứu. Ví dụ như vấn đề chủ quyền lãnh thổ. Khi chúng ta phải bảo vệ Hoàng Sa và Trường Sa, chúng ta phải nghĩ đến ai là người có đóng góp đầu tiên trong việc mở mang phần lãnh thổ ấy, ai là người đã tạo ra chứng lý để ngày nay chúng ta có cơ sở pháp lý để bảo vệ chủ quyền. Đến lúc này chúng ta phải nói đến thời kỳ các chúa Nguyễn và vua Minh Mạng. Các chúa Nguyễn những người đầu tiên tổ chức những đội quân ra quản lý những vùng biển đảo xa xôi như thế, và những họat động đó trở thành chứng lý rất thuyết phục về chủ quyền của Việt Nam ở đó. Còn vào thời kỳ vua Minh Mạng tấm bản đồ Đại Nam có vẽ rất rõ ràng về quần đảo Trường Sa.
Những điều đó ngoài vai trò bằng chứng còn nói lên trình độ quản lý và phương cách bảo vệ chủ quyền lãnh thổ của cái triều đại mà lâu nay bị coi là lạc hậu, là không đại diện cho lợi ích dân tộc. Từ cái “vỡ lẽ” ấy chắc chắn người ta sẽ có thể có cái nhìn nhận khách quan, công bằng hơn.
Phương pháp nghiên cứu lịch sử cũng ngày càng khách quan hơn đối với những vấn đề liên quan đến tư liệu lịch sử. Rõ ràng là trong một thời gian dài, giới sử học chúng ta bị cuốn hút vào cuộc chiến tranh. Trong hoàn cảnh chiến tranh, chúng ta khó có thể tiếp cận với các học giả nước ngoài, nguồn lưu trữ nước ngoài và phương pháp nghiên cứu của nước ngoài. Sự tham gia của các sử gia nước ngoài trong những hội thảo về chủ đề này cũng đóng góp nhiều cho nghiên cứu của chúng ta, khiến nó thêm khách quan, bởi họ không bị ràng buộc bởi nguyên lý chính trị và có điều kiện tiếp cận tư liệu đang lưu trữ ở nước ngoài.
Nhận thức chung trong giới sử học về vai trò của triều Nguyễn hiện nay như thế nào? Họ để lại những di sản, và bài học gì?
Cái lớn nhất của nhà Nguyễn làm được là nối tiếp được các thế hệ trước, bao gồm các chúa Nguyễn và nhà Tây Sơn trong việc củng cố được chủ quyền lãnh thổ quốc gia, cho đến giữa thế kỷ 19 khi người Pháp đô hộ. Lúc đó, nước Đại Nam đã phát triển đến một trình độ tương đối cao trong khu vực.
Đánh giá nhà Nguyễn, đặc biệt trên lĩnh vực giữ nước, chúng ta có nhiều điều phải suy nghĩ, phải thừa kế. Tôi nói chẳng hạn vấn đề quản lý đất đai là vấn đề cực kỳ quan trọng đối với mọi quốc gia mọi thời đại, và đến bây giờ chúng ta thấy thực tiễn nó khó khăn thế nào. Vậy tại sao trong một khoảng thời gian tồn tại ngắn như vậy mà triều Nguyễn đã để lại cho chúng ta một di sản rất lớn về địa bạ? Lúc đó làm gì có định vị vệ tinh, làm gì có photocopy, làm gì có máy ảnh, máy scan, mà tại sao họ có thể vẽ từng thửa đất một? Họ không có phương pháp hiện đại như hiện nay, nhưng về nguyên lý quản lý thì trình độ rất cao, đảm bảo được tính ổn định. Từng thửa đất của quốc gia được đo vẽ, được lưu trữ và được sử dụng, trong thời gian rất ngắn với một lực lượng rất nhỏ. Năng lực quản lý đất đai là cái chúng ta phải học.  
Hay cái việc chia đơn vị hành chính cũng vậy. Rõ ràng sau này người Pháp khi cai trị Việt Nam cũng kế thừa chứ không gây đảo lộn lớn. Sau một thời kỳ đảo lộn tất cả lên, chúng ta mới nhận ra rằng cách chia của các cụ ngày xưa là hợp lý, và người Pháp đã rất khôn ngoan khi kế thừa.
Kinh thành Huế là kinh thành của triều Nguyễn, nhưng là tài sản của đất nước, là thành tựu của nhân dân, của một thời đại trên tất cả các lĩnh vực như kinh tế, văn hóa, nghệ thuật, mà hiện nay chúng ta đang được thừa hưởng.
Chúng ta cũng đã làm chuyện khai hoang, xây dựng vùng kinh tế mới, và nhiều cái không làm được. Vậy mà tại sao một doanh điền sứ như ông Nguyễn Công Trứ chỉ trong một thời gian rất ngắn có một vài năm thôi mà lập ra hẳn hai cái huyện là Kim Sơn và Tiền Hải, và cho đến bây giờ vẫn ổn định và phát triển? Hệ thống thủy lợi làm từ thời đó vẫn tuyện vời, trong khi đó chúng ta mất rất nhiều công sức, tiền của cũng không làm được.
Hay kênh Vĩnh Tế, được chúng tôi chọn nghiên cứu và sau này ông Võ Văn Kiệt rất quan tâm. Một công trình cách đây mấy trăm năm, trong điều kiện công nghệ, kỹ thuật hồi đó, đã được xây dựng rất nhanh và rất hiệu quả (phát huy đến tận bây giờ). Hiệu quả ở đây không chỉ giải quyết vấn đề tưới tiêu và chống mặn cho đồng bằng, mà còn giải quyết cả vấn đề ngoại giao, phòng thủ quốc gia. Kênh Vĩnh Tế bây giờ thực tế là một bằng chứng về chủ quyền của chúng ta.
Liên quan đến vấn đề tập hợp lưu dân, đến thăm mộ ông Thoại Ngọc Hầu, người ta thấy ngoài hai bà vợ yêu ra có rất nhiều nghệ sỹ tuồng, nghệ sỹ khác mà ông kéo theo vào. Đấy là thái độ trân trọng và sử dụng trí thức. Ông ấy đã ý thức được việc đưa văn hóa vào để phát triển các vùng đất mới. Phục vụ cho những người phu dịch còn có cả văn hóa.
Trong khi chúng ta đấu tranh chống tham nhũng, chống tư tưởng bè phái cát cứ, chúng ta không thể không nhắc đến Luật Hồi Tỵ, một nguyên tắc quan trọng trong tổ chức bộ máy chính quyền thời phong kiến, bắt đầu được đặt ra từ thời vua Lê Thánh Tông và hoàn thiện vào thời vua Minh Mạng, tiếp tục được thực hiện vào các triều vua Nguyễn sau đó. Theo luật này, những người có cùng quan hệ huyết thống, đồng hương, thầy trò, bạn bè…không được cùng làm quan hay làm việc ở một địa phương, công sở. Nếu gặp một trong những trường hợp trên thì phải tâu báo lên để thuyên chuyển những người thân thuộc đó đi các nơi khác nhau. Hay trong TP HCM đang diễn vở “Lê Văn Duyệt”, người đã sẵn sàng chém bố vợ vua vì lộng hành.
Vì sao các cụ thành công, bởi vì các cụ nhà mình khi làm bao giờ cũng kế thừa di sản của quá khứ, di sản trong dân gian, trong đời sống xã hội, và trong trí tuệ. Còn chúng ta đi từ cái đứt đoạn, chúng ta tưởng rằng chúng ta có thể xóa bỏ toàn bộ cái cũ để xây dựng lại toàn bộ thế giới mới. Bây giờ chúng ta vỡ mộng, mới ngả ngửa ra, và buộc phải bắt đầu vun xới lại.
Tôi cho rằng nếu dùng cái chữ như lâu nay ta vẫn dùng với nhà Nguyễn là “bán nước” là không công bằng. Nói đúng hơn nhà Nguyễn đã không thực hiện được trách nhiệm bảo vệ đất nước, và họ phải chịu trách nhiệm về việc mất nước, với tư cách là lãnh đạo quốc gia. Nhưng các nhà khoa học phải đi sâu nghiên cứu là vì sao họ đã không thực hiện được trách nhiệm này, để có những bài học cho các thế hệ hiện tại và sau này.
Chúng ta có một thời kỳ đối xử hết sức vô lý, gọi là vơ đũa cả nắm. Người vô sản đi làm cách mạng chả mất gì cả, “nếu mất chỉ mất xiềng xích, còn được thì được cả thế giới”, còn những ông vua yêu nước đi theo sự nghiệp dân tộc thì mất cả ngai vàng, mất cả quyền lực, rồi những vinh hoa mà ông ta được hưởng. Nếu không tôn vinh những vị vua này hơn thì ít nhất cũng phải bằng người vô sản chứ.  Nhưng chúng ta một thời đã bị che lấp bởi quan điểm ấu trĩ, tả khuynh, dẫn đến tình trạng bất công trong xã hội.
Hay trong những việc triều Nguyễn không làm được như tiến hành công cuộc Duy Tân như người Nhật Bản, giới nghiên cứu cũng phải cố tìm ra câu trả lời. Muốn Duy Tân phải có cái nền tảng của nó chứ, mà lúc đó chúng ta làm gì có tầng lớp hữu sản mà đòi dân chủ, đòi canh tân được như Nhật Bản. Có một lý do nữa là Việt Nam không làm được là do sống cạnh ông Tàu, phải chọn lối sống đó mới tồn tại được, còn chọn lối sống khác thì không.              
Nhà Nguyễn tương đối ngắn so với các triều đại khác (nhà Lê hơn 300 năm, Nhà Lý và nhà Trần trên dưới 200 năm), nhưng nó quan trọng vì nó là cái khớp nối chuyển từ xã hội truyền thống sang xã hội hiện đại, thời kỳ thế giới bắt đầu hội nhập với nhau. Đương nhiên cái hội nhập ban đầu là trong bối cảnh của chủ nghĩa thực dân bành trướng. Nếu chúng ta không nhận thức được đúng và đủ về giai đoạn lịch sử này, chúng ta sẽ không giải thích được những di sản để lại cho đến ngày nay, kể cả cái tốt đẹp lẫn cái bị hạn chế.  
Sự nhìn nhận lại có vai trò gì đối với những thế hệ hiện tại và tiếp theo?
Với những trường hợp với nhiều vị vua chúa Nguyễn, cũng như quan lại của triều đình nhà Nguyễn, như Phan Thanh Giản, Lê Văn Duyệt, Trương Vĩnh Ký…, chúng ta đã đối xử thiếu công bằng. Vấn đề nhận thức đầy đủ hơn không phải là vấn đề giải tỏa bất công cho nhân vật này, nhân vật kia, bởi điều đó đương nhiên do cái lẽ công bằng (chúng ta đưa ra mục tiêu xây dựng xã hội công bằng, dân chủ, văn minh mà). Nhưng quan trọng hơn, chúng ta nhận thức được qui luật phát triển của quốc gia, để nó không bị đứt đoạn trong nhận thức bởi những quan điểm thiếu khách quan.
Chúng ta làm được thì thế hệ hiện nay và tiếp theo nhận thức được quá khứ một cách minh bạch, sáng tỏ hơn, và điều quan trọng người ta sẽ nhìn nhận hiện tại rõ ràng hơn bởi hiện tại chính là lịch sử, là quá khứ trong tương lai.
Đối với giới học giả, cuộc hội thảo này có ý nghĩa về một sự nhận thức đầy đủ hơn, còn đối với toàn xã hội đó là nhận thức về sự công bằng, khách quan, và một cách nhìn khoa học hơn về những gì mà ông cha để lại, để làm động lực cho phát triển.
Theo ông, khi đánh giá về vương triều Nguyễn, Gia Long có phải là nhân vật gây tranh cãi nhiều nhất không?
Cách đây khoảng chục năm rồi, có một cuộc hội thảo nhỏ về Gia Long, trong khoảng thời gian từ 1802 đến khi ông ấy chết. Lập tức, trong con mắt các nhà chính trị, dường như là chúng tôi có ý định phục hồi lại Gia Long. Đó là cách đánh giá đầy mặc cảm về những hoạt động trong nghiên cứu lịch sử.
Về Gia Long, nhìn ông ấy với một hệ thống giá trị, phải nói con người này cũng đầy mâu thuẫn. Đó là một người rất có ý chí và có tài, ở độ tuổi còn rất trẻ, có lúc đã bị Nhà Tây Sơn đánh cho phải lưu vong ra ngoài, nhưng cuối cùng vẫn dựng lại cơ đồ. Đương nhiên trong cuộc đấu tranh quyết liệt đó, Gia Long đã đụng chạm vào một số giá trị của dân tộc. Thí dụ ông đã cầu viện quân Xiêm, và có ý định cầu viện người Pháp nhưng thất bại, bởi cái hiệp ước mà ta vẫn gọi là bán nước đó, ký năm 1787, đã không thực hiện được do Cách mạng Pháp bùng nổ hai năm sau đó (1789). Nhưng mà ông ta vẫn có sử dụng một số lính đánh thuê người Pháp. Những cái đó về mặt nguyên lý dân tộc, giá trị dân tộc, nó tạo ra sự mặc cảm rất lớn. Người ta đã có lý khi nói ông ta “cõng rắn cắn gà nhà”. Trong trường kỳ lịch sử Việt Nam, việc đưa người nước ngoài vào, như Lê Chiêu Thống, cho dù chỉ để giải quyết mâu thuẫn nội bộ giữa các tập đoàn với nhau, cũng để lại những mặc cảm lớn.
Ông ta là người tiêu diệt nhà Tây Sơn, vốn để lại nhiều ấn tượng tốt đẹp thông qua hình tượng Quang Trung. Nhưng nói cho cùng, nhà Tây Sơn sụp đổ trước hết là tại chính họ, nhất là sau cái chết của Quang Trung. Chính cái nền tảng thống nhất mà Quang Trung đã làm được đã bị rạn vỡ bởi chính anh em ông ta. Đó chính là lý do mà Gia Long thắng được.
Mặt khác, khi Gia Long lên ngôi thì việc đầu tiên làm là củng cố cái sự nghiệp mà ông Quang Trung đã bắt đầu là thống nhất quốc gia. Đặt trong bối cảnh sự phát triển của đất nước thì Gia Long là người có công. Có một nghịch lý rất thú vị là triều đại nhà Nguyễn với Tây Sơn là “bất cộng đới thiên”, bởi hai tập đoàn phong kiến này đã đấu tranh với nhau để giành quyền lãnh đạo đất nước, nhưng khi nhà Tây Sơn bị sụp đổ rồi thì chính nhà Nguyễn lại kế thừa cái sự nghiệp nhà Tây Sơn để củng cố nền độc lập ấy.
Nếu lịch sử được đặt trên bình diện công và tội đánh giá thì chúng ta phải công bằng, mà đừng tuyệt đối hóa một giá trị nào. Biện chứng của đời sống, biện chứng của lịch sử là như vậy. Đánh giá nhà Tây Sơn cũng thế. Nhà Tây Sơn có vai trò nhất định trong lịch sử, và đồng thời cũng có trách nhiệm nhất định trong lịch sử.
Theo ông, với những nhận thức này, bao giờ sách sử, nhất là sách giáo khoa dành cho học sinh, sẽ có sự thay đổi?
Sách giáo khoa đòi hỏi tính chuẩn mực rất cao. Nỗ lực của các nhà khoa học là phải đưa ra luận chứng đầy đủ sự thuyết phục người dân và các nhà quản lý đất nước, hệ thống chính trị. Một khi nó đã được đồng thuận ở mức độ cao thì nó sẽ được phản ánh ở chừng mực nào đó trong hệ thống giá trị chuẩn, trong đó có sách giáo khoa lịch sử. Tôi cho rằng cũng không nên vội vã trong việc này, và chúng ta nên tạo ra sự điều chỉnh thích hợp và dần từng bước trong giảng dạy, chứ không nên làm sự đảo ngược ngay. Đối với giới trẻ niềm tin là quan trọng. Không nên thái quá, cực đoan, bởi trong quá khứ mấy chục năm trở lại đây chúng ta đã có những bài học về cách nhìn nhận cực đoan, thái quá. 
Giới sử học thu nhận được gì cho mình sau quá trình nhìn nhận, đánh giá lại này, cả về quan điểm lẫn phương pháp?
Tôi không quan niệm nhà sử học là một ông quan tòa, mà là ông luật sư thì đúng hơn. Anh đưa ra dẫn chứng, chứng lý để thuyết phục mọi người. Còn hiểu lịch sử như một tòa án, tức là nó khắc phục những sai sót để thúc đẩy phát triển. Trách nhiệm của nhà sử học không phải là lên án, vì toàn bộ hành vi trong lích sử có lý do lịch sử riêng, và, như thế, họ làm cho lịch sử có tác động tích cực cho sự phát triển chứ không phải tạo ra sự rối loạn, sự phân tâm, sự hoang mang.
Lịch sử bản thân nó gắn rất chặt với chính trị. Nhưng nếu lấy nhận thức lịch sử làm công cụ để nhận thức lịch sử thì điều đó rất dễ bị ai đó lợi dụng trong những ý đồ khác nhau. Điều đó nằm ngoài mong muốn của các nhà làm sử. Lịch sử quan trọng nhất là làm thay đổi cách suy nghĩ. Khi anh nhìn về quá khứ sáng tỏ hơn, thì anh nhìn về tương lai cũng sáng tỏ hơn.
Trước đây chúng ta bị trói vào những nguyên lý như chủ nghĩa duy vật lịch sử, chủ nghĩa duy vật biện chứng. Bản thân những phương pháp đó không sai, hoàn toàn đúng. Nhưng chúng ta gặp vấn đề khi vận dụng, nhất là với mục tiêu phục vụ cho chính trị. Việc phục vụ chính trị bản thân nó cũng không sai. Nhưng chúng ta đã sai khi vận dụng những nguyên lý trên một cách cực đoan, không khách quan, và nói đúng hơn là giáo điều. Chúng ta đã mang cái của thiên hạ vào, và lẽ ra phải tiếp nhận nó như một phương pháp thì chúng ta đã tiếp nhận nó như một định đề.
Việc nghiên cứu về nhà Nguyễn nó không chỉ giải đáp những vấn đề khoa học thuần túy về lịch sử, mà quan trọng nhất là tạo ra một nhận thức xã hội. Tại sao nhiều người quan tâm tới những hội thảo về chủ đề này, kể cả các nhà nghiên cứu nước ngoài và các nhà khoa học Việt Kiều? Bởi mọi người đều quan tâm đến việc thúc đẩy đất nước phát triển. Mà muốn thúc đẩy phát triển chúng ta phải hóa giải được nhiều vấn đề quá khứ. Có lẽ thế kỷ 20 là thế kỷ mà đất nước chúng ta chứng kiến nhiều sự thay đổi quá lớn, quá mạnh mẽ, mà không có thế kỷ nào có được. Cho nên tầng tầng lớp lớp những vấn đề quá khứ bị tích tụ lại, và chúng ta phải cố gắng tạo ra cái điểm khơi thông lại, để từng bước làm cho dòng chảy lịch sử nó trở nên đúng qui luật.
Với những cái bầu không khí chính trị thuận lợi hơn và nhận thức trong xã hội, nhất là trong giới lãnh đạo, đã cởi mở hơn, liệu có thúc đẩy quá trình nhận thức, đánh giá lại giai đoạn lịch sử hiện đại một cách đầy đủ và khách quan hơn?
Theo tôi lích sử nó là một thể thống nhất, đừng tách ra. Tôi cho nhận thức thay đổi quan trọng nhất là nhận thức về phương pháp tư duy, sau đó mới đến nhận thức cụ thể, bởi xã hội là một cái gì đó hết sức phức tạp. Cho nên nếu chúng ta không thống nhất với nhau về phương pháp thì hệ quả của nó rất phức tạp, bởi nó sẽ động chạm. Thí dụ, đối với con cháu nhà Nguyễn, họ chỉ nhìn đây là việc giải oan, và điều đó rất chính đáng. Còn đối với các nhà chính trị, có người nghĩ rằng đây là sự sám hối.
Trong quá trình nhận thức đúng là có nhiều lực cản. Chẳng hạn, đánh giá giai cấp địa chủ, chúng ta có cải cách ruộng đất, mà về nguyên lý chúng ta đã thừa nhận là sai lầm. Nhưng những uẩn ức cụ thể trong thực tế chưa giải quyết được nhiều. Chúng ta nên hóa giải nó, thay vì kích động. Bản thân người dân cũng hiểu rằng đây là việc khó tránh trong lịch sử, với bối cảnh lịch sử cụ thể lúc đó. Nhưng, mặt khác, đương nhiên cũng phải có những người phải đứng ra chịu trách nhiệm về sai lầm đó.
Xin cảm ơn ông!
Huỳnh Phan (thực hiện)

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét