"Trong câu thơ của Nguyễn Bính là áo dài khuy bấm em làm khổ tôi, hay van em em hãy giữ nguyên quê mùa... Người làm quản lý, cũng như nhân vật trong bài thơ trên của Nguyễn Bính, phải là người đàn ông mạnh mẽ, phải chấp nhận cái áo cài khuy bấm kia, bởi cô gái sau khi lên tỉnh đã thay đổi, và khó bắt cô ấy giữ nguyên quê mùa được" - LS Trần Hữu Huỳnh bộc bạch.
Bộ Công Thương đang soạn thảo nghị định mới thay thế cho nghị định 59 CP/1999, thực hiện Luật Thương mại, với một trong những lý do là để cập nhật sự phát triển đa dạng của hàng hóa và dịch vụ sau hơn 10 năm, cũng như hợp nhất hóa các qui định về điều kiện kinh doanh được đưa ra rải rác trong các quyết định ở cấp bộ quản lý ngành.
Tuy nhiên, với số lượng các điều kiện kinh doanh trong bản dự thảo mới tăng đáng kể so với trong Nghị định 59, những người soạn thảo đã gặp phải sự phản ứng quyết liệt từ cộng đồng doanh nghiệp đến giới chuyên gia. Đến mức mà Vụ trưởng Vụ Thị trường Nội địa Trương Quang Hoài Nam, người được giao chủ trì việc soạn thảo, phải than thở tại cuộc hội thảo góp ý kiến, được tổ chức cách đây 10 ngày tại Hà Nội, rằng trong thời gian vừa rồi, ông đã phải oằn lưng chịu đòn. Thậm chí có người, như Luật sư Trần Vũ Hải, còn say đòn tới mức sau khi nện ông Nam đến mỏi tay ở TP HCM, lại ra Hà Nội nện tiếp.
Tuần Việt Nam đã có cuộc đối thoại với Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Trưởng ban Pháp chế của Phòng Thương mại & Công nghiệp Việt Nam, người đã theo dõi rất kỹ câu chuyện này, xung quanh những nguyên nhân, hệ lụy của sự tăng cường quản lý nhà nước đối với kinh doanh, cũng như cách tiếp cận mới trong quản lý nhà nước.
Cơ hội phơi bày những bất cập
Trong cuộc hội thảo tại Hà Nội, ông Cao Bá Khoát, người đã tham gia soạn thảo luật doanh nghiệp, có nói rằng nếu Luật Doanh nghiệp là sự cởi trói cho doanh nghiệp, thì bản dự thảo sửa đổi Nghị định 59 thi hành Luật Thương mại dường như muốn trói lại doanh nghiệp. Xin ông cho biết quan điểm của mình?
LS Trần Hữu Huỳnh: - Nếu nhìn vào số lượng các hàng hóa và dịch vụ bị cấm kinh doanh, hạn chế kinh doanh và kinh doanh có điều kiện trong bản dự thảo, ta đều thấy tăng lên đáng kể so với cách đây 11 năm khi Nghị định 59 ra đời. Và, như vậy, rõ ràng đây là một nhận xét chính xác.
Các nhà soạn thảo bản nghị định sửa đổi đã tập hợp tất cả những qui định này nằm rải rác ở ở các quyết định của bộ nọ, bộ kia, hay trong nghị định nọ, nghị định kia của chính phủ. Về bề ngoài, họ dường như đang muốn gia cố tính hiệu lực pháp lý của chúng.
Bởi, về phương diện thủ tục pháp lý thuần túy, đây là sự hợp thức hóa cần thiết cho tương thích với Luật Doanh nghiệp. Luật này qui định rất rõ rằng chỉ có văn bản pháp qui do từ cấp Thủ tướng ban hành trở lên mới có quyền qui định về các điều kiện kinh doanh.
Luật sư Trần Hữu Huỳnh, Ảnh Huỳnh Phan |
Nhưng, riêng tôi lại thiên về suy nghĩ cho rằng những người soạn thảo đã nhìn thấy một sự gia tăng đến bất bình thường, so với thực tế của thị trường, của các điều kiện kinh doanh. Họ đã gom lại và bày ra cho bàn dân thiên hạ nhìn thấy những cái gì được cất giấu rải rác trong văn bản nọ văn bản kia của các bộ quản lý ngành, với những phân tích rất rõ ràng trong tờ trình khi đưa ra lấy ý kiến.
Tôi nghĩ đây là một cách làm rất chủ động của ban soạn thảo. Nhờ đó, các nhà quản lý ở chính phủ, giới doanh nghiệp và cả giới chuyên gia sẽ có một cái nhìn toàn diện về việc này, và cùng nhau xem xét lại cách tiếp cận.
Tức là họ giúp định lượng hóa cái mà xưa nay vẫn chỉ dừng ở mức định tính, tức là các doanh nghiệp cảm thấy họ bị hạn chế, cấm đoán quá nhiều?
- Chính xác. Trong Luật doanh nghiệp qui định rằng cứ 3 năm một lần các bộ và ủy ban nhân dân cấp tỉnh thành phải có trách nhiệm rà soát lại các điều kiện kinh doanh xem có phù hợp không. Nhưng, cho đến nay, hầu như chẳng có cơ quan nào chịu làm chuyện này cả.
Nếu Chính phủ nhìn nhận lại vấn đề, và có quyết tâm cao, thì đây là cơ hội tốt để loại bỏ bớt những điều kiện kinh doanh bất hợp lý. Bởi, bây giờ có một cơ sở pháp lý rất hay là dùng một văn bản pháp luật để sửa nhiều văn bản do cùng một cấp ban hành.
Nhưng nếu Chính phủ không quyết tâm cao như vậy thì sao, nhất là khi các bộ đã đưa ra các điều kiện hạn chế kinh doanh lại không muốn như vậy? Các chuyên gia và doanh nghiệp đều thống nhất với nhau một luật bất thành văn ở Việt Nam là Nhà nước cấm do nhà nước không quản được.
- Đúng vậy. Cấm là tất yếu, đặt các điều kiện khắt khe hơn là tất yếu, nếu mãi mãi chúng ta có cách tiếp cận là Nhà nước quản lý, Nhà nước giám sát. Bởi, bộ máy nhà nước không thể cứ phình to mãi theo sự phát triển của thị trường, mà thị trường thì ngày một đa dạng.
Tăng cường quản lý vì lợi ích cục bộ
Tinh thần của bản dự thảo nghị định này dường như có vẻ đi ngược lại với tinh thần đề án 30 mà Văn phòng Chính phủ đang tiến hành?
- Nghị định này với đề án 30 tuy nhằm hai mục đích khác nhau, nhưng cũng có một phần liên quan đến nhau. Bởi, đề án 30 có nhiệm vụ rà soát lại các thủ tục, trong đó có cả các thủ tục liên quan đến điều kiện kinh doanh. Như vậy, nếu không giải quyết được phần cốt lõi là điều kiện kinh doanh, thì việc cải tiến các thủ tục cũng chỉ là giải quyết phần ngọn.
Ông có hàm ý rằng bản thân việc đưa ra trong bản dự thảo nghị định trên đầy đủ những qui định kinh doanh, nằm rải rác trong các quyết định cấp bộ, là có ý nghĩa tích cực. Nhưng những người tham dự hội thảo lại cho rằng dường như việc này lại xuất phát từ lợi ích cục bộ của các cơ quan chính phủ, khi cố gắng duy trì cái cơ chế xin - cho mà theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp người ta đang cố bỏ đi. Ông giải thích chuyện này thế nào?
- Theo tôi, lợi ích luôn luôn có, bất chấp mọi sự hô hào chống lại nó. Cuộc sống còn đầy rẫy khó khăn, nhất là với đồng lương như hiện tại. Và câu hỏi đặt ra đầu tiên, về nguyên tắc, với các nhà quản lý luôn là làm cái này, hay cái kia, mình được cái gì?
Tâm lý đó là chuyện hết sức tự nhiên. Phê phán cũng chưa hẳn đã hoàn toàn công bằng với bộ máy công chức lương bổng ít ỏi, luôn phải vật lộn để đảm bảo sự sinh tồn cho bản thân và gia đình. Có điều, mọi sự đâu chỉ dừng lại ở chuyện tồn tại hợp lý, mà lại luôn phát triển thành sự làm giàu bất minh. Vấn đề ở đây là phải tạo ra ngưỡng để người ta giữ được sự liêm chính tương đối trong hoàn cảnh hiện tại.
Nếu bộ máy quản lý giám sát của Nhà nước được thiết kế phình to ra, thì chi phí để chạy bộ máy này cũng phình theo. Một nghiên cứu cho thấy kết quả của cải cách hành chính của nhiệm kỳ này là số bộ thì thu gọn lại, nhưng số lượng tổng cục, cục và vụ thì lại nở ra. Rất cần phải nghiên cứu vì sao như vậy.
Liệu có phải đó là do sự tăng cường quản lý của nhà nước đối với xã hội và thị trường hay không? Bởi, xét cho cùng, nếu cứ để bộ máy hành chính phình ra mãi, cái ngưỡng tối thiểu trong lương bổng để đảm bảo cho sự tồn tại chính đáng khó duy trì được. Hay như người ta nói, muốn trong sạch cũng khó.
Ngoài chuyện chảy máy chất xám trong bộ máy nhà nước, thì những người ở lại cũng phải chân trong chân ngoài, với chân ngoài dài hơn chân trong. Họ lấy quan hệ, lấy thông tin để chuyển ra bên ngoài, và sự thiếu minh bạch về thông tin cũng xuất phát từ đó. Việc các chính sách bị trục lợi cũng có nguyên nhân từ đó.
Tóm lại, trong qui trình hình thành chính sách, văn bản pháp qui, đều có dư địa cho sự trục lợi. Hơn nữa, việc thiếu người có năng lực, thiếu kinh phí, hay thiếu nhiệt tâm, cộng với sự giám sát thiếu chặt chẽ và công khai, sự cài cắm lợi ích là hoàn toàn có thể xảy ra.
Tôi nghĩ rằng sự duy trì dư địa cho sự trục lợi chính sách có thể do cả cách tiếp cận không đúng về vai trò của quản lý nhà nước, lẫn sự cố ý vì lợi ích cục bộ.
Trong các điều kiện kinh doanh, dự thảo nghị định cấm doanh nghiệp mở sòng bạc cho người Việt chơi. Nhưng, trên thực tế, người Việt vẫn sang Macau, Singapore, hay sang Bà Vẹt, ngay bên kia cửa khẩu Mộc Bài (Tây Ninh) để đánh bạc. Ông thấy có sự cứng nhắc trong cách quản lý không, khi nhu cầu là có thực?
- Theo tôi, ở đây không phải là câu chuyện khuyến khích, mà là buộc phải chấp nhận. Và, vì vậy, cũng buộc phải thay đổi cách quản lý cho hợp lý, chứ không nên cấm. Đó là chưa nói đến khi tư duy thoáng ra, và cho phép, liệu có thể tìm được khách truyền thống hay không?
Một dịch vụ nữa mà tôi thấy cần rà soát lại là môi giới hôn nhân với người nước ngoài. Trước đây vẫn có dịch vụ này, nhưng sau đó khi có lệnh cấm, và giao cho các hội phụ nữ địa phương. Nhưng những hội này làm gì có điều kiện để làm chuyện đó, bởi họ đâu có nguồn lực, bao gồm con người, phương tiện, thông tin, và nguồn tài chính để làm.
Hơn nữa, mình cấm mình, nhưng nước ngoài họ không cấm. Người Hàn Quốc vẫn làm, Đài Loan vẫn làm, và làm chui ở Việt Nam. Hàng trăm cô người Việt tập trung vào một khách sạn nào đó, để cho vài ba ông Đài, ông Hàn, vào chọn, y như nô lệ ngày xưa.
Cơ quan chức năng thì cứ đi bắt, đi đuổi, nhưng phát hiện ra chỗ này, họ lại chạy sang chỗ khác. Luôn luôn phải chạy theo họ một cách thụ động. Bởi nhu cầu là có, nên việc môi giới chắc chắn vẫn cứ diễn ra.
Thế thì, thay vì Nhà nước cấm một cách không hề hiệu quả, hãy để thị trường làm, và Nhà nước giám sát thị trường. Chúng ta cứ vin vào thuần phong mỹ tục, chứ thời Nguyễn Du đã có bà mối rồi. Chỉ có hồi đó chưa có chuyện đăng ký kinh doanh, chứ không bà ta cũng là doanh nghiệp rồi.
Câu chuyện nội hàm của cái gọi là thuần phong mỹ tục cũng rất cần được xem xét lại một cách kỹ lưỡng theo quan điểm hiện đại, xem nó có tương thích với sự phát triển của xã hội hay không. Chứ đằng này, chúng ta vẫn nặng về quản lý theo hướng giữ những giá trị ổn định, bất biến.
Như trong câu thơ của Nguyễn Bính là áo dài khuy bấm em làm khổ tôi, van em em hãy giữ nguyên quê mùa... Người làm quản lý, cũng như nhân vật trong bài thơ trên của Nguyễn Bính, phải là người đàn ông mạnh mẽ, phải chấp nhận cái áo cài khuy bấm kia, bởi cô gái sau khi lên tỉnh đã thay đổi, và khó bắt cô ấy giữ nguyên quê mùa được.
Tóm lại, một loạt khái niệm trong điều kiện kinh doanh, như thuần phong mỹ tục, truyền thống lịch sử, trật tự công cộng, hay an ninh quốc gia, cũng cần phải làm cho rõ. Chứ không thể mơ hồ để cơ quan quản lý muốn chụp mũ lúc nào cũng được.
Và để đánh giá mấy khái niệm này, phải giao cho các cơ quan nghiên cứu hẳn hoi, kết hợp nhiều yếu tố rồi tranh luận cho ra môn ra khoai. Chứ không để mấy ông bà soạn thảo, ngồi trong phòng lạnh, nghĩ ra theo kiểu võ đoán như hiện nay được.
Những cơ chế giám sát bị bỏ quên
Nhưng nếu sau nửa năm, giá sữa ngoại tự nhiên tăng gấp đôi, trong khi không có nhưng biến động lớn về tỷ giá hay nguồn cung trên thị trường thế giới... Ảnh: TTVH |
- Tôi nghĩ là có. Chẳng hạn, trong cơ chế quản lý giá. Mà còn không hiệu quả nữa, bởi doanh nghiệp hoàn toàn có thể lách luật. Chẳng hạn, với câu chuyện um xùm về giá sữa ngoại tăng vùn vụt trong thời gian vừa rồi.
Chẳng hạn, các nhà quản lý qui định các hãng sữa ngoại không được tăng giá vượt trần là mười mấy phần trăm trong vòng 15 ngày, họ có có thể đợi đến ngày thứ 16 mới tăng, hoặc tăng dưới mức trần một ít. Nhưng nếu sau nửa năm, giá sữa ngoại tự nhiên tăng gấp đôi, trong khi không có nhưng biến động lớn về tỷ giá hay nguồn cung trên thị trường thế giới, thì các nhà quản lý chịu.
Lúc đó, chỉ có những người tiêu dùng vào cuộc là hiệu quả nhất. Chẳng hạn, hội những người tiêu dùng sữa ngoại có thể ra lời hiệu triệu kiểu như các bà mẹ chúng ta thương con thật, nhưng chúng ta không thể chạy theo mãi cuộc đua tăng giá bất hợp lý này, và tẩy chay những nhãn hiệu sữa tăng giá bất hợp lý.
- Đâu cần phải Cục quản lý cạnh tranh phải bỏ bao nhiêu tiền ra để điều tra, mà cũng điều tra không xuể, vì nguồn nhân lực của họ đâu có đủ. Mà trên thị trường có biết bao nhiêu mặt hàng, bao nhiêu loại dịch vụ. Hơn nữa, giá cả thị trường luôn biến động hàng ngày, hàng giờ.
Trong khi đó, chúng ta có những công cụ khác để giám sát, mà không sử dụng, hoặc sử dụng không hiệu quả. Phải để các hội nhà sản xuất, hội người tiêu dùng làm phần việc của họ, như thông lệ các nước họ vẫn làm.
Ông đánh giá thế nào về Hội Bảo vệ Người tiêu dùng? Hình như tiếng nói trong giám sát và bảo vệ quyền lợi người tiêu dùng cũng chưa lớn lắm?
- Ngay trong qui chế, họ cũng rất khó hoạt động hiệu quả. Họ cần có sự ủy quyền nhất định của người tiêu dùng để khởi kiện doanh nghiệp chẳng hạn. Rồi khi khởi kiện ra rồi thì chi phí đâu để theo kiện? Sắp tới khi thiết kế luật bảo vệ người tiêu dùng chúng ta phải làm sao đảm bảo để họ có đủ quyền, và đủ phương tiện để hiện thực hóa được cái quyền đó. Chẳng hạn, sự ủy quyền mặc nhiên thông qua luật.
Hơn nữa, cũng không nên cứng nhắc là có một hội tiêu dùng chung chung, mà nên có những hội cụ thể, và không cần đông người mới lập hội. Chẳng hạn, như tôi đã nói, hội những người tiêu dùng sữa bột nhập ngoại chỉ cần vài chục người là đủ. Đăng ký xong, giải quyết xong vụ việc, rồi tự giải tán.
- Tôi cho rằng đây là lực lượng giám sát hiệu quả hơn bất kỳ một văn bản qui phạm pháp luật nào, nếu chúng ta đánh thức được trong họ cái gọi là quyền của chính họ, quyền nổi giận. Tuyên truyền cho họ về mặt ý thức, để họ không cam chịu như ngày xưa nữa, và cũng không đá quả bóng sang nhà nước nữa, mà dùng chính quyền của chính mình.
Nhưng quan trọng là nhà nước phải đưa ra được những thiết chế để người tiêu dùng có thể tự bảo vệ được mình. Thông tin thống kê sạch, và miễn phí, về tình hình thị trường trong nước và thế giới đối với các mặt hàng thiết yếu là một trong những sự trợ giúp đó.
Theo ông, vai trò giám sát của doanh nghiệp với nhau, thể hiện ở đâu? Thông qua hội ngành nghề?
- Đúng vậy. Nếu doanh nghiệp nào làm ăn bất chính, vi phạm qui định môi trường chẳng hạn, hoàn toàn có thể thông qua hội, hiệp hội mà phát hiện, và đấu tranh. Bởi, với việc trốn thuế môi trường, hay giảm thiểu chi phí xử lý nước thải, doanh nghiệp đó có thể cho ra các sản phẩm với giá cạnh tranh hơn, và đó là sự cạnh tranh không lành mạnh với các doanh nghiệp làm ăn đứng đắn trong hội, hiệp hội.
Nhưng, trên thực tế, từ trước đến giờ họ tương đối bị động. Vì sao, thưa ông?
- Bởi họ không đủ người, không đủ kinh phí hoạt động, và, quan trọng nhất, họ vẫn được coi là cánh tay nối dài của nhà nước. Một số hội tự nguyện ngoan ngoãn làm việc đó, bởi họ phải xin cơ chế, xin kinh phí, có nơi còn phải xin nhờ cả trụ sở của cơ quan nhà nước, chưa nói đến xin nhân lực.
Nhưng quan trọng hơn là tập quán, là sự bao cấp cả về tư duy. Lẽ ra, nhà nước cần hội để phản biện cho chính sách của mình trở nên cân bằng hơn, an toàn hơn, khả thi hơn, chứ không phải là tiếng vỗ tay hôi. Nhân lực chủ chốt ở các hội đều là các quan chức, công chức nhà nước về hưu. Những qui định cũ thời mà họ đã tham gia soạn thảo thời còn ở bộ máy công quyền, ít nhiều họ vẫn phải bảo vệ.
Hầu như mọi qui định đều đã được xây dựng theo hướng xin - cho, và dường như doanh nghiệp đã quen với việc này. Họ sẵn sàng tìm một vị quan chức về hưu có sẵn mối quan hệ với những người đương chức để dễ xin xỏ cái quyền lẽ ra mình được hưởng, thay vì chọn lấy người đại diện để đấu tranh giành lại nó. Tức là lối tư duy xin cho nó đã thấm không chỉ vào các cơ quan công quyền, những đối tượng được hưởng lợi, và các doanh nghiệp, những đối tượng bị thiệt hại. Qua kinh nghiệm của mình, ông có nhận thấy điều đó không?
- Hoàn toàn chính xác. Tôi cũng cho rằng cả hai phía đều phải từ bỏ cái tư duy này đi. Nếu nói hội không phát triển theo hướng tích cực là không đúng, chỉ có điều sự phát triển đó quá chậm so với yêu cầu đặt ra với kinh doanh, với quyền lợi của từng hội viên, lẫn lợi ích của cả một ngành hàng nào đó. Nhất là ở khía cạnh góp ý và phản biện cho những chủ trương, chính sách, qui định hiện hành.
Sự chấp nhận cơ chế xin - cho ở doanh nghiệp còn thể hiện ở chỗ giải pháp họ thường chọn khi gặp trở ngại hành chính là dùng sự bôi trơn cho được việc. Họ sợ gặp rắc rối khi kéo nhau ra pháp luật, bởi họ không đủ kiên nhẫn. Thậm chí, doanh nghiệp này vi phạm kiểu này và tăng khả năng cạnh tranh, họ lại chọn cách vi phạm kiểu khác để cân bằng lại. Và vì vậy, họ không chính danh để tố cáo, để thưa kiện.
- Từ trước đến nay, chỉ thấy có chuyện Honda bỏ tiền ra để cùng với cơ quan chức năng tìm ra những doanh nghiệp, cơ sở sản xuất làm hàng giả, hàng nhái. Bởi điều đó làm ảnh hưởng đến thương hiệu, và lợi nhuận của họ.
Liệu còn có một lý do nữa của doanh nghiệp, trong tâm lý xã hội nói chung, là người ngay sợ kẻ gian? Họ thấy điều ác không dám đấu tranh, bởi sợ bị trả thù vì không được pháp luật bảo vệ.
- Tôi hoàn toàn đồng ý, bởi doanh nghiệp cũng có tâm lý này. Họ tố cáo mà doanh nghiệp kia có thân có quen, có thế có lực, có tiền có bạc, họ sợ bị trả thù theo cách khác. Mà bới ra đây, ai chẳng có cái sai, dù nhỏ. Chủ nghĩa "Mackeno" (mặc kệ nó), bàng quan trong xã hội cũng thể hiện trong kinh doanh.
Ngoài chuyện thức tỉnh ý thức, chúng ta phải làm sao xây dựng được thiết chế để cho quyền của người tiêu dùng, của doanh nghiệp làm ăn chân chính được thi hành an toàn nhất, hiệu quả nhất và hợp lý nhất.
Chẳng hạn, Việt Nam là một trong những quốc gia đầu tiên tham gia Công ước Liên hợp quốc về người tiêu dùng, nhưng tôi chắc rằng nếu hỏi người dân là họ có thích làm người tiêu dùng Việt Nam hay không, nhiều người sẽ trả lời là không. Người nước ngoài đến đây cũng câu trả lời tương tự. Người tiêu dùng Việt Nam chịu nhiều rủi ro lắm, từ cái ăn, cái ở, cái thở, đến cái học vấn cái dịch vụ y tế...
Và nhà nước thay vì kiểm soát, giám sát, hãy đánh thức thị trường, để thị trường nó có cơ chế tự giám sát lẫn nhau của mình. Nhà nước với tư cách là trung tâm quyền lực tăng cường sự giám sát của mình, thông qua quản trị, tức là giám sát gián tiếp, và đóng vai trò phân xử đối với các mối quan hệ dân sự này.
Tất nhiên còn những thành tố khác như ngân hàng, chủ nợ, rồi người trong doanh nghiệp cũng có thể tham gia vào cơ chế giám sát này.
Chấp nhận tất yếu để chủ động thích ứng
Liệu có phải do thị trường ngày càng mở hơn, với sự đa dạng hóa các loại dịch vụ và hàng hóa, và, vì vậy, ngày càng trở nên nhạy cảm hơn, Nhà nước phải đưa thêm các qui phạm pháp luật để điều chỉnh, hạn chế chúng lại?
- Thứ nhất, chúng ta phải chấp nhận một thực tế là các loại hình kinh doanh, hàng hóa và dịch vụ ngày càng đa dạng. Điều này thể hiện sự phát triển của thị trường từ sự sơ khai cách đây một thập kỷ, khi Nghị định 59 bắt đầu có hiệu lực thi hành.
Cùng với sự phát triển của khoa học công nghệ, và nhất là công nghệ thông tin, dịch vụ bây giờ rất phát triển. Chẳng hạn WTO có liệt kê tới hơn 150 mảng dịch vụ khác nhau. Hơn nữa, trong những dịch vụ tưởng như cổ điển lại phái sinh ra những loại dịch vụ khác. Như Internet trong viễn thông, thương mại điện tử, ngân hàng điện tử...
Đối với bất kỳ một cái mới nào nảy sinh, bao giờ cũng có hai cách phản ứng khác nhau. Một là chấp nhận nó một cách chủ động, và tìm cách thích ứng với nó. Hai là thụ động đi theo nó, và sau đó là tìm cách kiểm soát nó. Vấn đề cốt lõi nằm ở chỗ thái độ lựa chọn cách ứng xử của các cơ quan quản lý nhà nước.
Rất tiếc cho đến nay, Nhà nước luôn tiếp cận cái mới ở thế bị động.
Xin ông dẫn chứng cụ thể.
- Chẳng nói đâu xa, câu chuyện game online đang gây tranh cãi trong dư luận là một ví dụ điển hình. Chúng ta thấy nó mới xuất hiện rầm rộ, và, cùng lúc đó, thấy hiện tượng bạo lực trên đường phố và trong học đường gia tăng. Thế là chúng ta dễ dàng cho nó là thủ phạm, bởi trong game online có những trò chơi bạo lực.
Các nhà quản lý không phải không có lý. Nhưng đó có phải là thủ phạm duy nhất hay không? Hay còn có nhiều yếu tố khác? Như tác động từ phía xã hội, gia đình, và nhà trường. Hay, ở một mức độ cao hơn, là các giá trị đạo đức, lý tưởng chưa ngấm được vào giới trẻ, và giúp họ có khả năng tự đề kháng đối với những chuyện bạo lực đó?
Chúng ta cứ đơn giản kết tội cho game online, mà không có điều tra, khảo sát, phân tích, và cuối cùng là xét xử. Chúng ta cứ hồn nhiên ra một lệnh cấm, hoặc hạn chế, thế là xong.
Ai sẽ là người điều tra, khảo sát để có kết quả độc lập và khách quan? Bởi, nếu để các nhà quản lý làm việc này, họ có thể điều tra theo hướng để kết quả điều tra làm đơn giản công tác quản lý của họ.
- Đúng vậy. Đối với các điều tra, hay khảo sát, về xã hội học để quyết định xem nhà nước có nên quản lý hay không, nếu để một tổ chức độc lập thực hiện thì kết quả sẽ khách quan. Hay để đối tượng được thụ hưởng một loại dịch vụ, hàng hóa nào đó tham gia, họ sẽ đóng góp ý kiến phản biện để kết luận được cân bằng hơn về lợi ích của các bên.
- Tức là điều tra, khảo sát phải đảm bảo tính tổng thể, toàn diện và khách quan, tức là không được có định kiến. Chẳng hạn, người điều tra tội phạm mà luôn có định kiến là ai đó phạm tội, anh ta sẽ chỉ chăm chăm những chứng cớ củng cố cho nhận định của mình, mà bỏ qua những chứng cớ chứng tỏ nghi phạm là vô tội.
Như vậy, những việc này hoàn toàn có thể do xã hội, hay thị trường làm, mà không nhất thiết cần đến sự bao đồng của nhà nước?
- Đúng vậy. Những gì mà xã hội, thị trường có thể tự làm được, tự giám sát được thì để họ làm. Vừa hiệu quả, vừa đỡ mắc với tiêu chí về qui chế thị trường, nhà nước lại đỡ mệt mỏi chuyện bộ máy. Mô hình chúng ta phải tiến tới là Nhà nước nhỏ nhưng hiệu quả, một xã hội dân sự năng động và nhiệt tâm. Phải xây dựng được thiết chế để đảm bảo đánh thức ý thức của người tiêu dùng, của doanh nghiệp, và đảm bảo cho hội của họ thực sự là những tổ chức thực chất, độc lập và mạnh.
Nhưng khổ cái, câu chuyện xã hội dân sự hiện vẫn dược coi là điều đụng chạm?
- Con đường nào cũng tới Rome, nhưng vấn đề nằm ở chỗ con đường nào ngắn nhất tới Rome, và đây là câu chuyện cạnh tranh của tất cả các quốc gia trên thế giới trong quá trình phát triển. Việc ám ảnh quá mức tới tính chất chính trị của hội đoàn của các nhà lãnh đạo khiến vai trò thực sự của các tổ chức xã hội dân sự trong việc giải quyết các vấn đề xã hội, thị trường, và, trên thực tế, giảm bớt gánh nặng quản lý cho chính nhà nước, lại bị bó hẹp lại.
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét