Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Kỳ 4: Hãng truyền hình Nhật NDN và nhã nhạc Huế

Tuy chiến tranh Việt Nam là một chủ đề xuyên suốt trong gần năm thập kỷ hoạt động của NDN tại Việt Nam, việc giới thiệu về văn hóa Việt Nam cũng là một mảng được hãng này khá quan tâm.

"Đã làm rất nhiều chương trình văn hóa, chúng tôi vẫn cảm thấy tự hào nhất là đã đóng góp, về mặt truyền thông, vào việc nhã nhạc Huế được UNESCO công nhận là di sản văn hóa thế giới. Mặc dù, cho đến nay, hầu như chẳng mấy ai biết được điều này", Trần Huy Công, đại diện NDN tại Việt Nam - người đã theo dõi sự phục hồi và khởi sắc của nhã nhạc từ buổi đầu - nói.
Quảng bá nhã nhạc ra thế giới
Câu chuyện bắt đầu từ cuộc hội thảo quốc tế do Việt Nam, với sự phối hợp của UNESCO, đứng ra tổ chức vào hai ngày cuối tháng 8.2002 tại Duyệt Thị Đường (Huế). Mục đích của hội thảo là thu nhận ý kiến của giới chuyên gia, nhằm chỉnh sửa, bổ sung và hoàn thiện hồ sơ trình UNESCO xem xét công nhận Nhã nhạc Huế là di sản phi vật thể và truyền khẩu của nhân loại. Trong số những đại biểu tham dự có hai nhân vật rất quan trọng là Giáo sư Trần Văn Khê và Vụ trưởng Văn hóa và Sáng tạo nghệ thuật UNESCO Aikawa Noriko
Khi đưa tin về hội thảo, Trần Huy Công có đặt câu hỏi với bà Aikawa: "Theo bà, những điều kiện để nhã nhạc được UNESCO công nhận là gì?"
Vị nữ quan chức có quốc tịch Nhật Bản này đã giải thích rằng nhã nhạc Huế là tài sản vô giá, giống như nhạc cung đình của Nhật Bản, Hàn Quốc và Trung Quốc. Bà cho rằng nhã nhạc chắc chắn sẽ được công nhận, vấn đề chỉ là thời gian. Trong khi đó, Việt Nam đã đặt mục tiêu được công nhận vào năm sau.
"Muốn đạt được mục tiêu này, Việt Nam phải thực hiện gấp việc quảng bá cả trong nước lẫn quốc tế - một trong ba tiêu chí cần thiết để được UNESCO xem xét công nhận", bà Aikawa giải thích. Bà Aikawa đã đi tham quan lớp dạy nhã nhạc, và xem một buổi biểu diễn cho các đại biểu, và đưa ra nhận xét tốt về hai tiêu chí này.
Trong suốt thời kỳ chiến tranh sang tới thời kỳ bao cấp, cứ vào tối thứ bảy hàng tuần tại Vườn hoa Nhà Bát Giác, nằm ngay bên hông Nhà khách Chính phủ ở Hà Nội, dàn kèn đồng lại tấu lên. Bất kể mưa hay nắng, bất kể ít hay nhiều người. (Những hình ảnh này cũng đã được các nhà làm phim NDN ghi lại trong bộ phimHà Nội chiến đấu năm 1966.) Ảnh minh họa: nhã nhạc cung đình Huế (Đất Việt).
Trước đó, vào năm 1995, hai giáo sư người Nhật là Yamakuti Osamu và Tokumaru Yoshihito đã vận động Toyota Foundation tài trợ cho đoàn nghiên cứu nhạc học và chuyên viên kỹ thuật nghe nhìn Nhật Bản sang Việt Nam nghiên cứu nhã nhạc. Họ đã thu âm, ghi hình tất cả những gì mà các lão nghệ nhân còn nhớ được về nhã nhạc.
Hai năm sau, trên cơ sở bộ hồ sơ nhạc học đồ sộ đã được đúc kết lại này, hai vị giáo sư nói trên lại vận động được Japan Foundation tài trợ cho Đại học Huế mở một lớp đào tạo nhạc công nhã nhạc trong thời gian bốn năm. Mười lăm người đã được tuyển chọn vào khóa học, và các nghệ nhân nhã nhạc, như các cụ Hồ Viết Châu, Lữ Hữu Thi, Trần Kế, Trần Kích, hay ông Trần Thắng, đã được mời tham gia giảng dạy.
Hai vị giáo sư đáng kính trên cũng đã liên hệ với NDN, đề nghị phối hợp về mặt truyền thông. Cho đến khi khóa học này bế giảng, NDN đã kịp làm khoảng một chục tin thời sự về tiến trình khóa học. Tất cả đều được phát trên đài NHK.
Sau khi nghe Trần Huy Công báo cáo về nhận xét của bà Aikawa, ban biên tập NDN đã quyết định làm một phóng sự dài 25 phút, dưới dạng Who's who - một chương trình của Nhật Bản tương tự nhưNgười đương thời của VTV1. Phóng sự kể lại quá trình giảng dạy, luyện tập, và cả phần biểu diễn báo cáo của các nghệ nhân và sinh viên. Phóng sự này đã được phát nhiều lần trên cả hai kênh quốc nội và toàn cầu của NHK trong năm 2003.
"Nhưng phần quảng bá trong nước mới thú vị. Một trăm phần trăm ý tưởng là của tôi", Trần Huy Công bật cười khoái trá .
Từ kèn đồng Hà Nội đến nhã nhạc Huế
Trần Huy Công kể rằng, trong suốt thời kỳ chiến tranh sang tới thời kỳ bao cấp, cứ vào tối thứ bảy hàng tuần tại Vườn hoa Nhà Bát Giác, nằm ngay bên hông Nhà khách Chính phủ ở Hà Nội, dàn kèn đồng lại tấu lên. Bất kể mưa hay nắng, bất kể ít hay nhiều người. (Những hình ảnh này cũng đã được các nhà làm phim NDN ghi lại trong bộ phim Hà Nội chiến đấu năm 1966.)
"Điều đó đã ăn sâu vào tâm trí người Hà Nội. Nếu tuần này họ bận, tuần sau dứt khoát phải sắp xếp thời gian để đi nghe. Ngay cả khi đã lập gia đình rồi, tôi thỉnh thoảng vẫn đưa cả vợ con tới nghe", Trần Huy Công kể.
Cách đây bảy năm, câu chuyện đó đã được ông kể lại cho Trương Tuấn Hải, phó Giám đốc đoàn Nghệ thuật truyền thống cung đình Huế, thuộc Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế. (Trương Tuấn Hải đồng thời cũng là một trong những nhân vật chính của phóng sự về nhã nhạc phát trên NHK.)
Trần Huy Công khuyên vị lãnh đạo đoàn nhã nhạc nên tổ chức biểu diễn ở một địa điểm nhất định, như Duyệt Thi Đường, vào một ngày giờ nhất định trong tuần. "Tôi nói với ông Hải rằng sau khi thăm lăng tẩm, Đại Nội, rồi nghe ca Huế, du khách cần được nghe cả nhã nhạc nữa", Trần Huy Công kể.
Vị phó đoàn nhã nhạc còn được khuyên là phải gửi thư, gửi fax cho các hãng lữ hành, và thông báo với họ về thời gian và địa điểm của chương trình biểu diễn nhã nhạc. "Trước khi chuyển sang làm truyền hình, tôi đã có kinh nghiệm mười năm làm tour mà", Trần Huy Công giải thích thêm.
Trương Tuấn Hải đã nghe theo. Đầu tiên, ông đã cho diễn thử hai tối một tuần ở Duyệt Thị Đường. Thấy buổi nào khách cũng đông, ông cho diễn thêm hai suất sáng và chiều. Thấy vẫn đông, ông lại lập thêm một nhóm diễn nữa ở Lăng Tự Đức.
Tháng 11.2003, tại Paris, nhã nhạc đã được UNESCO chính thức công nhận là di sản văn hóa thế giới. Còn ở Huế, nhã nhạc trở thành một món ăn tinh thần không thể thiếu với du khách đến thăm cố đô, và được ghi trong mọi chương trình tour qua Huế. Còn NDN và cá nhân Trần Huy Công đã trở nên rất gần gũi đối với Trung tâm Bảo tồn di tích cố đô Huế.
"Mỗi lần có dịp vào đó tác nghiệp, lãnh đạo trung tâm lại nhắc anh em bên dưới phải coi NDN như người nhà, phải giúp đỡ như đối với người nhà. Tôi cảm nhận rằng đó là sự công nhận có ý nghĩa nhất đối với những nỗ lực của chúng tôi", Trần Huy Công nói.
Hoạt động văn hóa đầu tiên của NDN là đã đưa Đoàn ca múa nhạc trung ương sang Nhật biểu diễn trong thời kỳ chiến tranh, để khán giả Nhật lần đầu tiên được thưởng thức các nhạc công Việt Nam chơi nhạc bằng ống tre (đàn T'rưng). Sau đó, NDN đã nhiều lần mời đoàn múa rối nước Thăng Long, đoàn Nghệ thuật Bông sen (TP HCM), cũng như các ca sĩ nối tiếng của Việt Nam, sang lưu diễn khắp nước Nhật.
Những chương trình nổi tiếng của NDN về văn hóa Việt Nam phát trên truyền hình Nhật bao gồm: Văn hóa cà phê Việt, Thời trang Việt Nam, Áo dài Sỹ Hoàng, Văn hóa lúa nước và ẩm thực Việt... Đặc biệt, năm 2008, NDN đã làm một phóng sự dài khoảng 90 phút về văn hóa và sinh hoạt của người H'mong ở Mường Khương (Lào Cai), với những cảnh quay về chợ tình, vẫn còn hoàn toàn nguyên sơ và tục cướp vợ.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét