Thứ Ba, 8 tháng 11, 2011

Nhìn lại khu vực kinh tế nhà nước từ con tàu Vinashin

Chính việc đầu tư tràn lan là những cơ hội để lợi dụng bỏ tiền nhà nước vào các dự án. Bởi lãnh đạo của các tập đoàn kinh tế nhà nước như Vinashin là những người được bổ nhiệm có thời hạn và theo lẽ tự nhiên, họ phải thông qua càng nhiều dự án càng tốt, và càng thu lợi cho cá nhân nhiều hơn.

LTS: Việc một số tập đoàn nhà nước làm ăn không hiệu quả và gần đây nhất là vụ đổ vỡ của Vinashin khiến dư luận không thể không cho rằng: đang rất cần một cuộc xác định nghiêm túc lại vai trò của khu vực , mà đến nay vẫn và sẽ tiếp tục được coi là giữ vao trò chủ đạo của nền kinh tế. Đây cũng là nội dung cuộc trò chuyện với chuyên viên kinh tế Nguyễn Minh Phong trong "Gặp gỡ & Đối thoại" thứ Năm tuần này.
Cuộc trò chuyện này không tập trung phân tích sâu vấn đề, mà chỉ gợi ra những ý tưởng cho các chuyên gia, độc giả và cả những người có trách nhiệm cùng suy nghĩ và trao đổi, trong một mục đích chung là tìm hướng đi hiệu quả nhất cho nền kinh tế Việt Nam đang hội nhập.
Cuộc trò chuyện cũng không nhằm mổ xẻ Vinashin, tập đoàn vốn đã bị mổ xẻ quá nhiều trong những ngày gần đây. Những kinh nghiệm của Vinashin chỉ được đưa ra như những biểu hiện lâm sàng thuyết phục nhất khi bàn về căn bệnh tiềm ẩn, mà nhiều người đã đề cập của các tập đoàn kinh tế, hay nói rộng hơn là khối doanh nghiệp nhà nước.
Quá lợi dụng sự phát triển đa ngành để đầu tư lung tung
- Xin cho biết quan điểm của ông về vai trò của khu vực kinh tế nhà nước, trong đó DNNN đóng vai trò đầu tàu dẫn dắt nền kinh tế?
Chuyên viên kinh tế Nguyễn Minh Phong: Chúng ta cứ nói rằng trong nền kinh tế DNNN là chủ đạo, nhưng điều này gây tranh cãi rất lớn. Người ta hoàn toàn có thể đặt vấn đề khác đi, khi nói rằng vai trò DNNN rất quan trọng. Như vậy, dễ nghe hơn nhiều, và cũng tạo ra dư địa để tìm ra cái vai hợp nhất cho các diễn viên DNNN đóng.
Theo cách đặt vấn đề đó, chúng ta có thể đưa ra những gợi ý rằng DNNN có vai trò quan trọng ở những lĩnh vực nào. Nếu để giúp nhà nước giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa trong khi xây dựng nền kinh tế thị trường, hay để phát triển những lĩnh vực nhằm đảm bảo đời sống xã hội, DNNN không phải là doanh nghiệp kinh doanh theo mục đích thương mại tự thân. Bởi lợi ích, lợi nhuận, thị trường không phải lợi ích tự thân của DNNN.
Theo tôi, DNNN có mục đích làm đối trọng với độc quyền của tư nhân, nhất là với những doanh nghiệp tư nhân quá mạnh có thể cấu kết với nhau để thao túng thị trường theo kiểu độc quyền.
Thứ hai, DNNN phải tham gia vào những lĩnh vực mà tư nhân không muốn làm, chẳng hạn đầu tư phát triển vùng sâu vùng xa, nhằm đảm bảo đời sống xã hội ổn định ở những chỗ đó.
Thứ ba, DNNN có thể tham gia vào những lĩnh vực có rủi ro mà các khu vực kinh tế khác chưa dám làm, để tạo cú hích cho xã hội.
Thứ tư là đầu tư trong những lĩnh vực độc quyền của nhà nước như sản xuất vũ khí, hay khai thác vàng ở những vị trí nhạy cảm với an ninh quốc gia..., hoặc, chẳng hạn, kinh doanh nhà tù.
Qua đó, theo tôi, DNNN không thể nhân danh vì lợi ích thị trường mà họat động, cạnh tranh như nhữnng doanh nghiệp bình thường khác. Bởi DNNN được hưởng rất nhiều ưu đãi về tín dụng, đất đai và quyền kinh doanh. Nếu họ muốn họat động theo kiểu thị trường canh tranh bình đẳng, những ưu đãi trên phải bị xóa bỏ.
Nếu làm rõ được điều này, chắc chắn Việt Nam sẽ loại bớt được nhiều doanh nghiệp trong khu vực nhà nước, từ chiếm tỷ trọng 80% trong nền kinh tế xuống chỉ còn 10-20% thôi, thậm chí thấp hơn.
Nói tóm lại, vai trò của doanh nghiệp nhà nước, họat động chủ yếu bằng tiền thuế thu từ xã hội hay tiền bán tài nguyên chung của đất nước, dứt khoát phải làm nhiệm vụ cân đối và phân bổ lại các lợi ích cho xã hội.
Tiến sĩ Nguyễn Minh Phong,. Ảnh Huỳnh Phan
- Theo ông, việc đầu tư tràn lan vào các dự án của một tập đoàn kinh tế nhà nước như Vinashin tại sao lại diễn ra dễ dàng và nhanh chóng như vậy?
Vinashin quá lợi dụng sự phát triển đa ngành để đầu tư lung tung. Trong bối cảnh tham nhũng phát triển, lý tưởng bị suy giảm, và cơ chế còn nhiều lỗ hổng, chính việc đầu tư tràn lan là những cơ hội để lợi dụng bỏ tiền nhà nước vào các dự án. Bởi lãnh đạo của các tập đoàn kinh tế nhà nước, như Vinashin, là những người được bổ nhiệm có thời hạn và theo lẽ tự nhiên, họ phải thông qua càng nhiều dự án càng tốt, và càng thu lợi cho cá nhân nhiều hơn.
Câu chuyện cốt lõi nằm ở chỗ chính phủ cho họ trở thành tập đoàn, được phép kinh doanh đa ngành một cách ồ ạt thiếu sự chuẩn bị cả về mặt pháp lý lẫn kinh nghiệm. Chẳng riêng gì Vinashin các tập đoàn kinh tế nhà nước khác đã đầu tư hàng trăm ngàn tỷ, theo kết luận của kiểm toán nhà nước được công bố hàng năm từ 2007 tới nay vào những dự án kiểu này.
Việc nhân danh đầu tư đa ngành để đầu tư vào những dự án chưa có luận chứng kinh tế đầy đủ là một trong những nguyên nhân khiến không ít các tập đoàn kinh tế nhà nước bị thua lỗ nặng. Nhưng, về nguyên tắc, đầu tư đa ngành là điều tất yếu, bởi thị trường luôn mở ra những cơ hội mới, sân chơi mới cho doanh nghiệp hoạt động chưa hết công suất, hay phát hiện ra cơ hội lợi nhuận lớn.
Nhưng mặt khác, đây là câu chuyện thương mại, câu chuyện lỗ lãi, nên đòi hỏi tính chuyên nghiệp và tính trách nhiệm rất cao. Đất này không dành cho những kẻ tay mơ, cứ tưởng tàu mình đóng lướt sóng tốt là mình "lướt sóng" chứng khoán cũng ngon.
Công bố thông tin tài chính doanh nghiệp làm hình thức
- Thưa ông, kể từ năm 2007, trong các báo cáo kiểm soát, báo cáo giám sát thường niên của quốc hội đều nêu gương Vinashin như một đối tượng lớn. Nhưng tại sao họ vẫn tiếp tục được khoanh nợ, giãn nợ, và thậm chí được chỉ định tiếp tục vay nợ?
Bởi những chuyện đó, kể cả công bố thông tin tài chính doanh nghiệp đều được làm rất hình thức. Nhiều thông tin còn bị ém lại, không được công bố. Các báo cáo tài chính của tập đoàn này đều được làm đẹp.
Điều đó còn cho thấy hiệu lực của giám sát thanh tra rất kém. Giá như những hồi chuông cảnh báo, cảnh tỉnh đó được lắng nghe và đáp ứng sớm, hậu quả đã không tai hại như bây giờ. Nhưng nếu giờ đây bài học Vinashin được áp dụng ngay, sẽ tránh dược nhiều cuộc đổ vỡ tiếp tục trong tương lai.
Việc thi đua khen thưởng trong khối DNNN cũng là một tác nhân khiến Vinashin phần nào đó che mắt được không ít người. Nếu vào trang web của Vinashin vào tháng 3.2010, chúng ta vẫn thấy họ đăng dòng thông báo là Vinashin đứng thứ ba trong thi đua yêu nước của toàn bộ khối DNNN năm 2009. Để rồi, sau đó mấy tháng thì sụp.
Công tác thông tin về thi đua yêu nước có mặt tốt là kích thích tất cả những động lực tốt, nhưng nếu làm hình thức nó sẽ tạo ra lớp hỏa mù, tạo ra nhiễu giá trị. Hay nói nó tạo ra "làn sương khói mờ nhân ảnh" để che đi cái "bộ mặt thật" trong con mắt cả xã hội, cộng đồng doanh nghiệp và cả các cơ quan chức năng.
- Theo qui định, tập đoàn do thủ tướng chủ quản, và thủ tưởng giao cho các cơ quan chính phủ dưới quyền thực hiện việc giám sát và kiểm soát. Trong trường hợp Vinashin, có hai bộ giữ vai trò kiểm soát và giám sát rất rõ ràng. Vậy vai trò của Bộ GTVT và Bộ Tài chính ở đâu khi xảy ra những sai phạm liên tục ở tập đoàn này?
Vinashin chịu trách nhiệm trước thủ tướng, các bộ cũng chịu trách nhiệm trước thủ tướng. Vậy cho nên cũng chẳng ông nào hơn ông nào, mà thực hiện quyền nọ quyền kia với nhau.
Riêng về Bộ Tài chính, Tổng công ty Đầu tư và Kinh doanh vốn nhà nước (SCIC) không phát huy đầy đủ vai trò mà lẽ ra nó phải thể hiện, tức là quản lý nguồn vốn đầu tư của doanh nghiệp nhà nước, mà chỉ mới là anh kế toán ghi sổ sách. Vì vậy, có nêu ý kiến, kiến nghị gì cũng dễ dàng bị bác luôn.
Có lẽ điều duy nhất SCIC có vai trò trong vụ Vinashin là thực hiện chỉ đạo của lãnh đạo chính phủ mua lại với giá gốc phần đầu tư của tập đoàn này vào chứng khoán Bảo Việt, mặc dù giá thị trường đang rất thấp. Người ta nói rằng việc SCIC bỏ lơ việc quản lý vốn nhà nước trong doanh nghiệp khiến cho nhiều DNNN còn họat động kém hơn thời họ chưa thành lập, bởi chức năng này lúc đó đã có bộ phận khác lo.
Còn về Bộ Công Thương, về nguyên tắc, là bộ chủ quản. Nhưng hoạt động của DNNN, trong đó có các tập đoàn kinh tế, lại tuân theo các luật và qui định khác nhau, và ít nhiều có tính độc lập so với bộ chủ quản. Bản thân luật cũng có nhiều kẽ hở, hay nói cách khác là có cách hiểu khá thoải mái và tùy tiện, tiện cho việc xuê xoa hay phớt lờ vì ngại va chạm hay vì lợi ích cá nhân.
- Tức là, nói một cách khác, cơ chế kiểm soát giám sát đối với các tập đoàn kinh tế nhà nước thì mơ hồ, còn bộ máy thực hiện việc này thì quá yếu, nếu không nói là quá ít tính hiệu lực?
Các cơ quan chức năng cũng đã thừa nhận rằng phần lớn các vụ tiêu cực tham nhũng lớn đều do báo chí phát hiện. Theo tôi, đây không phải là lời khen cho báo chí, bởi báo chí Việt Nam cũng chưa có đủ quyền thực hiện nhiều cuộc điều tra độc lập, mà là thừa nhận vai trò hữu hạn của các cơ quan chức năng.
Hơn nữa, có một thực tế là cơ quan giám sát, cơ quan thanh kiểm tra họat động theo chỉ đạo của thủ trưởng đơn vị. Trong khi đó thủ trưởng một đơn vị lại cũng hoạt động trong một mối quan hệ nào đó với thủ trưởng các đơn vị khác. Điều đó, dù muốn hay không, cũng tạo ra giới hạn, sự kiềm tỏa, và vô hình trung, tạo ra sự vô hiệu hóa lẫn nhau.
Tôi nghĩ công tác thanh kiểm tra phải đươc giao cho bên tư pháp mới độc lập tương đối được, chứ không nên để bên hành pháp làm như hiện nay. Nếu năm ngoái, thanh tra nhà nước kiên quyết đề nghị với Thủ tướng cho thanh tra Vinashin, thiệt hại sẽ đỡ hơn rất nhiều, và ông chủ tịch cũng đỡ khốn khổ như bây giờ.
Đó là chưa nói đến việc thanh tra theo định kỳ. Đây là kẽ hở rất lớn cho doanh nghiệp bị thanh tra có cách chống đỡ, và đất cho những câu chuyện lợi ích phát triển.
Quản lý theo tư duy nhiệm kỳ
Khi thành lập tập đoàn công nghiệp tàu thủy Việt Nam, một trong những điều được nhân danh là để phát triển những ngành khác, nhất là công nghiệp cơ khí. Tuy nhiên, ngành công nghiệp cơ khí không nhận được sự lan toả đó. Thưa ông, vì sao? Bởi điều này cũng đúng với nhiều tập đoàn khác, khi không đảm đương được vai trò dẫn dắt các doanh nghiệp khác trong nền kinh tế cùng phát triển?
Lẽ ra, các doanh nghiệp cơ khí trong nền kinh tế phải được liên kết trong một chuỗi, nhưng thực tế, tự Vinashin đẻ thêm ra những công ty mới, những dự án mới, và sự liên kết đó nằm bó gọn trong Vinashin. Bản thân Vinashin cũng không phải tạo ra sức liên kết, lan tỏa với ngay cả các DNNN khác, nói gì đến tư nhân. Bởi, theo những gì tôi tìm hiểu, mục đích chính của họ dường như không phải là sự lan tỏa đó, mà nhu cầu giãn nợ, nhu cầu huy động thêm vốn. Các dự án, doanh nghiệp mới chính là cái cớ rất tốt.
Lẽ ra, DNNN phải có vai trò rất lớn trong việc tạo ra các mối liên kết, trong ngoài, trên dưới, để tạo ra một chuỗi phát triển, nhất là cạnh tranh để tham gia chuỗi giá trị của toàn cầu. Nhưng vai trò của Vinashin và các tập đoàn kinh tế nhà nước khác là hầu như không có. Toàn bộ tư duy dự án, thời vụ, tư duy của lãnh đạo theo nhiệm kỳ, hay nói gọn là tư duy lợi ích chụp giật, đã lấn át và áp đảo tất cả các tư duy kinh tế khác, như dài hạn, liên kết và hiệu quả.
Việc sinh đẻ tràn lan các công ty con trong các tập đoàn kinh tế nhà nước, điển hình là Vinashin với thêm 200 công ty mới được thành lập, liệu có bóng dáng của những vụ đã xảy ra trong khu vực kinh tế tư nhân trước đây hay không? Tức là hàng loạt công ty con được thành lập, giám đốc được bổ nhiệm lung tung, chỉ cốt để đi vay tiền ngân hàng?
Tôi chưa có nghiên cứu sâu về tên và bức tranh họat động kinh tế của 200 công ty đó. Nhưng rõ ràng việc lập ra 200 công ty mới, thay vì mở rộng sự liên kết với bên ngoài, và cũng không có nhiều sự hỗ trợ cho công ty mẹ phát triển hoàn toàn có thể dẫn tới suy luận logic như anh.
- Người ta nói, ở nước ngoài, quá trình thành lập tập đoàn là quá trình tự nhiên. Người ta phải mở thêm những ngành mới, chủ yếu các đối tác làm ăn lâu dài với nhau tự nhiên thấy cần phải đầu tư vốn để mở rộng sản xuất - kinh doanh, và tạo liên kết cho chặt. Liệu cái cách thành lập tập đoàn theo mệnh lệnh hành chính của Việt Nam chính là nguyên nhân của cơ sự bây giờ không?
Chúng tôi cũng nghiên cứu về vấn đề này. Ở nước ngoài, hình thức thành lập tập đoàn theo nhu cầu kinh tế, tức là các doanh nghiệp có liên hệ với nhau về sản phẩm và thị trường có nhu cầu liên kết với nhau để hình thành sự phân công chuyên môn hóa, hợp tác hóa, hoặc đầu tư lẫn nhau, để cùng tồn tại và phát triển tốt hơn.
Cái cách của Việt Nam cũng chẳng phải không giống ai đâu. Ở nước ngoài cũng tồn tại hình thức này. Có điều, chủ yếu ở các nước xã hội chủ nghĩa cũ, và hiệu quả của chúng thế nào anh biết rồi đấy (cười).
Hàn Quốc dưới thời Pak Chung-hee, đã có những tổ chức chaebol rất mạnh theo nghĩa đó, tức là vốn được vay theo bảo lãnh của chính phủ, lỗ được cấp bù, họat động theo sự chỉ đạo chung của chính phủ. Tuy xuất thân của chúng là những công ty gia đình.
Nói gì thì nói, những chaebol này đã tạo ra xương sống nền kinh tế, tuy sau đó bị thất bại. Có điều, sau một cú sốc, họ đã tái cấu trúc lại, cái nào tệ quá thì bỏ đi, và bây giờ chaebol phát triển mạnh hơn.
Việt Nam đã đến lúc phải như vậy. Cần tái cấu trúc lại với sự tham gia của các thành phần kinh tế khác nhiều hơn, với định hướng kinh tế rõ ràng hơn, và hoạt động lành mạnh hơn, thị trường hơn.
Tôi nghĩ tập đoàn kinh tế nhà nước của Việt Nam được hình thành trên một nhận thức tiên tiến về mô hình phát triển, nhưng bước đi và mô hình ban đầu vẫn bị mơ hồ quá. Tức là chúng ta làm một cái mới mà để quán tính và lợi ích cũ chi phối nhiều quá. Hay nói cách khác, con tàu mà chúng ta đang đi, tuy có cái vỏ mới, nhưng máy móc, thiết bị trên tàu đã quá đát rồi.
Nên chuyển từ vai trò chủ đạo sang vai trò nòng cốt
Chắc ông có nghe về sự thu hẹp lại qui mô và mục tiêu cuối cùng của đề án tái cấu trúc nền kinh tế. Đề án này đã được xây dựng từ ý tưởng rất tham vọng và tốt đẹp ban đầu là nâng cao tính hiệu quả của nền kinh tế, và, theo đó, xác định lại vai trò của lực lượng dẫn dắt nền kinh tế và phân bổ lại nguồn lực đầu tư cho hợp lý. Tuy nhiên, quá trình cổ phần hóa bị đình hoãn, rồi tư duy tập trung mọi nguồn lực cho tập đoàn kinh tế nhà nước, đã khiến cho đề án này phải đi chệch so với mục tiêu ban đầu, ngay cả tên gọi cũng bị thay đổi. Liệu việc đổ vỡ của Vinashin này, nhìn theo hướng tích cực, có tạo một cơ hội mới để những người có trách nhiệm suy nghĩ, nhìn nhận đúng hơn về vai trò của tập đoàn kinh tế nhà nước, rộng hơn là vai trò của khu vực kinh tế nhà nước, trong nền kinh tế. Và, từ đó, sẽ có một cơ hội nào đó cho đề án này được phục hồi như ý tưởng ban đầu?
Theo tôi, vai trò của tập đoàn kinh tế nhà nước trong tương lai là một vấn đề cốt lõi cần xem xét lại một cách nghiêm túc. Chúng ta đã có bước tiến nhất định trong tư duy cổ phần hóa, dù chậm và thiếu chủ động. Bây giờ, phải có bước thay đổi tiếp theo.
Vai trò của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế nên chuyển từ vai trò chủ đạo, sang vai trò nòng cốt ở một số lĩnh vực quan trọng. Bởi tư tưởng chủ đạo khiến ở lĩnh vực nào khu vực kinh tế nhà nước vẫn phải có mặt, vẫn phải chiếm đa số. Còn nòng cốt ở một số lĩnh vực quan trọng là cái nào tư nhân không làm được hoặc làm quá kém, cái nào cần nhà nước độc quyền thì DNNN mới tham gia.
Và tham gia từng bước một, rồi khi tư nhân tham gia tốt rồi, nhà nước có thể rút dần ra bằng cách bán bớt cổ phần. Sau đó, thực hiện những cơ chế để giảm thiểu tỷ trọng của khu vực kinh tế nhà nước trong nền kinh tế. Điều này cũng phù hợp với xu hướng kinh tế thế giới, khi khu vực kinh tế nhà nước chỉ 10%-20%, và khiến cho các nguồn lực quốc gia đỡ bị lãng phí.
- Người ta hay đưa ra một hình ảnh thế này: Việt Nam gia nhập WTO là ra biển lớn từ con sông nhỏ. Nhưng, khổ nỗi, các doanh nghiệp tư nhân Việt Nam muốn ra biển, lại vướng các doanh nghiệp nhà nước, nhất là các tập đoàn, như những con tàu to mà chạy chậm, chắn chình ình hết ở cửa biển. Thành ra con tàu tư nhân nhỏ hơn, tuy tốc độ cao hơn nhiều, vẫn không có kẽ mà lách ra. Kết quả là cả một nền kinh tế bị tắc nghẽn ở cửa biển.
Ông bình luận gì về bức tranh này?
Đó là một bức tranh tả thực. Họ quên mất rằng cuộc chơi này là cuộc chơi ở biển, ở đại dương, chứ không phải trên khúc sông như anh vừa đề cập. Bố tôi ngày xưa hay mắng con cái: "Chúng mày là lũ khôn nhà dại chợ". Tôi thấy sao câu đó đúng với cách tư duy của chúng ta hiện nay thế, đúng với khu vực kinh tế nhà nước, DNNN đến thế. Đó là chưa nói đến điều hành nền kinh tế hiện nay.
Ngay thậm chí khi nhà nước thua to, nhưng cá nhân thắng nhỏ họ vẫn cứ chơi. Vinashin mua 12 cái tàu cũ làm gì, mua xong bỏ đó. Hay tàu cao tốc Hoa Sen cũng mang về đắp chiếu, sau khi chạy thử 1-2 chuyến.
Sau vụ tái cấu trúc Vinashin, cũng có luồng ý kiến hy vọng rằng nhà nước sẽ có sự nhìn nhận lại vai trò và cấu trúc của tập đoàn và biết đâu sẽ tìm ra hướng phát triển các tập đoàn đúng đắn hơn. Bởi dù sao thực thể kinh tế này đã tồn tại, bất chấp sự phản đối, phản biện của nhiều người. Chẳng hạn, trước mắt, để biến thành quả đấm thép, bàn tay phải nắm chặt lại trong ngành kinh doanh lõi, thay vì xòe hết các ngón tay ra trong sự kinh doanh đa ngành?
Chẳng qua đây là chuyện họ bất đắc dĩ phải làm, nếu không thì hậu quả còn vô cùng nghiêm trọng. Chứ báo động đỏ có từ năm 2007 cơ mà. Và với tư duy đó của họ, tôi không mấy lạc quan về tương lai. Một khi chủ thuyết phát triển chưa thay đổi, bộ giá trị chuẩn chung của anh chưa được điều chỉnh thích ứng, và hợp lý hóa, và cơ chế vẫn như cũ, vẫn sẽ có tiếp tục những Vinashin Đệ Nhị, Đệ Tam, đến Đệ N.
Việc tách Vinashin làm ba, theo tôi hiểu, nhận thức của nhà nước vẫn chưa thay đổi. Việc Vinashin đăng ký mấy chục lĩnh vực đầu tư từ xuất nhập khẩu, resort đến sản xuất bia, trong đề án tái cơ cấu mới nhất, các nhà lãnh đạo có thẩm quyền vẫn cho phép Vinashin đăng ký lại. Nhưng hoạt động quan trọng nhất của tập đoàn này là đóng tàu thì lại bị xé ra đưa sang chỗ khác.
Đành rằng, chuyển vận tải biển sang Vinalines là có vẻ hợp lý, khi tập đoàn này chuyên về vận tải biển. Nhưng anh giải thích với tôi thế nào về việc chuyển một phần đóng tàu, mặc dù họ nói là đóng tàu dầu sang Petro Vietnam cho có vẻ hợp lý, chuyên về khai thác dầu khí? Theo tôi, đây chỉ là câu chuyện xiết nợ.
Tôi vẫn nghiêng về quan điểm rằng việc tái cấu trúc lại Vinashin không phải nhằm tạo ra một tập đoàn đóng tàu mạnh, mà chỉ để gỡ cho một thực thể kinh doanh đang bị vỡ nợ. Nhưng kèm theo đó, họ lại đặt nền móng cho một Vinashin đệ nhị có tên là Petro Vietnam - hiện vẫn khả dĩ được coi là họat động lành mạnh.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét