Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Tổng kết không chỉ là khẳng định thành tựu...

Ngày 21.06.2006, 09:29 (GMT+7)
Đánh giá về sáng kiến tổ chức "Bàn tròn tổng kết 20 năm Đổi mới", Đại sứ Hoa Kỳ đầu tiên tại Việt Nam Pete Douglas Peterson nhận xét: "Bản thân việc nhìn nhận lại 20 năm phát triển trong lịch sử của mình cũng là một điều hiếm hoi trên thế giới ngày nay. Đó là lấy bài học rút ra từ đoạn đường đã đi để định hướng cho chặng đường còn dài hơn phía trước!"
Ông Peterson đang trao đổi với bà Phạm Chi Lan và Đại sứ Thuỵ Điển bên lề hội nghị
Trong bản tham luận tại Hội thảo, ông Peterson đã nhấn mạnh rằng "chính người Việt Nam phải tự đánh giá về mình, phải tự đưa ra được một lộ trình phát triển tiếp tục dựa trên những thành quả đạt được từ các chính sách đổi mới, cũng như những gì chưa làm được, hay những cơ hội bị bỏ lỡ, và đưa ra những chính sách mới dựa trên những gì họ dự báo trước được về những thách thức trong tương lai".
Trên tinh thần đó, ông đã có cuộc trao đổi thẳng thắn với Sài Gòn Tiếp Thị về "những vấn đề không mới", nhưng lại rất cần thiết nếu được nhìn nhận, đánh giá một cách nghiêm túc vì một mục đích duy nhất: Không nên mắc những sai lầm tương tự trong tương lai!
Điều quan trọng: tự mình đánh giá mình
Điều làm tôi hơi cảm thấy thất vọng là ở cuộc bàn tròn lần thứ 4 này là trước khi tham dự chúng tôi không có được trong tay những kết quả của ba vòng trước làm cơ sở cho một sự hiểu biết ở một mức độ cao hơn lần này, và dường như chúng tôi đã phải bắt đầu lại từ con số 0. Cách tổ chức độc lập 4 vòng bàn tròn khiến những kết quả thu được rời rạc hơn, thiếu tính kế thừa và thiếu sức thuyết phục với những nhà hoạch định chính sách cho tương lai.
Có một điều nữa làm tôi băn khoăn là không hiểu phía Việt Nam sẽ công bố những kết quả thu được từ các vòng bàn tròn này ra công luận thế nào, hay là họ lại để cho Hoa Kỳ lo việc này. Thật không hay tí nào khi để người bên ngoài đánh giá lại cả quá trình hoạt động của chính anh. Trong bản tham luận của mình, tôi cũng nhấn mạnh rằng chính người Việt Nam phải tự đánh giá về mình, phải tự đưa ra được một lộ trình phát triển tiếp tục dựa trên những thành quả đạt được từ các chính sách đổi mới và đưa ra những chính sách mới dựa trên những gì họ dự báo trước được về những thách thức trong tương lai. Điều này có vẻ hơi mang tính chủ quan, nhưng thực sự rất cần thiết: Những bài học từ quá khứ sẽ giúp phát hiện ra những thách thức trong tương lai với những diễn biến phức tạp hơn nhiều!
Bài học sai rút ra từ khủng hoảng châu Á
Tôi không nghĩ rằng phía Việt Nam đã nhận thức được hết những gì đã diễn ra xung quanh họ. Chẳng hạn về cuộc khủng hoảng châu Á cuối thế kỷ trước, điều đáng buồn nhất là họ đã rút ra một bài học sai về nó. Thay vì nhìn nó như một hiện tượng thị trường, lúc người ta suy thoái chính là cơ hội để mình tận dụng và bứt lên, thì họ lại chỉ nhìn thấy những gì xảy ra ở Indonesia, Thái Lan hay Hàn Quốc để kết luận rằng cơ chế thị trường chứa đầy hiểm hoạ, và kết quả là Việt Nam đã chựng lại trên con đường đi mà họ đã khởi đầu rất mạnh dạn và hăm hở ít năm trước đó. Họ không hiểu kinh tế thị trường là vậy, khi người khác chựng lại là lúc anh phải vượt lên, cũng như người khác sẽ vọt lên nếu anh gặp phải những khó khăn tương tự.
Bài học đúng ở đây là mọi sự cạnh tranh đều có thể định giá được, và việc huy động và sử dụng một lượng vốn tối đa chỉ có thể thực hiện trong nền kinh tế thị trường chứ không phải trong nền kinh tế tập trung, nơi người điều hành thông qua các mệnh lệnh hành chính một cách máy móc. Người Việt cần phải xác định rõ bài học này một cách nhanh chóng để có cơ chế điều hành nền sản xuất hàng hoá một cách phù hợp, thay vì đứng tách ra bên lề đường và nhìn theo dòng chuyển động của cuộc sống theo kiểu "wait and see" (chờ xem sao).
Chậm ký BTA với Mỹ: Việt Nam phải trả giá cao hơn
Tôi hoàn toàn có cơ sở để tin rằng nếu BTA được ký vào năm 1999 tại Oakland (Hội nghị Thượng đỉnh APEC tại New Zealand), Việt Nam có thể kết thúc đàm phán song phương với tất cả đối tác trong WTO cách đây ít nhất là 3 năm, bởi ai cũng hiểu rằng thoả thuận song phương của Hoa Kỳ với bất cứ đối tác nào cũng có tác động rất lớn đến quyết định của các đối tác khác.
Khoảng cách một năm giữa ký tắt và ký chính thức đã khiến hai nước mất đi 2 cơ hội: thứ nhất, chúng ta mất đi một năm mà không có tiến bộ gì trong quan hệ thương mại giữa hai nước; thứ hai, khả năng Quốc hội thông qua BTA trước khi nhiệm kỳ Tổng thống Bush bắt đầu đã bị bỏ qua, và trong nhiệm kỳ mới của mình, Chính phủ của ông Bush đã phải làm lại từ đầu với những rắc rối thương mại khác. Lúc đầu họ (PNTR) đã đưa vấn đề BTA với Việt Nam ra Quốc hội cùng với những hiệp định thương mại khác trong một dự luật cả gói với hy vọng có thể giành được thêm quyền tự do trong đàm phán thương mại, và kết quả là BTA với Việt Nam bị "giữ làm con tin" trong một khoảng thời gian dài. Sau đó khoảng gần 1 năm, Đại diện Thương mại Mỹ lúc đó là Đại sứ Zoellick (hiện là nhân vật thứ hai ở Bộ Ngoại giao Mỹ) mới chịu tách riêng vấn đề Việt Nam ra và BTA với Việt Nam mới được thông qua. Việc chậm trễ này đã khiến các cuộc đàm phán song phương về WTO của Việt Nam với các nước khác và cả Mỹ bị chậm đi đáng kể.
Nếu BTA được ký và thông qua sớm, những yêu cầu về mở cửa thị trường tuy có cao hơn nhưng cơ bản vẫn dựa trên BTA cả về lộ trình lẫn điều kiện mở cửa thị trường. Với một thời gian gián đoạn, khi hai bên trở lại gặp nhau trên bàn đàm phán về việc Việt Nam gia nhập WTO, những điều khoản mới đã được đưa vào với những yêu cầu còn khắc nghiệt hơn rất nhiều. Có thể nói rằng với sự chần chừ trong việc ký BTA, Việt Nam đã phải trả giá cao hơn rất nhiều trong việc gia nhập WTO, và điều này không chỉ do phía Mỹ mà từ cả các nước thành viên khác của WTO vì quy định về việc kết nạp thành viên của tổ chức này mỗi năm lại trở nên ngặt nghèo hơn dựa trên các hiệp định của nó.
Huỳnh Phan ghi

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét