Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Con đường ký ức của một phóng viên chiến trường

Con số phóng viên quốc tế và bản địa bị giết ở trong cuộc chiến tranh Đông Dương lần thứ 2 trên đất Campuchia có thể đã lên tới 40, nếu ba phóng viên đầu tiên không may mắn rơi vào tay bộ đội Bắc Việt, vào những ngày đầu tiên của cuộc chiến. Một trong số họ đã có mặt trong lễ cầu siêu ở Wat Po. Đó là Mike Morrow - người cho đến bây giờ vẫn bị ràng buộc với Việt Nam bởi nhiều ký ức vui buồn khác nhau.

Kết thúc cuộc Hội ngộ Phnom Penh, vào sáng 24.4.2010 Mike Morrow cùng với ba đồng nghiệp khác lên chiếc xe buýt của hãng Caravan về TP. HCM để gặp gỡ với một nhóm phóng viên khác trong cuộc Hội ngộ Sài Gòn. Chốc chốc, ông lại ngó ra bên ngoài cửa kính xe, vẻ mặt đầy ưu tư.
Mike Morrow cho biết sở dĩ ông đều từ chối lời mời tham dự những lần hội ngộ trước đó của các cựu phóng viên chiến trường ở Sài Gòn (1995, 2000 và 2005), do bị ám ảnh bởi quá khứ quá nặng nề. Năm 1990, ông đã bị trục xuất khỏi Việt Nam, trong khi đang nỗ lực đóng góp vào việc cải thiện quan hệ, không chỉ về kinh tế, giữa hai cựu thù. Cho tới bây giờ, Mike vẫn chưa biết đích xác tại sao ông lại bị cư xử như vậy. (Tuần Việt Nam sẽ kể lại câu chuyện này trong một số tới.)
"Nhưng lần này, tôi đã không từ chối Carl Robinson nữa. Bởi cuộc hội ngộ lại bắt đầu ở Campuchia - mảnh đất có một hấp lực đặc biệt với tôi, hay, nói cách khác, đối với tôi điều kỳ diệu đã xảy ra", Mike nói.
"Tôi là một trong những phóng viên đầu tiên bị bắt ở Campuchia, trong cuộc chiến kéo dài năm năm này", Mike nói. Hai người còn lại là Richard Dudman của St Louis Post-Dispatch và Elizabeth Pond của Christian Science Monitor.
Mike Morrow hồi tưởng lại kỷ niệm với bộ đội Bắc Việt cách đây 4 thập kỷ tại một quán ăn ở Bà Vẹt.
Vào một ngày cuối tháng 3.1970, khi đang lái chiếc xe hiệu International Harvest Scout - một chiếc xe địa hình (SUV) đời đầu - trên Quốc lộ 1, từ Phnom Penh đến Bà Vẹt, biên giới với Việt Nam, với hy vọng tìm thấy một đơn vị quân đội Mỹ đang tác chiến ở khu vực này, Mike cùng hai đồng nghiệp nói trên đã rơi vào tay bộ đội Bắc Việt.
"Đơn vị này đã gặp phải sự chống trả của đối phương và đã rút mất trước khi chúng tôi tới đó. Còn chúng tôi đã chạy vượt quá đường ranh giới để chạy sang vùng do Khmer Đỏ kiểm soát", Mike kể lại.
Sống sót nhờ rơi vào tay bộ đội Bắc Việt
"Tôi đã may mắn sống sót nhờ rơi vào tay bộ đội Việt Nam, chứ không phải Khmer Đỏ, và tôi chịu ơn họ vì điều này", Mike nói.
Tuy nhiên, trước đó, Mike đã bị du kích Khmer Đỏ và dân làng gần đó đánh cho gần chết. Người chỉ huy đơn vị bộ đội Việt Nam có nói với Mike rằng ông ta đã kỷ luật người cấp dưỡng, vì mặc dù có mặt ở hiện trường mà anh ta lại không can thiệp, khi các phóng viên bị đánh.
"Tôi cho rằng đây là một biểu hiện của tính chuyên nghiệp của bộ đội Bắc Việt, khi họ tôn trọng những nguyên tắc đối xử với tù binh trong chiến tranh. Bởi lúc đó họ coi chúng tôi có thể là những kẻ do thám", Mike buột lời khen những người Việt đã bắt ông.
Cùng các phóng viên chiến trường hội ngội tại Campuchia

Tuy nhiên, Mike và hai đồng nghiệp của mình vẫn bị giải đi hết chỗ này đến chỗ khác, và bị thẩm vấn khá nhiều.
"Họ giải thích rằng làm thế là để tránh những cuộc đột kích nhằm giải cứu tù binh của quân đội Mỹ",Mike - người trở thành người phiên dịch bất đắc dĩ cho các đồng nghiệp của mình, bởi vốn liếng tiếng Việt tươm tất của mình sau 3 năm sống ở Chợ Lớn - kể lại.
Mike cùng hai đồng nghiệp Mỹ được thả sau 40 ngày.
Họ chỉ quyết định trả tự do cho chúng tôi, khi đã thật sự tin rằng chúng tôi chỉ là những phóng viên đưa tin chiến sự thuần tuý", Mike nói.
Bàn tay ngoại giao và vai trò của Phạm Xuân Ẩn?
Về lý do tại sao được thả , Mike không biết thật đích xác. Khi được chúng tôi hỏi liệu có bàn tay của người đồng nghiệp Phạm Xuân Ẩn từ Tạp chí Time hay không, Mike chỉ khẽ nhún vai.
"Tôi không chắc lắm. Trước đó, tôi đã có lần gặp Phạm Xuân Ẩn tại văn phòng của Time ở Sài Gòn, nhưng ông không hề để ý đến một phóng viên trẻ như tôi", Mike nói.
Nhưng có hai điều Mike biết rõ.
Thứ nhất, trợ lý người Việt của Elezabeth Pond sau đó kể lại với Pond rằng, khi anh ta đang uống cà phê sáng tại Givral, có một người đến ngồi cùng bàn với anh ta, và tự giới thiệu là người của Mặt trận Dân tộc Giải phóng. "Ông ta hỏi rất nhiều về Sếp và hai đồng nghiệp", người trợ lý này kể lại.
"Tức là người ta đang thẩm tra về mục đích chuyến đi của chúng tôi", Mike suy luận.
Thứ hai, Richard Dudman nguyên là một phóng viên khá tên tuổi ở Washington DC, chuyên theo dõi Nhà Trắng, và có quan hệ rất tốt với Đại sứ Liên Xô và Đại sứ Nam Tư tại Mỹ.
"Và điều đầu tiên vợ ông ta làm khi chúng tôi bị bắt là đến gặp hai vị đại sứ nói trên để nhờ họ giúp, và nhận được lời hứa sẽ làm hết sức từ họ", Mike kể tiếp.
"Nếu như có bàn tay của giới ngoại giao Nga và Nam Tư trong vụ này, tôi nghĩ có thể có cả sự can dự của Phạm Xuân Ẩn", Mike tiếp tục dòng suy tưởng của mình. Ông cho biết thêm trong thời gian họ bị bắt có một chiếc xe Honda chở một nhân vật "bí ẩn" từ Sài Gòn sang, và nói chuyện rất lâu với những người giam giữ họ.
Tình bạn với những người canh giữ
"Khi được tự do, điều khiến tôi lo lắng nhất là liệu hai quân nhân, một Việt Nam và một Campuchia, có nhiệm vụ áp giải chúng tôi suốt thời gian đó, có sống sót được không, bởi cuộc chiến quá khốc liệt",Mike nói giọng ngậm ngùi.
Mike còn kể rằng ngay trước khi bị bắt ông đã chứng kiến khá nhiều xác chết của bộ đội Việt Nam, và thậm chí có cả một cái xác bị cháy thui.
Mike với hai người áp giải mình, nhất là viên sĩ quan Việt Nam, sinh ở Phnom Penh, đã kịp trở thành những người bạn. Thậm chí, trước khi Mike được thả một tuần, khi đang di chuyển trên đường, quân đội Mỹ không hiểu vì sao đã cử trực thăng đến giải cứu.
Mike kể: "Viên sĩ quan Việt Nam đưa cho tôi chiếc khăn tay (để vẫy trực thăng), và bảo tôi chạy nhanh về phía cánh đồng lúa. Còn anh ta và người đồng đội Campuchia giương súng bắn lên trời, để rồi sẽ rút đi theo hướng ngược lại."
Có điều, sau vài loạt đạn nổ, chiếc trực thăng vọt lên cao, rồi quay đầu chuồn thẳng. Thế là là họ lại tiếp tục hành trình của mình như cũ.
Sự biết ơn của Mike về cách ứng xử của các sĩ quan Việt Nam đã được thể hiện trong bài viết đầu tiên, trong loạt 7 bài viết, sau khi ông trở lại Sài Gòn. "Nhận xét này của tôi đã không được chính quyền Sài Gòn đánh giá cao. Và, có lẽ, đó cũng là một trong những nguyên nhân khiến tôi bị họ trục xuất khỏi miền Nam Việt Nam cuối năm đó", Mike khẽ nhún vai.
Một nguyên nhân khác, theo Mike, là mối quan hệ của ông với phong trào đấu tranh vì hoà bình ở Sài Gòn lúc đó. "Còn cái cớ mà nhà cầm quyền Sài Gòn đã sử dụng để trục xuất tôi là việc tôi phanh phui ra một vụ tham nhũng của bà vợ một viên tướng, thông qua một vụ buôn bán sắt phế liệu", Mike nhếch mép cười.
Sau này, hễ có dịp, nhất là vào nửa sau những năm '80, khi trở lại Việt Nam với tư cách một thành viên Amcham ở Hồng Công để thúc đẩy giao thương giữa doanh nghiệp hai nước, Mike luôn hỏi về tung tích những viên sĩ quan đó.
"Tôi thực sự không hiểu tại sao người ta lại từ chối cung cấp cho tôi thông tin về những ân nhân của mình. Do quá khứ của tôi phức tạp, hay quá khứ của họ cũng có vấn đề?", Mike ngước nhìn người viết.
Mike có chiếc mũ bộ đội mang về làm kỷ niệm trong chuyến đi này, nhưng tung tích về các ân nhân ông vẫn không tìm được.
Chỉ đến khi gặp Nguyễn Thế Cường, một cán bộ ngoại giao, trong chuyến đi thăm địa đạo Củ Chi của nhóm phóng viên quốc tế mấy ngày sau đó, Mike mới bớt băn khoăn. Cường đã chợt nhớ ra rằng nhân kỷ niệm 25 năm ngày miền Nam Giải phóng (2000), Trung tâm Báo chí Nước ngoài (Bộ Ngoại giao) đã nhận được một bức điện của Mike nhờ hỏi thăm về tung tích ân nhân của mình.
"Ở Việt Nam, nếu không biết phiên hiệu đơn vị của những sĩ quan đó thì việc lần ra tung tích là gần như không thể", Cường giải thích với Mike.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét