Phần 2 cuộc trò chuyện của phóng viên Huỳnh Phan với Peter Arnett, diễn ra cách đây một năm, trong chuyến đi thăm lại địa đạo Củ Chi của nhóm cựu phóng viên chiến trường quốc tế vào dịp kỷ niệm 35 năm ngày chiến tranh kết thúc ở Việt Nam.
Trong cuộc trò chuyện này, phóng viên Huỳnh Phan không hy vọng có thể đưa ra những phát hiện mới mẻ, kiểu như "chuyện bây giờ mới kể". Tác giả chỉ hỏi những điều mình quan tâm, với giả định rằng có một số độc giả, nhất là các độc giả trẻ, cùng có mối quan tâm như mình. Và sự quan tâm của tác giả không chỉ dừng lại ở câu chuyện lịch sử, mà cả chuyện nghề, chuyện người.
Việt Nam đã biến tôi thành phóng viên chiến trường chuyên nghiệp
Ông đã tham gia tường thuật nhiều cuộc chiến khác nhau. Vậy cuộc Chiến tranh Việt Nam khác với các cuộc chiến tranh khác, dưới góc nhìn của một phóng viên chiến trường như ông, thế nào?
- Thứ nhất, Chiến tranh Việt Nam là cuộc chiến tranh đầu tiên, dài nhất, lớn nhất và quan trọng nhất, mà tôi từng tường thuật. Cũng vì lý do đó, mọi cuộc chiến tranh sau này đều nằm dưới cái bóng của cuộc chiến ở Việt nam. Tôi và các đồng nghiệp, từng đưa tin ở Việt Nam, đều nhìn nhận các cuộc chiến sau đó dưới ánh sáng của những trải nghiệm ở Việt Nam.
Hơn nữa, khi tôi đến Iraq, gặp Saddam Hussein, tường thuật về cuộc ném bom Baghdad, chẳng hạn, những kỹ năng tôi đã sử dụng để có thể sống sót ở Iraq, tôi đều học được từ Việt Nam. Hay, để có những phóng sự hay về chính quyền quân sự ở Guatemala, hay Nicaragua, vào những năm '80, những kỹ năng học được từ Việt Nam đã giúp tôi rất nhiều.
Hoàn toàn có thể nói Việt Nam đã thay mặt số mệnh đặt tôi vào cái nghiệp của một phóng viên chiến trường chung thân. (Cười lớn).
Tại sao trong sự nghiệp phóng viên của mình ông chủ yếu chỉ làm cho hai hãng truyền thông là AP và CNN?
- Trong cuộc đời phóng viên của mình, 20 năm tôi làm cho AP, và 20 năm làm cho CNN. Tại sao hả? Tại vì có một điều rất quan trọng đối với một phóng viên quốc tế, đặc biệt là phóng viên chiến trường, là anh phải được làm ở cái hãng sở trường về đưa tin chiến tranh. Hầu hết các hãng truyền hình và báo chí đều không đưa tin chiến tranh, bởi điều đó rất nguy hiểm và tốn kém.
Như vậy, muốn trở thành phóng viên chiến trường, anh cần phải biết chọn đúng hãng. Tôi đã đi theo con đường như vậy, và tôi đã có được sự hỗ trợ đầy đủ của những hãng mà tôi đã phục vụ.
Ngược lại, việc chọn những hãng như vậy cũng lại là một sự mạo hiểm. Bởi những gì anh thực hiện sẽ đến với nhiều khán giả, thính giả, hay độc giả, khiến nhiều người phải suy ngẫm, và tác động nhiều đến tư duy và hành động của họ. Anh phải ý thức được điều đó một cách đầy đủ khi đưa tin, và chịu hoàn toàn trách nhiệm về những tường thuật của mình.
Và điều đó cũng tạo rất nhiều sức ép, bởi nếu đưa tin sai, thì anh biết đấy...
Cựu phóng viên chiến trường Peter Arnett giới thiệu người cựu đồng nghiệp tại văn phòng AP Kỳ Nhân - người đồng thời là một Việt Cộng nằm vùng.
|
Ông có luôn phải chịu những sức ép như vậy không?
- Tất nhiên là có chứ. Nhưng là phóng viên chiến trường, ưu thế lớn nhất của anh là hàng ngày được chứng kiến các trận đánh, có cơ hội trao đổi với những người tham gia các trận đánh đó. Như vậy, làm sao anh có thể đưa tin sai được? Trừ phi... (Nhún vai.)
Tôi luôn viết bài, hay phân tích chiến sự, dựa theo những gì tôi tận mắt chứng kiến, hay chụp (ảnh) được. Tôi chỉ trích dẫn những người tôi thực sự đã phỏng vấn.
Trong suốt 13 năm đưa tin ở Việt Nam, tôi đã viết khoảng ba ngàn rưởi bài báo. Nhiều bài trong số đó đã không được cả ba đời tổng thống Mỹ là Kennedy, Johnson và Nixon thừa nhận. Thế nhưng, không có một bài báo nào bị coi là thiếu chính xác. Tôi vượt qua tất cả những thách thức đó, bởi bài nào tôi cũng chỉ viết những gì mà tôi mục sở thị ngoài chiến trường.
Và ông chỉ tường thuật cuộc chiến từ phía quân đội Mỹ và quân đội Sài Gòn?
- Hầu như là vậy. Mặc dù, tôi luôn cố gắng đảm bảo tính khách quan trong các bài tường thuật của mình.
Nhưng cũng có lần tôi có cơ may mô tả cuộc chiến từ phía ngược lại. Đó là vào năm 1972, trước khi hai bên ký hoà ước Paris.
Khi đó, tôi cùng với một nhóm phản chiến bay tới Hà Nội. Tôi tham gia nhóm này với tư cách một phóng viên đưa tin, chứ không phải thành viên của nhóm, để chứng kiến ba tù binh Mỹ được trả tự do.
Bài viết của tôi đã gây tranh cãi lớn. Tôi cùng với hãng AP đều chờ đợi một thách thức lớn từ phía chính quyền Mỹ. Cuối cùng, do bài viết của tôi khá cân bằng, sau đó những người định chỉ trích tôi đã không tìm thấy bất cứ điều gì sai trong đó.
Peter Arnett thời trẻ cùng các đồng nghiệp của Văn phòng AP Sài Gòn |
Nói chung, tôi luôn cố gắng tiếp cận sự kiện ở khoảng cách gần nhất có thể được, và vì vậy những người lính chưa bao giờ chỉ trích, hay thậm chí phàn nàn, về tính chân thực của các bài viết của tôi.
Làm sao những người lính lại đọc được các bài viết của ông?
- Trong thời gian tôi làm cho AP ở Việt Nam, hầu hết báo chí Mỹ, nhiều báo châu Âu và châu Á đã sử dụng tin bài của AP.
Bất cứ bài viết nào của tôi viết về một đơn vị quân đội Mỹ, nghe họ kể về lòng quả cảm, cũng như những lời phàn nàn của họ, đều được đăng tải trên những tờ báo ở thành phố quê hương của những người lính này, bởi tên tuổi và quê hương của họ đều được tôi ghi rõ trong bài viết.
Cha mẹ, hay vợ của họ sẽ cắt bài viết trên báo, bỏ vào bì thư và gửi cho họ. Chỉ khoảng 2-3 tuần sau là họ nhận được.
Nếu tôi viết không chính xác, lần sau đến đó, ắt hẳn tôi sẽ bị họ tẩy chay. Nhưng suốt thời gian ở Viêt Nam, tôi chưa bao giờ bị "cấm cửa" cả.
Báo chí góp phần giúp chiến tranh sớm kết thúc
Các bài báo của ông đã ảnh hưởng tới dư luận Mỹ như thế nào?
Như tôi đã nói ở trên, tôi viết khoảng ba ngàn rưởi bài báo, được sử dụng rất rộng rãi trên khắp nước Mỹ, nhất là trên những tờ báo có ảnh hưởng lớn như New York Times, hay Washington Post. Vì vậy, mức độ ảnh hưởng của chúng rất lớn.
Cùng với các đồng nghiệp, tôi đã viết cả về sự gan dạ của những binh sĩ Mỹ, nhưng cũng viết về những thất bại của họ. Cuối cùng, dư luận Mỹ cho rằng đây không phải cuộc chiến mà họ cần ủng hộ. Chính vì lý do đó, Tổng thống Lindon Johnson, thay vì tiếp tục chạy đua cho nhiệm kỳ thứ hai, đã tuyên bố rút lui vào năm 1968, khiến Đảng Dân chủ đã bị thua trong cuộc bầu cử năm đó.
Một điều tương tự đã lặp lại trong cuộc chiến tranh Iraq, khi vào năm 2006 dư luận Mỹ bắt đầu phản đối cuộc chiến này. Đảng Cộng hoà đã thua trong cuộc bầu cử hai năm sau đó, còn Barrack Obama đã thắng cử với cam kết rút quân khỏi Iraq.
Như vậy, dư luận ở Mỹ là cực kỳ quan trọng, và truyền thông có ảnh hưởng rất lớn lớn tới dư luận Mỹ. Đặc biệt, trong chiến tranh Việt Nam, ảnh hưởng tiêu cực nhiều hơn tích cực.
Chẳng hạn, bức ảnh của Eddie Adams chụp tướng Loan bắn vào một tù binh Việt Cộng, loạt phóng sự và hình ảnh về những người dân vô tội bị thảm sát ở Mỹ Lai, hay bức ảnh về cô bé Kim Phúc bị bom napalm...
Và không chỉ những gì những người dân thường vô tội phải chịu đựng, mà số thương vong của binh lính Mỹ cũng gây tác động mạnh đến phong trào phản chiến. Có tới hơn 60 ngàn lính Mỹ bị chết trong cuộc Chiến tranh Việt Nam.
Công chúng Mỹ có phải là đối tượng độc giả duy nhất mà các hãng truyền thông Mỹ phục vụ?
Không hẳn vậy. Chúng tôi còn hướng tới đối tượng độc giả là là giới chính khách. Bởi những người trong giới chính khách phản đối cuộc chiến này sẽ đọc các bài tường thuật và phân tích của chúng tôi. Hơn nữa, chúng tôi cũng hy vọng giới quân sự trong chính quyền cũng là những độc giả của mình. Vì những bài báo với quan điểm độc lập của chúng tôi trên trang nhất của những tờ như New York Times, hay Washington Post, sẽ khiến Tổng thống Johnson và Lầu Năm Góc phải suy nghĩ kỹ lại.
Phản ứng của họ ra sao?
Nói chung, họ thường phê phán chúng tôi là đưa tin với những định kiến. Thật vớ vẩn! Như tôi đã kể với anh đấy, tại sao họ lại có thể có bảo chúng tôi đưa tin không khách quan, khi những người lính được chúng tôi phản ánh trong những bài viết của mình lại đánh giá cao sự trung thực và khách quan của chúng tôi?
Bức ảnh Kim Phúc đoạt giải Pulitzer năm 1973
|
Cuộc đời thú vị nhất là đưa tin chiến trường
Khi sang Việt Nam, ông đã là phóng viên biên chế của AP. Nhưng nhiều người khác, theo tôi được biết, sau khi sang Việt Nam mới được các tờ báo, hãng truyền hình, hoặc hãng tin tuyển dụng. Thậm chí, có những người vẫn tiếp tục làm phóng viên tự do và bán tin bài, hoặc ảnh cho các tờ báo.
Ông có biết lý do vì sao không?
- Chỉ cần một bức thư giới thiệu của lãnh đạo một cơ quan truyền thông, chẳng hạn như tờ báo của thành phố quê anh, thế là ở đây người ta cấp cho anh cái thẻ hành nghề. Anh có thể tự do đi theo các đơn vị quân đội ra chiến trường.
Quân đội không bắt anh trả tiền vé máy bay (cười), cũng không thu phí dịch vụ. Nếu anh bị thương, họ sẽ chữa trị miễn phí cho anh. Chỉ có điều khi anh chết, việc đưa thi hài về nước là việc riêng của gia đình anh, chứ không phải nghĩa vụ của họ.
Vì vậy, một phóng viên tự do hoàn toàn có thể sống hàng năm ở Việt Nam và kiếm sống rất ổn.
Nhưng tại sao nhiều thanh niên Mỹ lại chọn sang Việt Nam làm phóng viên, thay vì chọn nghề nghiệp khác ở quê nhà?
- Xin hãy làm ơn cho tôi biết, đối với những chàng trai trẻ đầy hoài bão và máu phiêu lưu, có nghề gì thú vị hơn nghề phóng viên? Anh không trả lời được hả? Họ đến Việt Nam là vì lẽ đó đấy.
Có một điều thú vị nữa là truyền thống của nghề phóng viên chiến tranh ở phương Tây là truyền tin bài bằng telex. Tức là anh có thể viết bài tường thuật và gửi về trong ngày để kịp cho số báo sáng hôm sau. Từ cuộc nội chiến ở Mỹ đến cuộc chiến tranh giữa người Anh và người Nga ở Crimea. Hay đối với các cuộc chiến tranh ở châu Á cũng vậy.
Hàng ngày, giới trẻ đọc những bài tường thuật như vậy từ chiến trường, và không ít người trong số họ đã ấp ủ mong ước trở thành phóng viên chiến trường. Họ có một cảm xúc rất mạnh muốn biết chiến tranh là như thế nào.
Nói một cách công bằng, cái mác của một phóng viên chiến trường cũng hấp dẫn lắm chứ. Anh được chứng kiến cuộc chiến diễn ra hàng ngày, và tường thuật về nó cho nhiều người khác.
Hơn nữa, việc đưa tin chiến sự cũng giúp anh kiểm chứng được sự can trường, bản lĩnh, và năng lực mình một cách nhanh nhất, chính xác nhất, bởi sự cạnh tranh thông tin rất lớn.
Hiện nay, nhiều phóng viên không chọn tường thuật chiến tranh. Họ thích chính trị, thể thao, tin địa phương, hay chuyện gia đình hơn. Tôi không trách họ, bởi họ không muốn mạo hiểm mạng sống của mình.
Thời đó, các phóng viên được đào tạo như thế nào?
Thời của tôi chưa có trường đào tạo báo chí riêng, mà chỉ có những trường đào tạo chung thôi. Lúc đó, hầu hết các báo đều tuyển dụng những người tốt nghiệp đại học, đang học đại học, ở những chuyên ngành khác, hay thậm chí mới tốt nghiệp phổ thông.
Những phóng viên trẻ này đã chủ yếu học nghề báo từ thực tiễn, qua những gì mình tường thuật, hoặc khả năng chắp nối thông tin. Hồi đó học nghề chủ yếu là học cách quan sát, phân tích thông tin, rồi tích luỹ kiến thức qua từng lần đưa tin, tường thuật, hay từng cuộc phỏng vấn. Thế rồi , mỗi người trong chúng tôi đã trở thành chuyên gia trong một mảng nhất định.
Cũng có những người trở thành phóng viên sau khi thực hiện nghĩa vụ quân sự. Tôi là một trong số đó, mặc dù đơn vị của tôi không được điều sang tham chiến ở Việt Nam. Có thể nói những gì quân đội dạy cho tôi đã giúp tôi rất nhiều trong việc tường thuật cuộc chiến.
Chỉ sau này khi dân số tăng lên, cũng nhiều người muốn theo nghề báo, nên mới có những trường đào tạo chuyên về báo chí. Chẳng hạn, ở New Zealand, nơi tôi sinh ra và lớn lên, chỉ tới cuối những năm '80 mới có trường báo chí riêng.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét