Đã có lúc, những người lấy tiếng Nga làm nghề chính, nháo nhác chuyển nghề.Tại các trường đại học, các thầy cô giáo tiếng Nga rục rịch theo học các lớp tiếng Anh, chuẩn bị cho một phong trào "chuyển tay lái nghịch"...
Cứ đến những ngày này hàng năm, bao giờ những người hạnh phúc nhất cũng là các thầy cô giáo, với những bó hoa, món quà, lời chúc tụng của học sinh, phụ huynh và sự nhìn nhận lại, dù ít dù nhiều, của xã hội với công việc lặng thầm của họ.
Dịp 20.11 năm nay, thầy Đỗ Đình Tống có thêm lý do riêng để nhân lên niềm hạnh phúc của mình. Ông đã nhìn thấy những "nụ hoa" mới nhú trở lại trên "cây bồ công anh", tưởng chừng đã không sống nổi qua cái "mùa đông" dài nhất và lạnh lẽo nhất trong lịch sử này.
"Cái thời của tiếng Nga, tưởng như chỉ còn trong ký ức, đang quay trở lại. Với sự chậm rãi và từng trải, chứ không ồn ào và bản năng như ngày xưa."
Ký ức về một thời đã qua...
Có một thời, người nước ngoài ở Việt Nam chủ yếu là người Nga. Người ta kể rằng vào cuối những năm '70, hay đầu những năm '80, có một chuyên gia nước ngoài làm việc ở Nhà máy giấy Bãi Bằng (Phú Thọ), vì bị gọi nhầm quá nhiều, đã thuê in đằng sau lưng áo phông dòng chữ bằng tiếng Việt "Tôi là người Thuỵ Điển, không phải là Liên Xô!"
Có một thời, cán bộ, chuyên gia chủ chốt của tất cả các lĩnh vực, bất kể đó là khoa học kỹ thuật, văn chương, nghệ thuật, lịch sử, hay triết học đều được đào tạo ở Liên Xô.
Có một thời những hàng hoá tiêu dùng, thuốc thang ở Việt Nam (chí ít là ở miền Bắc), chủ yếu là do những người đi học, đi lao động ở Liên Xô mang về. Làm bài luận theo chủ đề "Русский язык - мой спутник" (Tiếng Nga - Người bạn đường của tôi), người viết bài này đã từng nghịch ngợm viết rằng: "Русский язык - мой спутник. И не только. Это мой Минск, мой Саратов, мой Полёт, или моя Ригонда (Tiếng Nga là chiếc xe đạp Cпутник của tôi. và không chỉ có vậy. Chiếc xe máy Минск, chiếc tủ lạnh Саратов, hay chiếc radio Риголда).
Và, vào những lúc rỗi hơi, chúng tôi hay nghêu ngao bài "Мой адресс - Советский Союз" (Địa chỉ của tôi là Liên bang Xô viết).
Thời kỳ "hoàng kim" này trong quan hệ hai nước kéo dài từ cuối những năm 1950 đến cuối năm 1991, khi Liên Xô sụp đổ.
Trong những năm '80, đã có những biến động chính trị ở Đông Âu, và sau đó là công cuộcперестройка (cải tổ) ở Liên Xô. Tại Việt Nam, Đại hội 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam (1986) đã quyết định đổi mới và đa phương hoá - đa dạng hoá quan hệ quốc tế.
Những người lấy tiếng Nga làm nghề chính, nháo nhác chuyển nghề. Tại các trường đại học, các thầy cô giáo tiếng Nga rục rịch theo học các lớp tiếng Anh, chuẩn bị cho một phong trào "chuyển tay lái nghịch". Các trường đại học chuyên ngữ tuyển học sinh hệ Nga - Anh, trong đó tiếng Anh là ngoại ngữ chính. Thậm chí, có những thầy cô, khi chuyển sang dạy tiếng Anh tại các trung tâm ngoại ngữ, đã phải cố gắng giấu cái nguồn gốc tiếng Nga của mình.
Có một bộ phận khác, bao gồm cả các nhà khoa học, kỹ sư và giảng viên đại học, bỏ tất cả sự nghiệp để sang Nga làm ăn. Trong sự hỗn độn của đống đổ nát thời hậu Xô Viết, họ một mặt "đã giúp người Nga hiểu thế nào là kinh tế thị trường giai đoạn sơ khởi", nhưng cũng làm ảnh hưởng không ít tới hình ảnh Việt Nam ở Nga.
"Để mưu sinh, và giúp gia đình, họ hàng, họ đã phải quên cả chính mình, thì làm sao nhớ được tới việc giữ gìn hình ảnh đất nước", Võ sư Ngô Xuân Bính, người được mời sang Nga từ đầu những năm '90 để truyền bá môn võ cổ truyền Nhất Nam, nhận xét.
Bùi Thành Nhân, một học trò cũ của thầy Tống, là một trong số đó. Cô đã từng bật khóc khi cầm chiếc micro trong quán karaoke, trong một cuộc gặp với bạn bè đồng khoá cách đây mấy năm.
"Hai mươi mấy năm nay, Nhân chỉ cúi mặt xuống đất mà chạy, chạy và chạy, để nuôi mình và nuôi con ăn học. Chứ đâu được ngửa cổ lên hát thoải mái như các bạn", người từng được mệnh danh là con sơn ca của Trường Phổ thông Chuyên ngữ và Đại học Sư phạm Ngoại ngữ thốt lên trong tiếng nghẹn ngào.
Nhưng không ít người trong số họ đã đạt được sự thành công lớn, sau khi trở về Việt Nam trên cơ sở những "vốn liếng" tích luỹ được ở Nga, với cả nghĩa đen lẫn nghĩa bóng của từ này.
Lòng tự hào của người Nhật về việc phát minh ra mì ăn liền, cũng như đã thâm nhập thành công thị trường Việt Nam với các loại mì Acecook phù hợp với túi tiền người Việt, có thể sẽ bị tổn thương, nếu họ biết rằng nhiều "đại gia" ở Việt Nam hiện nay đã đi lên từ những gói mỳ ăn liền bán ở thị trường Nga.
Và sự thành đạt không chỉ bó gọn trong lĩnh vực kinh doanh. Thứ trưởng Ngoại giao kiêm Chủ nhiệm Uỷ ban người Việt ở nước ngoài Nguyễn Thanh Sơn, hay Hiệu trưởng Trường Quốc tế (thuộc Đại học Quốc gia Hà Nội) Nguyễn Trọng Do là những ví dụ điển hình nhất.
Nhưng rất may, vẫn còn có những người vẫn giữ được nghề, tuy vẫn phải chấp nhận giải pháp nửa vời là đi học thêm tiếng Anh. Cô giáo dạy môn развитие речи (phát triển khẩu ngữ) Đỗ Diệu Vân là một ví dụ.
"Mình vẫn phải đi học lớp chuyên ngành 2 tiếng Anh để dạy thêm ở các trung tâm ngoại ngữ, đặng nuôi các em. Nhưng rất may là vẫn tiếp tục được dạy tiếng Nga, nhất là ở mấy lớp cử nhân chất lượng cao, mới mở được một số năm", cô Diệu Vân nói với người viết, vốn cũng là một học trò cũ của cô.
Một mình chống lại thời thế
Thầy Đỗ Đình Tống cũng đã theo học lớp tiếng Anh chuyên ngành 2. Nhưng không phải để đi dạy ở trung tâm như cô Diệu Vân.
"Mình đi học vì tiếng Anh là thứ ngôn ngữ toàn cầu, và, vì vậy, có thể học được nhiều thứ qua ngôn ngữ này. Vả lại, mình cũng muốn tìm hiểu tại sao tiếng Anh lại phổ cập như vậy, để áp dụng phần nào vào việc cải tiến phương pháp giảng dạy tiếng Nga", thầy Tống tâm tình cách đây hai năm.
Giáo sư Hoàng Phê đã hoàn toàn có lý, không chỉ về mặt ngôn ngữ. Với một tiếng Nga dễ viết hơn, dễ nhớ hơn, và, vì vậy, dễ học hơn, sẽ có nhiều người trên thế giới tiếp cận được ngôn ngữ này. Sự thuận tiện hơn trong giao lưu ngôn ngữ sẽ kéo theo sự tự do hơn trong giao lưu tư tưởng - văn hoá. Đó là chưa kể tới những cơ hội nhiều hơn cho giao lưu kinh tế.
Như vậy, biết đâu Liên Xô đã không phải chịu cái cú sốc, không chỉ riêng với những dân tộc của liên bang rộng lớn này, vào cuối năm 1991? Mặc dù, riêng với Việt Nam, người viết, với tư cách cũng là một nạn nhân của cú sốc này, khi phải từ bỏ cái nghề giáo viên tiếng Nga mà phải vất vả lắm mới kiếm được, vẫn tin rằng điều đó về cơ bản là một động lực mạnh mẽ để Việt Nam vững tin trên con đường mới, con đường hội nhập với thế giới, trên cơ sở của tinh thần tự lực tự cường.
Hiển nhiên là thầy Tống không có ý định "không tưởng" là thay đổi hệ chữ cái tiếng Nga, dù là ở Việt Nam, để níu giữ lại số học trò đã ngày một thưa vắng. Nhưng trong những bộ sách về giáo học pháp do ông biên soạn, những phương pháp dạy học tiên tiến của người Anh, hay người Mỹ, đã được ông tiếp thu ở chừng mức nào đó, trong sự kết hợp với kinh nghiệm giảng dạy mấy chục năm của mình.
Nhưng, quan trọng hơn, tình yêu và lòng chung thuỷ với tiếng Nga của mình, thầy Đỗ Đình Tống đã là ngọn hải đăng để học trò trông vào trong cơn sóng gió của thời cuộc đổi thay. "Cứ còn nhìn thấy thầy xuất hiện trên VTV2 trong chương trình dạy tiếng Nga là em còn thấy thấy vững tâm về tiền đồ của thứ ngôn ngữ mà thầy đã dạy cho chúng em", một cô giáo tiếng Nga từ Nghệ An đã nói như vậy trong lễ kỷ niệm thành lập khoa Nga cách đây 5 năm.
Thậm chí, người đàn ông với tính cách ngang tàng pha chất nghệ sĩ này đã quyết định vào Đảng, khi đã bước sang tuổi 50.
"Anh chị em trong khoa thuyết phục tôi ra tranh chức hiệu trưởng. Họ nói điều này không chỉ có ích cho khoa Nga, cho tiếng Nga, mà cả cho trường nữa. Và việc vào Đảng là điều kiện cần", ông giải thích.
Nhưng ông đã không kiếm đủ số phiếu cần thiết để thực hiện mong muốn của đồng nghiệp trong khoa. Bởi, người thầy gần như cả đời chỉ gắn bó với chuyên môn, với học trò, và với những triết lý sống riêng mình, đã không có sự chuẩn bị kỹ càng về chính trị, về quan hệ, cũng như vốn liếng thực tiễn cần thiết ngay từ sớm.
"Bây giờ, khi chúng ta đã nhìn thấy ánh sáng cuối đường hầm, khi quan hệ hai nước ấm trở lại, thì tôi mới tin là mình đã vượt qua được những thử thách đó. Chứ nhiều lúc cũng thấy mệt mỏi lắm", người thầy giáo đã bước sang tuổi 63 này tâm sự.
Số giờ dạy tiếng Nga ít đi, mà tiền soạn sách giáo khoa lâu lâu mới được lĩnh một cục, câu chuyện cơm áo gạo tiền hàng tháng không phải chuyện đùa đối với Giáo sư - Tiến sĩ Ngôn ngữ và Văn hoá Nga Đỗ Đình Tống. Nhất là, cô Tuyết Nga, vợ thầy, cũng là một đồng nghiệp cùng khoa.
"Nhiều hôm, cũng phải nhảy xuống bếp, làm bánh ga tô đến tận khuya cho kịp giao hàng cho người ta", người con trưởng trong một gia đình có nghề làm bánh ga tô từ thời Tây vừa cười vừa nói.
Nhưng có lẽ thời điểm thất vọng nhất trong đời một thầy giáo tâm huyết như thầy Tống có lẽ là dịp khai giảng năm học 2008-2009. Khi đó bộ sách giáo khoa tiếng Nga mới với sự thống nhất chương trình liên tục từ lớp 6 đến lớp 12, mà ông đã dày công biên soạn, cũng vừa được in xong.
"Chẳng hiểu lãnh đạo Bộ Giáo dục nghĩ gì mà lại ra quy định rằng điều kiện để có thể thi đầu vào học thạc sĩ và làm tiến sĩ chỉ là chứng chỉ Toefle tiếng Anh. Vậy học sinh đại học sẽ không học các thứ tiếng khác, kéo theo việc học sinh phổ thông cũng vĩnh biệt luôn tiếng Nga", ông thốt ra trong tiếng thở dài - một điều người viết chưa từng chứng kiến ở con người đầy bản lĩnh và luôn lạc quan này, kể từ khi biết ông gần bốn chục năm qua.
Thế nhưng, trong buổi dự một tiết dạy sau đó mấy ngày của ông, người viết vẫn thấy ông hào hứng mang ra giới thiệu với sinh viên lớp cử nhân chất lượng cao, và hăng say trả lời các câu hỏi của họ.
May thay, cuối năm 2008, chính Phó Thủ tướng kiêm Bộ trưởng Giáo dục Nguyễn Thiện Nhân, người ấp ủ một kế hoạch lớn lao là thành lập ở Việt Nam bốn trường đại học đẳng cấp quốc tế là Việt - Đức, Việt - Nga, Việt - Pháp và Việt - Mỹ, đã tỏ ra sáng suốt khi ban hành một quyết định mới phủ nhận cái quyết định ông ký trước đó 3 tháng. (Có lẽ, quá bận bịu với chức trách của một phó thủ tướng, ông Nhân đã không có đủ thời gian để kiểm tra kỹ càng những gì mà cấp dưới đặt lên bàn để ông ký).
Một nữ sinh viên tâm sự: "Sở dĩ, bọn em vẫn say mê với tiếng Nga là do thầy đấy. Nếu bảo thầy là người truyền lửa cũng chẳng nói quá tí nào. Chứ, thú thật với anh, bọn em vẫn không biết xin việc ở đâu, và vẫn phải học thêm tiếng Anh đấy."
Lúc đó, tôi đã nói với các cô sinh viên đó rằng cứ yên tâm chờ đợi, thể nào các cô cũng tìm được đất dụng võ. Ít nhất là trong ngành du lịch, bởi số du khách Nga sang Việt Nam ngày càng nhiều.
... Hy vọng về một thời trở lại
Tôi nói vậy không để an ủi các cô, bởi tôi tin vào điều đó.Tôi đã được nghe hai câu chuyện từ hai người bạn cùng khoá.
Lưu Liên Hương, hiện đang công tác tại một cơ quan phụ nữ cấp trung ương, trong một dịp sang Thái Lan dự hội thảo vào năm 2007, nhờ vốn tiếng Nga học từ thời phổ thông và đại học của mình, mà chỉ trong 3 - 4 ngày đã kiếm được số tiền gấp 10 lần số tiền tiêu vặt mà các nhà tổ chức hội thảo cấp cho cô.
Tình cờ giúp đỡ một nhóm chuyên gia Nga cũng đi dự một cuộc hội thảo khác trong một vụ bất đồng ngôn ngữ với nhân viên khách sạn, Liên Hương đã được họ xoắn lấy nhờ dẫn đi tham quan các chùa chiền ở Bangkok. Họ còn khẩn khoản nhờ Liên Hương làm đại diện cho họ ở khu vực Đông Nam Á.
Lê Văn Đức, người học cùng khoá với Liên Hương và hiện là giám đốc một công ty TNHH một thành viên - một nhân viên về du lịch trong suốt một phần tư thập kỷ qua, đã kể: "Khách Nga bây giời xịn lắm. Thay vì tặng lại cho hướng dẫn viên tất cả những gì còn sót lại sau chuyến đi, như bánh kẹo, đồ hộp, thậm chí cả thuốc Tây, như cách đây chục năm, hiện nay du khách Nga toàn "bo" bằng vé (tờ 100 USD). Thậm chí còn hậu hĩnh hơn cả khách phương Tây nữa."
(Trước đây hơn chục năm, có lần Lê Văn Đức đã từng phải chịu đựng "cuộc chiến tranh lạnh", kéo dài cả tháng trời, khi vợ anh, cũng là một cựu sinh viên ở Nga, phát hiện ra trong túi quà mà một nữ du khách Nga tặng lại cho chồng có cả một vỉ thuốc tránh thai đang dùng dở.)
Nhưng mối quan hệ đang được nối lại giữa hai đồng minh một thời đâu chỉ dừng lại ở đó, ít nhất là trong hai năm trở lại đây. Trong chuyến thăm chính thức Việt Nam cuối tháng 10 vừa rồi, Tổng thống Nga Medvedev đã cùng người đồng cấp phía Việt Nam khẳng định sẽ thúc đẩy mạnh mẽ mối quan hệ song phương, nhất là về kinh tế - thương mại, năng lượng và quốc phòng. Ông Tổng thống cũng hứa sẽ xem xét việc tăng số lượng học bổng cấp hàng năm cho sinh viên Việt Nam qua Nga học.
Nhưng quan trọng hơn, trong cuộc gặp với lãnh đạo các quốc gia Đông Nam Á ngay trước đó trong khuôn khổ Cấp cao ASEAN - Nga lần thứ hai, người đứng đầu nhà nước Nga cũng đã khẳng định sẽ phát triển quan hệ kinh tế - thương mại, giao thông vận tải, năng lượng, khoa học công nghệ, cũng như văn hoá - du lịch, với ASEAN. Tổng thống Nga tuyên bố Nga quan tâm sử dụng tiềm năng hiện đại của ASEAN để phát triển kinh tế Siberia, và nhất là Viễn Đông - một khu vực biên giới có tầm quan trọng về an ninh của Nga.
Ai cũng hiểu rằng để xâm nhập ASEAN, cũng như lôi kéo ASEAN đến Siberia và Viễn Đông, Nga chắc chắn phải dựa vào đối tác quan trọng với họ trong ASEAN là Việt Nam, với một mối quan hệ đã được thử thách qua sáu thập kỷ qua. Mặc dù, quan hệ có lúc nồng ấm, có lúc hơi lạnh nhạt, nhưng chưa bao giờ nóng bỏng hay đóng băng như với một cường quốc khác, cũng kỷ niệm 60 năm ngày thiết lập quan hệ ngoại giao trong năm 2010 này.
Hơn nữa, Việt Nam lại có thế mạnh về một nguồn nhân lực được đào tạo hàng thập kỷ qua cả ở Nga, Liên Xô cũ, hay Việt Nam, lẫn những lứa học trò do thầy Tống cùng các đồng nghiệp ở khoa Nga đào tạo.
Trước khi kết thúc bài viết này, người viết muốn kể lại với các cô sinh viên lớp cử nhân chất lượng cao mà người viết đã gặp cách đây hai năm về một kỷ niệm với thầy Tống của các cô, và cũng là thầy Tống của chúng tôi 25-30 năm về trước và mãi mãi về sau.
Cách đây khoảng 26-27 năm, hình như cũng vào dịp này, thầy Tống có yêu cầu người viết đọc trước lớp bài thơ "Жди меня" (Đợi anh về) của nhà thơ Nga К. Симёнов, mà thầy đã dặn học thuộc lòng từ buổi học trước. Sau khi người viết đọc xong, trong tiếng im lặng của cả lớp, thầy đã nói: "Nếu đây là kỳ thi, tôi sẽ cho bạn điểm 10 mà không cần yêu cầu phân tích bài thơ này. Sự diễn cảm của bạn chứng tỏ bạn không những rất hiểu, mà cảm nhận hết cái hay của bài thơ."
Rồi thầy nói thêm: "Все девочки этои группы будут ждать тебя!" (Các cô bé trong lớp này đều sẽ chờ đợi bạn!)
(Xin nói thêm ngoài lề, riêng về điểm này, mặc dù rất kính trọng thầy và muốn thầy vui trong những ngày này, người viết vẫn phải nói rằng thầy Tống không giỏi. Bởi thầy đã chỉ đoán đúng một phần rất nhỏ, chỉ khoảng 5-7%. Tức là chỉ có một cô bé chờ đợi tôi, và chờ đợi cho đến ngày hôm nay. Nhất là vào những tối tôi quá vui với bạn bè, để mắng cho một trận, vì cái tội rượu chè bê tha.)
Giờ đây, tôi không còn nhớ cả bài thơ. Nhưng có một câu, hình như câu đầu, tôi không bao giờ quên.
Đó là: "Жди меня, и я вернусь! Tолко очень жди!" (Đợi anh, anh sẽ về! Hãy kiên tâm chờ đợi!)
Thời của tiếng Nga, của những người học tiếng Nga, dường như đang quay trở lại! Đối với những người đã kiên tâm chờ đợi như thầy Tống, những đồng nghiệp của thầy, và cả những ai tin thầy như các cô sinh viên lớp cử nhân chất lượng cao nói trên. Và cả những người như người viết, và cô bé đã chịu khó đợi chờ người viết, cũng như bạn bè của họ.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét